Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Kỹ thuật chơi đàn nguyệt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (73.79 KB, 8 trang )

Kỹ thuật chơi đàn nguyệt
1. GIỚI THIỆU VỀ ĐÀN NGUYỆT:
Đàn Nguyệt (Nguyệt Cầm), trong miền Nam còn gọi là Đờn Kìm, Vọng
Nguyệt Cầm, hay Quân Tử Cầm là nhạc cụ dây gảy của dân tộc Việt.
Loại đàn này có hộp đàn hình trịn như mặt trăng được gọi là “Đàn
Nguyệt”. Theo sách xưa, đàn nguyên thủy có 4 dây, sau rút lại cịn 2 dây.
Sách của Phạm Đình Hổ ghi rằng đàn nguyệt xuất hiện ở Việt Nam vào thế
kỷ 18.
Đàn Nguyệt là cây đàn rất phổ biến dùng để độc tấu, hịa tấu với nhiều
ngón chơi độc đáo như ngón nhấn, ngón vê, ngón luyến… Màu âm đàn
Nguyệt tươi sáng, rộn ràng, tình cảm, đa dạng trong diễn tả các trạng thái
cảm xúc âm nhạc. Đàn Nguyệt được sử dụng trong hát Chèo, Chầu Văn,
Ca Huế, Đờn Ca Tài Tử và Cải Lương…
2. CẤU TẠO CỦA ĐÀN NGUYỆT:
Đàn nguyệt có những bộ phận chính như sau:
– Bầu vang: Bộ phận hình trịn ống dẹt, đường kính mặt bầu 30 cm, thành
bầu 6 cm. Nền mặt bầu vang có bộ phận nằm phía dưới gọi là ngựa đàn
(cái thú) dùng để mắc dây. Bầu vang khơng có lỗ thốt âm.
– Cần đàn (hay Dọc đàn): làm bằng gỗ cứng, dài thon mảnh, bên trên
gắn 8-11 phím đàn, trước đây chỉ gắn 8 phím (nay những người chơi nhạc
tài tử Nam bộ vẫn thường dùng đàn 8 phím). Những phím này khá cao,
nằm xa nhau với khoảng cách không đều nhau.
– Đầu đàn: hình lá đề, gắn phía trên cần đàn, nó có 4 hóc luồn dây và 4
trục dây, mỗi bên hai trục.
– Dây đàn: có 2 dây, trước đây làm bằng dây tơ, ngày nay thường làm
bằng dây nilon. Tuy có 4 trục đàn nhưng người ta chỉ mắc 2 dây (một dây
to một dây nhỏ). Cách chỉnh dây thay đổi tùy theo người sử dụng. Có khi 2
dây cách nhau quãng 4 đúng, có khi cách quãng năm đúng hoặc quãng
bảy hay quãng tám đúng. Song cách thông dụng nhất vẫn là lên dây theo
quãng năm đúng. Đàn nguyệt là nhạc cụ khảy dây, được dùng thường
xuyên trong ban nhạc chầu văn, tài tử, phường bát âm và trong nhiều dàn


nhạc dân tộc khác.
3. KỸ THUẬT CHƠI ĐÀN NGUYỆT:
Một số kỹ thuật sử dụng tay phải trong đàn nguyệt như sau:


– Ngón phi: lối đánh cổ truyền, khơng dùng miếng khảy mà sử dụng những
ngón tay vẩy liên tiếp nhanh trên dây đàn, hiện quả âm thanh gần giống
như ngón vê. Ngón phi có hai cách diễn:
+ Phi lên: thường sử dụng trên một dây đàn, bắt đầu từ ngón út rồi lần
lượt những ngón khác hất vào dây đàn.
+ Phi xuống: sử dụng trên cả 1 dây đàn hoặc trên cả 2 dây. Phi xuống là
vẫy nhanh các ngón tay vào dây đàn, bắt đầu từ ngón út (có khi bắt đầu
từ ngón trỏ) rồi lần lượt những ngón khác khảy dây đàn.
Khi biểu diễn ngón phi người ta dùng 4 ngón tay (khơng sử dụng ngón tay
cái). Nếu đánh bằng miếng khảy đàn họ chỉ sử dụng 3 ngón vì ngón cái và
ngón trỏ phải giữ miếng khảy.
– Ngón vê: khảy liên tiếp trên dây đàn. Kỹ thuật này thường dùng trong
nhạc hát văn. Cách vê có thể bằng móng tay hay miếng khảy, vê 1 dây
hoặc 2 dây đều được.
– Ngón gõ: dùng những ngón tay phải gõ vào mặt đàn, mục đích để báo
hiệu cho hát, cho các nhạc khí khác hịa tấu hoặc điểm giữa những nhạc
cụ, đoạn nhạc hay những lúc các nhạc cụ khác ngưng hoạt động.
– Bịt: làm âm thanh vừa vang lên liền tắt đột ngột. Kỹ thuật sử dụng tay
trái trong đàn nguyệt gồm có 12 cách: ngón rung, ngón nhấn, ngón nhấn
luyến, nhấn luyến, ngón láy, ngón láy rền và ngón láy giật. Trước đây
người ta ít sử dụng ngón vuốt, nhưng ngày nay có thể xem nó là kỹ thuật
số 9 của tay trái. Kế tiếp là ngón bật dây, âm bội và đánh chồng âm (hợp
âm).
Đàn nguyệt được sử dụng rộng rãi trong dòng nhạc dân gian cũng như
cung đình bác học cổ truyền của người Việt, xuất hiện trong mỹ thuật Việt

Nam từ thế kỷ XI, cho tới nay nó vẫn giữ một vị trí rất quan trọng trong
sinh hoạt âm nhạc của người Việt. Đàn nguyệt có hai dây, thuộc bộ dây
chi gảy của dân tộc Việt. Ngồi tên gọi đàn nguyệt cịn có các tên gọi khác
là đàn kìm, quân tử cầm, vọng nguyệt cầm. Tên gọi đàn nguyệt do có mặt
đàn hình trịn như mặt trăng.
– Đáy đàn và mặt đàn để mộc được làm bằng gỗ ngơ đồng đặc tính nhẹ và
xốp, có đường kính khoảng 30 cm.
Trên mặt đàn có gắn ngựa đàn (hay yếm đàn) để mắc dây. Thành đàn (hay
cịn gọi là hơng đàn) làm bằng gỗ cứng thấp khoảng 5 cm – 6 cm, có thể
để trơn hay khảm trai. Hộp đàn kín hồn tồn, khơng có lỗ thoát âm như
đa số các loại đàn dầy gảy khác.
– Cần đàn được làm bằng gỗ cứng (có thể để trơn hay khảm trai), dài
khoảng 1m trên có gắn các phím đàn bằng tre với khoảng cách khơng đều
nhau theo thang 5 âm.


– Dây đàn được làm bằng dây nilon. Đàn có hai dây, dây cao (cịn gọi là
dây ngồi hay dây tang) nhỏ hơn dây trầm (còn gọi là dây trong hay dây
tồn).
– Trục lên dây được làm bằng gỗ cứng xun qua hai lỗ phía đầu cần đàn.
– Móng gảy đàn thường bằng miếng sừng trâu.
– Đàn nguyệt có nhiều kiểu lên dây khác nhau, tuỳ theo yêu cầu của tính
chất âm nhạc mà quyết định kiểu lên dây nào thích hợp.
Có 3 kiểu lên dây chính:
Dây Bắc: Dây trầm cách dây cao một qng 5 đúng (Fà-Đơ). Dây bắc
thích hợp với âm nhạc vui tươi, hùng tráng.
Dây Oán: Dây trầm cách dây cao một qng 6 đúng (Mì-Đơ). Dây oán
thích hợp với âm nhạc nghiêm trang, sâu lắng.
Dây Tố Lan: Dây trầm cách dây cao một quãng 7 thứ (Rề-Đơ). Dây tố lan
thích hợp với âm nhạc dịu dàng, mềm mại.

Âm thanh Ðàn Nguyệt tươi sáng, rộn ràng rất thuận lợi để diễn tả tình cảm
sâu lắng. Ðàn Nguyệt có tầm âm rộng hơn hai qng 8 từ: Ðơ1 đến Rê3
(C1 đến D3) nếu dùng ngón nhấn sẽ có thêm hai âm nữa. Tầm âm có thể
chia ra 3 khoảng âm với đặc điểm như sau:
– Khoảng âm dưới: tiếng đàn ấm áp, mềm mại, biểu hiện tình cảm trầm
lặng, sâu sắc.
– Khoảng âm giữa: là khoảng âm tốt nhất của Ðàn Nguyệt, tiếng đàn
thanh thót, vang đều, diễn tả tình cảm vui tươi, linh hoạt.
– Khoảng âm cao: tiếng đàn trong sáng nhưng ít vang.

Tư thế cầm đàn và gẩy đàn
Tư thế ngồi: Có 3 kiểu
+ Ngồi xếp chân trên chiếu
+ Ngồi vắt chéo chân trên ghế
+ Ngồi tì gót chân phải vào thang ghế
Cả ba tư thế ngồi trên đều phải tự nhiên, thoải mái, thành đàn phía dưới tì
lên đùi phải. Lưng đàn áp sát vào cạnh sườn, nách tì nhẹ lên thành đàn
trên. Tay trái đỡ cần đàn, đầu đàn chếch lên phía trên sao cho cao hơn vai
một chút.


Tư thế đứng: Tư thế đứng ít dùng hơn tư thế ngồi, thường dùng để vừa đi
vừa đàn. Nếu đánh đàn ở tư thế này phải đeo đàn bằng một sợi dây. Cánh
tay phải đè vào mặt đàn giữ cho mặt đàn áp sát vào người, tay trái nâng
cần đàn chếch lên phía trên.
Cách cầm móng gẩy: Khi đánh đàn, ngón cái và ngón trỏ của tay phải cầm
móng gảy, các ngón khác khum lại tự nhiên, nên tránh ngón út duỗi thẳng
và tì vào mặt đàn. Khi gẩy khơng nên đặt móng hờ trên dây vì như vậy
tiếng đàn sẽ yếu, tuy vậy cũng khơng nên để móng q sâu xuống dây vì
tiếng đàn sẽ thơ, khơng gọn và làm mất sự linh hoạt của cổ tay.


Các vị trí gẩy đàn:
+ Nếu vị trí gẩy đàn cách ngựa đàn từ 3 đến 4 cm âm thanh phát ra sẽ có
tiếng đanh, sắc nhưng ít vang.
+ Nếu vị trí gẩy đàn cách ngựa đàn từ 8 đến 9 cm tiếng đàn sẽ chắc, đầy
đặn và vang.
+ Nếu vị trí gẩy đàn cách ngựa đàn từ 15 đến 17 cm âm thanh phát ra sẽ
mềm mại ấm áp nhưng hơi yếu và kém vang.
Cách cầm đàn và bấm dây trên cung đàn: Cây đàn được giữ chắc nhờ kẹp
đàn bằng cánh tay phải, tay trái đỡ cần chỉ giúp cho đàn được thăng bằng
khi gẩy.
– Đốt thứ nhất của ngón cái dựa vào sống cần đàn, tránh để cần đàn dựa
sát vào kẽ tay (giữa ngón cái và ngón trỏ) vì như vậy làm việc di chuyển
lên xuống của tay trái gặp trở ngại, không linh hoạt.
– Cánh tay trái để tự nhiên, không áp sát vào cạnh sườn nhưng cũng
không để khửu tay khuỳnh ra phía ngồi.
– Ngón tay bấm trên cung đàn phải để khum tự nhiên. Các đầu ngón tay
bấm dây xuống cung đàn với mức độ vừa phải. Nếu bầm quá nặng sẽ làm
dây căng, tiếng đàn bị chênh cao. Nếu bấm hờ, dây đàn vừa chạm vào
vào phím chưa đủ mức, tiếng đàn sẽ rè và yếu.
– Các ngón bấm móng tay phải được cắt ngắn, khi bấm ln khum trịn và
chụm, khơng để kẽ tay dỗng hở làm yếu gân ngón bấm, nhất là khi cần
rung và nhấn. Khi gẩy từng tiếng trên dây, ngón bấm khơng duỗi thẳng vì
vậy dễ chạm dây bên cạnh làm trở ngại lúc đánh với tốc độ nhanh. Khi
cần chặn hai dây trên cung đàn mới được phép duỗi thẳng ngón để bấm.


Kỹ thuật tay phải
Ngón vê: Ngón cái và ngón trỏ tay phải cầm móng gẩy, các ngón khác
khum trịn, cổ tay kết hợp với ngón tay điều khiển móng gẩy đánh xuống,

hất lên đều đặn, liên tục trên dây đàn.
Khi vê, đầu móng gẩy khơng nên dặt q sâu xuống dây đàn vì như vậy sẽ
làm dây đàn đứt quãng khơng vê được nhanh. Cũng khơng nên để móng
gẩy q hờ trên dây tiếng đàn phát ra sẽ yếu không vang.
Mặt phẳng của móng gẩy phải để thẳng góc với dây đàn, như vậy mới dễ
vê mà không tạo ra tiếng rè tạp âm.
Động tác vê phải mềm mại, dùng cổ tay phối hợp với ngón tay lắc nhẹ tạo
ra tiếng đàn thật đều đặn, êm ái.
Những nốt cần vê thường là những nốt có độ dài nửa phách trở lên nếu bài
ở tốc độ vừa phải, nốt có độ dài một phách trở lên nếu bài ở tốc độ nhanh.
Ngón gõ: Sử dụng các ngón tay phải gõ vào mặt đàn, thường được sử
dụng trong lúc tất cả các nhạc khí đều nghỉ (dấu lặng) hoặc báo hiệu cho
hát, cho hòa tấu hoặc điểm giữa các câu nhạc hay đoạn nhạc. Ký hiệu
ngón gõ được các vạch chéo (như dấu nhân).
Ngón bịt: Ngón bịt làm cho âm thanh vừa vang lên liền tắt một cách đột
ngột tạo thay sự thay đổi màu âm, ngón bịt diễn tả sự u buồn, nghẹn ngào
hoặc để chấm dứt một đoạn nhạc. Nếu sử dụng liên tiếp ngón bịt lại tạo
hiệu quả khác: biểu lộ sự cứng rắn, dứt khốt.
Có hai cách thể hiện:
– Sử dụng bàn tay hoặc ngón tay vừa gảy chặn ngay dây đàn.
– Sử dụng bàn tay, ở ngang thân ngón út chặn ngang ngựa đàn tạo ra một
âm tối, đục tương tự như sử dụng hãm tiếng (Sourdine). Ký hiệu ngón bịt
được ghi một chấm nhỏ ngay trên nốt nhạc chỉ âm bịt.

GS Trần Văn Khê diễn tấu Đàn Nguyệt.
Kỹ thuật tay trái
Ðàn Nguyệt có tám thế bấm, các ngón được ký hiệu như sau : ngón trỏ (số
1), ngón giữa (số 2), ngón áp út (số 3) và ngón út (số 4); trong mỗi thế
bấm có thể dùng 3 ngón tay (1, 2, 3) để bấm và cả ngón số 4 nữa. Mỗi nốt
có thể bấm bằng một ngón, tuy nhiên khoảng cách giữa mỗi phím Ðàn

Nguyệt hơi rộng ở đầu đàn nên có thể sử dụng cả hai ngón bấm trên một


phím khi thể hiện các kỹ thuật nhấn, nhấn luyến. Khi bấm đàn, ngón tay
trái ln thẳng góc với dây đàn, bấm đầu ngón tay và khơng gãy ngón.
Ngón rung: Là ngón tạo độ ngân dài của tiếng đàn và làm tiếng đàn mềm
đi ở những âm cao, âm thanh đỡ khơ khan, tình cảm hơn. Dây bng cũng
rung được bằng cách nhấn nhẹ ở đoạn dây sát dưới trục dây (giữa trục dây
và sơn khẩu : sơn khẩu là hàng răng để dây đàn chạy luồn qua, đặt ngay ở
đầu cần đàn). Ngón rung có thể ghi trên nốt nhạc hoặc không ghi tùy theo
sự diễn tấu của nghệ sĩ.
Ngón nhấn: Ngón nhấn là bấm và ấn mạnh trên dây đàn làm cho tiếng
đàn cao lên, có nhiều cách thực hiện ngón nhấn.
– Các âm khơng có trong hệ thống cung phím của Ðàn Nguyệt: muốn có
âm đó, nghệ sĩ phải mượn cung phím có âm thấp hơn âm định đánh, nhấn
mạnh ngón tay vào cung phím đó làm dây đàn căng lên một độ nhất định,
khi tay phải gảy âm muốn có đó. Cung phím ấy gọi là cung mượn.
– Các âm có sẵn trong hệ thống cung phím: để phát huy hiệu quả diễn tấu
nghệ sĩ khơng bấm vào cung phím chính mà bấm vào cung phím thấp
hơn, nhấn lên rồi mới gảy.
Ngón nhấn luyến: là ngón độc đáo của Ðàn Nguyệt nên được sử dụng
nhiều, Ðàn Nguyệt với phím đàn cao, phím này cách phím kia xa, dây đàn
bằng nylông mềm mại và chùng nên dễ dàng sử dụng ngón nhấn luyến.
Ngón nhấn luyến tạo cho hai âm nối liền nhau, luyến với nhau nghe mềm
mại như tiếng nói với nhiều thanh điệu, tình cảm. Khi đánh ngón nhấn
luyến tay phải chỉ gảy một lần, ký hiệu ngón nhấn luyến là mũi tên đi vịng
lên hay vòng xuống đặt từ nốt nhấn đến nốt được nhấn tới. Có hai cách
nhấn luyến
– Nhấn luyến lên: nghệ sĩ bấm một cung phím nào đó, tay phải gảy dây,
tiếng đàn ngân lên, ngón tay trái đang bấm cung phím đó lại nhấn xuống

cho dây đàn căng lên nhiều hay ít tùy theo ý muốn của nghệ sĩ. Ngón
nhấn luyến lên có thể trong vịng từ qng hai đến qng bốn. Ðối với
những âm ở dưới cần đàn xa đầu đàn quãng âm nhấn luyến càng hẹp hơn.

– Nhấn luyến xuống: nghệ sĩ bấm và nhấn dây ở một phím nào đó rồi mới
gảy, vừa gảy ngón tay nới dần ra nhưng khơng nhấc khỏi cung phím để
sau khi nghe âm thứ nhất, còn nghe được âm thanh thứ hai thấp hơn âm
thứ nhất. Âm thứ hai không do gảy mà do bấm nhấn luyến xuống, đối với
âm luyến lên và âm luyến xuống không nên sử dụng liên tục với nhau vì
khó đánh chuẩn xác.


Ngón nhún: Đây là cách nhấn liên tục trên một cung phím nào đó, nhấn
nhiều hay ít, nhanh hoặc chậm tùy theo tính chất tình cảm của đoạn nhạc.
Nhấn dài hay ngắn tùy theo trường độ của nốt nhạc, nốt nhấn láy làm cho
âm thanh cao lên không quá một cung liền bậc (điệu thức ngũ cung) rồi
trở lại độ cao cũ nghe như làn sóng. Ký hiệu nốt nhún chữ M hoa trên
chùm vịng cung đặt trên nốt nhạc.
Ngón nhún là kỹ thuật thường sử dụng ở Ðàn Nguyệt, ngón nhún làm cho
âm thanh mềm hơn, tình cảm hơn. Ở những âm cao tiếng Ðàn Nguyệt hơi
đanh, khô nên cần sử dụng kỹ thuật ngón nhún cho những nốt có trường
độ vừa phải, khơng ngân dài, chỉ nên từ một đến hai phách với tốc độ vừa
phải.
Ngón vỗ: Thường dùng ngón 1 bấm cung phím, tay phải gảy đàn, khi âm
thanh vừa phát lên sử dụng ngón 2 hoặc cả hai ngón 2 và ngón 3 vỗ vào
dây trên cùng một cung phím liền bậc ngay ở dưới cần đàn, âm mới sẽ cao
hơn âm chính một cung liền bậc (điệu thức ngũ cung). Âm thanh ngón láy
nghe gần như tiếng nấc, diễn tả tình cảm xao xuyến. Ký hiệu ngón láy chữ
“M” đặt trên nốt nhạc.
Ngón chụp: Tay trái ngón 1 bấm vào một cung phím, tay phải gảy dây, khi

âm thanh vừa phát ra, ngón 2 hoặc 3 bấm mạnh vào cung phím khác
(thường là liền bậc cao) âm thanh từ cung phím này vang lên mà không
phải gảy đàn. Âm luyến nghe được do một phần của dây đàn cịn chấn
động, một phần do ngón tay mổ vào cung phím tạo thêm chấn động. Âm
luyến nghe yếu nhưng mềm mại, ở những thế bấm cao âm luyến nghe
kém vang nên ít được sử dụng. Ký hiệu ngón chụp dùng dấu luyến giữa
các nốt nhạc.
Ngón láy rền: Là tăng cường động tác của ngón láy cho nhanh và nhiều
hơn với sự phối hợp vê dây của tay phải. Ký hiệu ngón láy rền sử dụng chữ
tắt của trille và hai gạch chéo ở trên hoặc ở dưới nốt nhạc (nếu là nốt trịn)
hay trên đi nốt nhạc.
Ngón giật: Ngón giật là cách nhấn trên dây như ngón nhấn luyến nhưng
tính chất âm thanh khác: âm được nhấn tới vừa vang lên liền bị tắt ngay
một cách đột ngột, âm thanh tiếng giật nghe như tiếng nấc, diễn tả tình
cảm day dứt, thương nhớ. Ký hiệu là dùng ký hiệu của ngón nhấn luyến
nhưng nốt nhạc sau phải viết nhỏ và có gạch chéo trên đi.
– Ngón tay trái bấm lên một cung phím, tay phải gảy dây, sau khi phát ra
một âm ngón bấm tay trái nhấn mạnh đột ngột làm âm thanh cao lên một
độ nào đó.
– Làm như trên, nhưng sau khi ngón tay trái bấm rồi lại nới ra ngay làm
cho âm thanh trở lại như cũ.


Ngón vuốt: Ngón vuốt là dùng ngón tay trái vuốt đi lên hay đi xuống theo
chiều dọc của dây trong khi tay phải chỉ gảy một lần hay kết hợp với ngón
vê hay ngón phi. Ký hiệu của ngón vuốt là dấu gạch nối giữa các nốt nhạc.
Có 3 loại vuốt
Vuốt lên: vuốt từ âm thấp lên âm cao.
Vuốt xuống: vuốt từ âm cao xuống một âm thấp.
Vuốt tự do: có 2 cách

* Vuốt từ một âm chỉ định lên bất cứ âm nào (thường không quá quãng 5)
* Vuốt từ một âm chỉ định xuống bất cứ âm nào (thường chỉ nên vuốt
xuống quãng 4)
Vuốt lên âm thanh nghe rõ hơn vuốt xuống, vuốt nhanh âm thanh nghe rõ
hơn vuốt chậm.
Ngón bật dây: Tay trái, ngón trỏ hay ngón giữa bấm vào một cung phím
nào đó, kế tiếp dùng tay khác gảy vào dây ở ngay dưới ngón tay đang
bấm để phát ra âm thanh.
Bật dây buông: sử dụng bất cứ ngón tay trái nào bật một trong hai dây
bng, hay cả hai dây một lúc, ngón bật dây chỉ nên viết trong trường hợp
độc tấu, không nên đưa vào bài nhạc có tốc độ nhanh hoặc nốt nhạc ở
phách mạnh.
Âm bồi: có thể đánh trên tất cả các dây nhưng chỉ nên đánh trong khoảng
âm giữa, âm dưới và nên đánh những âm bồi quãng tám. Cách đánh là sử
dụng ngón tay trái chặn vào đoạn dây thích hợp kể từ đầu đàn trong khi
tay phải gảy dây đó.
4. VỊ TRÍ ĐÀN NGUYỆT TRONG CÁC DÀN NHẠC:
Miền Bắc Ðàn Nguyệt được sử dụng trong Hát Chèo, Hát Chầu Văn, ở miền
Trung Ðàn Nguyệt gắn bó với Ca Huế và ở miền Nam Ðàn Nguyệt thường
gọi là Ðàn Kìm sử dụng trong các dàn nhạc Tài Tử và Cải Lương. Ðàn
Nguyệt còn tham gia nhiều Dàn nhạc Dân tộc khác như Dàn nhạc Bát âm,
Dàn nhạc Lễ… khi đệm cho Hát Chầu Văn chỉ cần một cây Ðàn Nguyệt
cùng với hai nhạc khí gõ…



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×