Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Tư tưởng triết học của trang tử đặc điểm và ý nghĩa lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 123 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------

TRẦN THỊ NHƯ YẾN

TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA TRANG TỬ
- ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ

LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------

TRẦN THỊ NHƯ YẾN

TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA TRANG TỬ
- ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 8.22.90.01

LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. TRƯƠNG VĂN CHUNG


THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là luận văn do tôi thực hiện, dưới sự hướng dẫn
của PGS.TS. Trương Văn Chung, kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là
trung thực và chưa từng cơng bố trong bất kì cơng trình nào khác.
Tác giả

TRẦN THỊ NHƯ YẾN


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................. 1
2. Tổng quan tình hình nghiên ....................................................................... 3
3. Mục đích và nhiệm vụ luận văn ................................................................. 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 4
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................ 5
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn ................................. 5
7. Kết cấu của luận văn .................................................................................. 5
PHẦN NỘI DUNG ....................................................................................... 7
Chương 1 ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ, KINH TẾ XÃ HỘI VÀ TIỀN ĐỀ LÝ
LUẬN HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC TRANG TỬ ............ 7
1.1. ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ, KINH TẾ - XÃ HỘI HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG
TRIẾT HỌC TRANG TỬ ................................................................................. 7
1.2. TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC TRANG TỬ ....

...................................................................................................................... .17

1.3. CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA TRANG TỬ ......................................... 25

Kết luận chương 1 ...................................................................................... 31
Chương 2 NỘI DUNG, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ TƯ
TƯỞNG TRIẾT HỌC TRANG TỬ .......................................................... 32
2.1. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC TRANG TỬ .................................... 32

2.1.1. Quan niệm về vũ trụ của Trang Tử ..................................................... 32
2.1.2. Quan niệm về nhận thức luận của Trang Tử ....................................... 51
2.1.3. Quan niệm về nhân sinh của Trang Tử .............................................. 66


2.2. ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC TRANG TỬ

....................................................................................................................... 76
2.2.1. Đặc điểm tư tưởng triết học Trang Tử ................................................ 76
2.2.2. Ý nghĩa lịch sử tư tưởng triết học Trang Tử ...................................... 86
Kết luận chương 2 ..................................................................................... 105
KẾT LUẬN ............................................................................................... 107
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 110


1
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Triết học Trung Quốc là một trong những nền triết học phát triển sớm
và đạt được nhiều thành tựu rực rỡ, có ảnh hưởng lớn đến tư tưởng, văn hóa
nhân loại nói chung và nhiều quốc gia ở châu Á nói riêng, trong đó có Việt
Nam. Nghiên cứu lịch sử hình thành, phát triển của tư tưởng Việt Nam,

chúng ta không thể khơng nghiên cứu nền tảng triết học Trung Hoa, trong
đó có tư tưởng triết học của Trang Tử. Ở Việt Nam sự ảnh hưởng của triết
học Trung Hoa là rất lớn, nhất là tư tưởng Trung Hoa thời kỳ cổ đại. Ngay
từ những năm đầu công nguyên, các học thuyết triết học Trung Quốc, trong
đó có tư tưởng Trang Tử đã du nhập và có những ảnh hưởng nhất định đến
đời sống tinh thần của dân tộc Việt Nam. Cùng với Nho gia, Pháp gia, tư
tưởng Lão – Trang đã tạo nên kết cấu “chân kiềng” vững chắc của hiện
tượng “tam giáo đồng nguyên”. Ngay từ những năm đầu công nguyên, các
học thuyết triết học Trung Quốc trong đó có tư tưởng triết học Trang Tử đã
du nhập và có những ảnh hưởng nhất định đến đời sống tinh thần của dân
tộc Việt Nam. Theo dòng thời gian, các giá trị của tư tưởng Trung Quốc đã
được tiếp thu và chuyển hóa một cách sáng tạo và trở thành những yếu tố
tinh thần truyền thống mang bản sắc Việt Nam. Hịa vào tiến trình của lịch
sử, việc tiếp thu tư tưởng ngày càng được chuyển hóa sáng tạo, mang màu
sắc văn hóa Việt. Khi nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt Nam, một số ý kiến
cho rằng, Nho – Phật đóng vai trị quan trọng trong tiến trình lịch sử, cịn tư
tưởng Lão – Trang chỉ đóng vai trị là thứ yếu. Tư tưởng Lão – Trang dưới
chế độ phong kiến tuy không được tôn sùng nơi cửa quan, triều nội nhưng
lại được đón nhận rất tự nhiên bởi các tâm hồn kẻ sĩ, bậc quân nhân lúc thất
thế, u sầu. Quan niệm nhân sinh Lão – Trang như “lánh đục, về trong”, “vô
vi, thuận ứng” đã nâng đỡ tinh thần cho những kẻ sĩ, quan nhân lúc phẫn


2
chí, cơ hàn. Trong q trình phát triển văn hóa Việt Nam, yếu tố tinh thần
này đã hòa quyện với yếu tố bản địa, biểu hiện rõ nét trong những chiều
kích khác nhau của đời sống xã hội và cuộc sống của mỗi cá nhân. Do vậy,
việc nghiên cứu tư tưởng triết học của Trang Tử sẽ góp phần hiểu đúng và
đánh giá đúng vai trò, sự ảnh hưởng của hệ tư tưởng này đối với lịch sử
Việt Nam.

Trang Tử tên thật là Trang Chu, sinh ở đất Mông, thuộc nước Tống
(nay thuộc tỉnh Hà Nam, Trung Quốc). Tư tưởng của Trang Chu ẩn trong
những lời văn phóng khống chủ yếu viết bằng thể văn ngụ ngôn, ý tứ thâm
thúy, đa nghĩa, đa sắc. Vì thế mà bao đời nay, mặc dù đã có nhiều người
nghiên cứu tư tưởng của ông song vẫn còn nhiều nội dung chưa thể nắm bắt
hết. Tư tưởng triết học của Trang Tử được thể hiện chủ yếu trong Nam hoa
kinh. Trong tác phẩm này, với “bút pháp độc đáo, lời lẽ cô đọng, súc tích,
“hồn nhiên như mây bay trong núi, trong trẻo, nhẹ nhàng”, ông đã phác họa
bức tranh mộc mạc về thế giới và con người trong trạng thái luôn vận động,
biến đổi, biến hóa như con rồng uốn lượn, cuốn mình tan lẫn trong mây.
Trang Tử luôn coi học thuyết của mình khơng phải là sự triết lý thăng trầm
về “đạo”. Ông không chú trọng vào việc phân định rõ rệt về mặt nội dung
mà chỉ chủ yếu gợi mở về mặt phương pháp tơn chỉ: “Có lời là vì ý, đặng ý
hãy quên lời” (Lịch sử triết học phương Đông, Dỗn Chính, 2012, tr.296).
Từ trước đến nay đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về Trang Tử trên
những bình diện khác nhau, trong đó có triết học. Tuy nhiên những ý kiến,
đánh giá được đưa ra trong những cơng trình này rất phong phú, đa dạng và
chưa có kết luận thống nhất . Do đó, việc tìm hiểu tư tưởng triết học của
Trang Tử là một công việc được tiếp tục để góp phần làm sáng tỏ những giá
trị tư tưởng của kho tàng văn hóa cổ đại phương Đơng.
Q trình đổi mới đất nước hiện nay, thực hiện chủ trương của Đảng
về xây dựng nền văn hóa con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng


3
đến chân – thiện – mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ,
khoa học đòi hỏi phải bảo tồn, phát huy những giá trị tích cực của truyền
thống, kết hợp với những giá trị mới được hình thành nhằm xây dựng con
người mới đủ đức, đủ tài, bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc. Báo cáo chính trị tại Đại hội XII của Đảng đã nhấn mạnh vai

trị của văn hóa trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, giai đoạn chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế như sau: Xây dựng mơi trường văn hóa
lành mạnh, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Xây dựng văn hóa trong chính trị và
kinh tế. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa. Phát triển cơng
nghiệp văn hóa đi đơi với xây dựng, hồn thiện thị trường văn hóa. Chủ
động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Xây
dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện. Tiếp tục đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước
đối với lĩnh vực văn hóa. Để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội, làm
chủ quá trình hội nhập quốc tế, cần hiểu được các giá trị, các chuẩn mực
chung, hiểu được sự tác động qua lại giữa những yếu tố của văn hóa chung
(hội nhập) và văn hóa quốc gia - dân tộc, hệ quả của sự tác động đó trong
phát triển đất nước.
Thực tiễn đã chỉ ra, chính sự phát triển của các điều kiện vật chất và
nhu cầu tinh thần ngày càng đa dạng của con người, do đó, tồn cầu hóa
diễn ra là điều khơng tránh khỏi, và Việt Nam cũng khơng nằm ngồi quy
luật khách quan đó. Tồn cầu hố đang là xu hướng tất yếu và ngày càng
được mở rộng. Tính tất yếu của tồn cầu hố trước hết được biểu hiện ở
tính tất yếu kinh tế. Tồn cầu hố kinh tế là khía cạnh quan trọng nhất của
tồn cầu hố; nó đang tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực chính trị. Đến lượt
mình, những thay đổi về chính trị lại có tác động trở lại đối với kinh tế.
Song, cái cần quan tâm và nhấn mạnh lại chính là sự tác động của kinh tế và


4
những thay đổi chính trị đối với văn hố, tư tưởng trong bối cảnh tồn cầu
hố.
Nhận thức được tầm quan trọng của tư tưởng, văn hóa, Văn kiện
trình Đại hội XII của Đảng đề ra yêu cầu đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn

hoá và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Làm cho giá trị văn hoá thấm sâu vào
mọi lĩnh vực, mọi mặt hoạt động, mọi quan hệ xã hội, thành sức mạnh nội
sinh quan trọng của phát triển bền vững. Thực hiện nhiệm vụ đó, văn hóa
Việt Nam cần vượt qua những thách thức, nắm bắt các cơ hội trên con
đường phát triển trên tinh thần phải giữ gìn, chắt lọc và phát huy bản sắc
dân tộc, đồng thời kế thừa và chọn lọc những tư tưởng tinh hoa của các nền
văn minh trên thế giới. Trong số đó khơng thể không kể đến tư tưởng triết
học Trung Quốc, cụ thể là tư tưởng của Trang Tử của trường phái Đạo gia
mà sự ảnh hưởng của nó đến văn hóa Việt Nam là điều không thể phủ nhận.
Nghiên cứu, học tập và kế thừa tinh hoa của tri thức nhân loại nói
chung và của Trang Tử nói riêng là một việc làm quan trọng trong giai đoạn
hội nhập hiện nay, chúng ta cần phải tìm hiểu và đánh giá đúng mức giá trị
trong tư tưởng của Trang Tử về vũ trụ, nhân sinh, về phép ứng xử, về lối
sống, đồng thời chỉ ra những mặt hạn chế còn tồn tại song song với những
giá trị và ý nghĩa đó. Chính tầm quan trọng và ý nghĩa lớn của tư tưởng triết
học đối với nhân loại, tôi chọn đề tài Tư tưởng triết học Trang Tử - Đặc
điểm và ý nghĩa lịch sử làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của
mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Tư tưởng Trang Tử từ trước đến nay được thể hiện chủ yếu trong tác
phẩm Nam Hoa kinh. Từ trước đến nay, những cơng trình nghiên cứu về
Đạo gia nói chung và Trang Tử nói riêng rất đa dạng, thường thể hiện ở
những hướng nghiên cứu sau:


5
Về dịch thuật văn bản gốc sang tiếng Việt, những tác giả như
Nhượng Tống, Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Tôn Nhan đã
nghiên cứu và là dịch giả bộ Trang Tử.

Về tư tưởng của Trang Tử, các tác giả ở Việt Nam hiện nay gồm
Thu Giang - Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Hiến Lê, Nhượng Tống, Nguyễn
Tôn Nhan, Nguyễn Bằng Tường, Nguyễn Đăng Thục, Hà Thúc Minh, Dỗn
Chính, Nguyễn Hùng Hậu, Nguyễn Đăng Duy, Trần Đình Hượu, Cao Xuân
Huy, Nguyễn Hữu Vui, Lê Văn Quán, Nguyễn Tài Thư… cũng đã nghiên
cứu tư tưởng Trang Tử và ảnh hưởng của nó đối với văn hóa Việt Nam ở
những góc độ và mức độ khác nhau. Nhưng có lẽ do đặc thù trong tư tưởng
và phương pháp tiếp cận của các tác giả khác nhau, vì thế, kết quả nghiên
cứu của mỗi cơng trình thể hiện tư tưởng Trang Tử ở nhiều góc nhìn khác
nhau, có nhiều điểm khơng thống nhất và mâu thuẫn với nhau, tạo điều kiện
để những người nghiên cứu có cách nhìn đa chiều, tồn diện hơn khi nghiên
cứu về tư tưởng Trang Chu. Ở Trung Quốc, các cơng trình tiêu biểu như Tư
tưởng Trang Tử của tập thể tác giả Triệu Kỷ Bân, Hầu Ngoại Lư, Đỗ Quốc
Trường (Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1959), Bàn về “cái giá đỡ” của hệ thống
triết học Trang Tử của Vương Hưng Hoa (Tạp chí Nghiên cứu triết học,
Bắc Kinh, số 3-1981), Triết học nhân sinh của Trang Tử của Dương Phàn
(Thư viện Quốc lập Trung ương, thành phố Đài Bắc xuất bản, 1984), Địa vị
lịch sử của Đạo gia trong văn hóa truyền thống của Lý Cẩm Tồn (Tạp chí
triết học, Hà Nội, số 2-1992)… Ngoài ra, các tác giả như Đàm Gia Kiệm,
Phùng Hữu Lan, Hồ Thích… trong các cơng trình lịch sử triết học, văn hóa
cũng đã đề cập đến tư tưởng Trang Tử ở những chuyên mục về tư tưởng
Đạo gia.
Tiếp theo là cơng trình Từ Lão – Trang đến Đạo giáo của Lê Xuân
Vũ (Nxb. Chính trị sự thật, 2011). Tác giả đã khái quát lịch sử hình thành
Đại gia thơng qua các đại diện tiêu biểu là Lão Tử và Trang Tử, sự ảnh


6
hưởng Lão Tử đối với triết học Trang Tử. Đồng thời cơng trình đã chỉ ra sự
ảnh hưởng của Đạo giáo đối với văn hóa Trung Quốc và Việt Nam.

Kế đến là tác phẩm Tư tưởng triết học của Trang Tư trong tác phẩm
Nam Hoa kinh của TS Cung Thị Ngọc. Ở cơng trình này, tác giả đã trình
bày một cách hệ thống khái quát điều kiện lịch sử xã hội thời kỳ Xuân thu –
Chiến quốc và sự ảnh hưởng của nó đối với tư tưởng Lão Trang. Đồng thời,
ở chương hai, tác giả đã trình bày vơ cùng chi tiết về mặt bản thể luận, nhận
thức luận và nhân sinh quan của Trang Tử. Bên cạnh đó, ở chương ba, tác
giả cũng chỉ ra một số ảnh hưởng của triết học Trang Tử đối với Việt Nam.
Cuối cùng là luận văn Nhân sinh quan trong Triết học Trang Tử.
Đặc điểm và ý nghĩa lịch sử của tác giả Đinh Tiến Hồng. Ở luận văn, bên
cạnh việc trình bày tiền đề hình thành tư tưởng nhân sinh và khái quát cuộc
đời sự nghiệp của Trang Tử, tác giả đã trình bày những nội dung cơ bản của
triết lý nhân sinh Trang Tử và chỉ ra những đặc điểm chính, ý nghĩa thiết
thực của nó trong giai đoạn hội nhập hiện nay ở Việt Nam.
Về cơ sở lý luận và tiền đề hình thành tư tưởng Trang Tử, có thể kể
đến cơng trinh Lịch sử văn hóa Trung Quốc, do Đàm Gia Kiện chủ biên. Ở
cơng trình này, tác giả đã đề cập đến những vấn đề cơ bản của văn hóa
Trung Quốc ở ba phần: chế độ điển chương các đời, các thể loại văn học cổ
đại, triết học và tôn giáo cổ đại. Đặc biệt ở chương ba, tác giả đã khái quát
tư tưởng của các triết gia thời Tiên Tần, trong đó có tư tưởng Trang Tử. Tác
phẩm đã mang đến cho người đọc thêm góc nhìn mới về tư tưởng thời Xuân
thu – Chiến quốc. Kế đến là cơng trình Đại cương triết học Trung Quốc của
tác giả Dỗn Chính chủ biên. Ở cơng trình nghiên cứu này, tác giả đã trình
bày hệ thống lịch sử phát sinh triết học Trung Quốc từ thời thai nghén đến
các trào lưu tư tưởng thời kỳ Xuân thu – Chiến quốc như Đao gia, Nho gia,
Pháp gia… đến thời quân chủ nhà Hán, thời tan rã đầu tiên của đế quốc, cho


7
đến thời kỳ cận đại. Qua đó người đọc có cái nhìn tổng quát về tư tưởng
Trung Quốc từng thời kỳ, thống qua những lý giải, phân tích và so sánh.

Tóm lại, dù là hướng nghiên cứu nào đi chăng nữa, đúc kết lại ở mỗi
cơng trình nghiên cứu đều là những tinh hoa trong tư tưởng của Trang Tử,
là những tài liệu quý giá cho những bước tiếp cận sau này của những người
làm khoa học. Do đó, việc nghiên cứu ở luận văn này trên cơ sở kế thừa có
chọn lọc kết quả của những cơng trình nghiên cứu đi trước và khảo cứu tác
phẩm Nam Hoa kinh để phân tích và hệ thống tư tưởng triết học Trang Tử
thêm rõ nét hơn. Từ đó chỉ ra đặc điểm cơ bản trong triết học của Trang Tử
và rút ra ý nghĩa lịch sử của nó.
3. Mục đích, nhiệm vụ luận văn
Mục đích luận văn: Làm rõ tư tưởng triết học Trang Tử, từ đó rút ra
đặc điểm và ý nghĩa lịch sử của nó.
Nhiệm vụ luận văn: Để đạt được mục đích trên, luận văn cần thực
hiện những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, trình bày bối cảnh lịch sử xã hội thời Xuân thu – Chiến
quốc và tiền đề lý luận hình thành nên tư tưởng triết học Trang Tử.
Thứ hai, trình bày, phân tích nội dung, rút ra những đặc điểm chủ yếu
của tư tưởng Trang Tử, từ đó thấy được đặc điểm và ý nghĩa của nó trong
giai đoạn Xuân thu – Chiến quốc và ý nghĩa trong giai đoạn hội nhập, giao
lưu văn hóa ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở kế thừa những bản dịch và bình chú tác phẩm Nam Hoa
kinh của các học giả uy tín ở Việt Nam để nghiên cứu tư tưởng triết học của
Trang Tử về mặt bản thể luận, nhận thức luận và nhân sinh quan. Từ đó đi
đến phân tích những đặc điểm và ý nghĩa trong tư tưởng triết học Trang Tử
trong giai đoạn Xuân thu – Chiến quốc và đối với Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay.


8
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên thế giới quan và
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tư
tưởng Hồ Chí Minh và các quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bản
thể luận, nhận thức luận, nhân sinh quan.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được thực hiện dựa trên những
phương pháp phân tích tổng hợp, so sánh và hệ thống, thống nhất logic lịch
sử.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Về ý nghĩa khoa học, trên cơ sở trình bày và phân tích những nội
dung và đặc điểm chủ yếu của tư tưởng triết học Trang Tử, từ đó chỉ ra
được ảnh hưởng và ý nghĩa của nó trên các lĩnh vực triết học, văn học, tơn
giáo… luận văn đã góp phần hệ thống hóa và làm rõ những nội dung cơ bản
về tư tưởng triết học Trang Tử.
Về ý nghĩa thực tiễn, thông qua việc đánh giá những giá trị và hạn
chế của tư tưởng triết học Trang Tử, luận văn góp phần rút ra những bài học
có giá trị trong hoạt động học tập tinh hoa tri thức cổ đại, phục vụ cho hoạt
động tri thức hiện nay. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu
tham khảo cho sinh viên khối ngành khoa học xã hội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận chung và tài liệu tham khảo, luận văn
được chia thành 2 chương, 5 tiết.


9
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ, KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ TIỀN ĐỀ LÝ
LUẬN HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC TRANG TỬ
1.1. ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ, KINH TẾ - XÃ HỘI HÌNH THÀNH TƯ
TƯỞNG TRIẾT HỌC TRANG TỬ


Trong lịch sử phát triển, Trung quốc đã trải qua nhiều giai đoạn với
những triều đại vua trị vì ghi lại những trang sử cũng như nền triết học
Trung Quốc. Trong đó, thời kỳ Xuân thu – Chiến quốc, thời kỳ tan rã của
chế độ chiếm hữu nô lệ và chế độ phong kiến sơ kỳ đang lên, đang diễn ra
cùng với sự phát triển rực rỡ của triết học Trung Quốc cổ đại. Thời Xuân
thu – Chiến quốc được xem là một giai đoạn lịch sử đặc biệt của Trung
Quốc cổ đại. Lịch sử nhà Chu được bắt đầu sau sự thắng lợi của cuộc chiến
tranh thơn tính giữa tộc Chu với nhà Ân – Thương và kết thúc với sự kiện
Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc và lên ngơi Hồng đế.
Xã hội Trung Quốc thời kỳ này có sự phát triển rực rỡ của triết học,
các ngành khoa học kỹ thuật cũng có những bước phát triển nhất định.
Đồng thời cũng là thời kỳ rối ren của xã hội với sự tranh đấu gay gắt và
luân lý đạo đức ngày càng băng hoại.
Đến cuối thời Tây Chu, chế độ nô lệ ở Trung Quốc bước vào giai
đoạn khủng hoảng và ngày càng suy tàn tan rã mặc dù trước đó nó đã tồn tại
một thời gian khá dài từ triều Hạ, đến nhà Thương. Tình hình xã hội Trung
Hoa lúc này đang vô cùng rối ren, các chế độ tông quyền, gia trưởng, tư
tưởng đạo đức, giá trị tư tưởng của xã hội cũng bị băng hoại, bước đầu xuất
hiện những mầm mống của những hệ tư tưởng mới. Chính sự phát triển về
kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa thời kỳ này đã làm cho con người thoát
khỏi những tư tưởng về thế giới quan thần thoại tơn giáo, thần bí truyền
thống, ảnh hưởng đến q trình phát triển của tư tưởng triết học.


10
Đặc biệt, dưới Tây Chu, khi nhà Chu còn thịnh trị, chế độ tông pháp
và trật tự lễ nghĩa nhà Chu cịn được duy trì nhưng từ thời Chu Lệ Vương
đến Chu U Vương, mâu thuẫn nội bộ nhà Chu ngày càng trở nên trầm
trọng. Sự xảy ra liên tiếp những nạn hạn hán, đói kém và cùng với đó là

việc phải chống lại các nước chư hầu, sự xâm lăng của các bộ lạc khác, nhất
là giặc Hiểm Doãn, Tây Nhung đã làm cho nhà Chu càng đi đến bước
đường suy vong, chính điều này dẫn đến sự đảo lộn về vị trí, quyền lợi của
các tầng lớp, giai cấp trong xã hội. Vào năm 781 trước Công nguyên diễn ra
sự kiện vua Chu U Vương phế hoàng hậu họ Thân và Thái tử Nghi Câu,
phong Bao Tự làm hoàng hậu, cha Thân hậu là Thân hầu liên kết giặc Tây
Nhung, tấn công Hạo Kinh, thiêu hủy kinh đô nhà Chu, giết chết U Vương
dưới chân Ly Sơn, lập thái tử Nghi Câu lên làm vua, lấy hiệu là Chu Bình
Vương (năm 711 trước Cơng ngun). Sau đó một năm, vì đất Thiểm Tây
ln bị giặc Hiểm Dỗn, Tây Nhung đe dọa, nên Chu Bình Vương phải dời
đơ về phía đơng, đến Lạc Ấp (Lạc Dương, tỉnh Hà Nam bây giờ), nhường
căn cứ Quan Trung cho Tần Tương Công. Xã hội Trung Quốc bước vào
thời kỳ Xuân thu.
Về kinh tế, thời kỳ này Trung Quốc chuyển từ đồ đồng sang đồ sắt,
việc dùng bò kéo cày trở nên phổ biến. Bên cạnh đó, những phát minh kỹ
thuật trong việc khai thác sử dụng đồ sắt đã mang lại rất nhiều sự tiến bộ về
kỹ thuật cải tiến công cụ cũng như sản xuất nông nghiệp. Thời này, nông nô
đã được sử dụng đất công canh tác lâu dài do cơng xã giao cho. Do đó, việc
nơng dân sử dụng phương pháp lưu canh hay luân canh để tăng năng suất
cây trồng là điều vô cùng cần thiết. Mặt khác, do sự phát triển của công cụ
sản xuất bằng sắt và hệ thống thủy lợi mở mang nên ruộng đất do nông nô
vỡ hoang biến thành ruộng tư ngày một nhiều. Bọn quý tộc có quyền thế
cũng chiếm dần ruộng của công xã làm ruộng tư. Điều này dẫn đến chế độ


11
“tỉnh điền” dần tan rã, xuất hiện chế độ tư hữu ruộng đất và được pháp luật
nhà nước thừa nhận và bảo vệ.
Nếu như trước kia theo chế độ “tỉnh điền”, ruộng đất của công xã
được chia đều cho nông nô và trách nhiệm của họ phải nộp một phần nơng

sản cho cơng xã để nộp lên triều đình, thì từ khi chế độ tư hữu ruộng đất
phát triển, do số lượng ruộng đất của nông nô sở hữu không bằng nhau đã
đãn đến việc nhà nước đã bỏ hình thức thu thuế cũ mà thi hành chế độ thu
thuế mới, đánh vào từng mẫu ruộng (gọi là thuế sơ mẫu).
Chính việc sử dụng cơng cụ lao động bằng sắt trở nên phổ biến cùng
với việc mở rộng trao đổi sản phẩm lao động mà sản xuất thủ công nghiệp
đã có sự phân cơng chun nghiệp. Thủ cơng nghiệp và thương nghiệp
cũng phát triển hơn trước. Tiền tệ lúc này đã xuất hiện, trong xã hội đã xuất
hiện một tầng lớp thương nhân giàu có và có thế lực. Những thương nhân
này đã có nhiều người kết giao với chư hầu và cơng khanh đại phu, gây ảnh
hưởng đến chính trị đương thời. Tuy vậy, việc kinh doanh bị cản trở và khó
khăn do tình hình xã hội đang rối ren, phương tiện giao thông thô sơ, lãnh
thổ bị chia cắt do nạn cắt cứ của các chư hầu. Cũng từ đây, cơ cấu xã hội đã
có một tầng lớp mới. Từ tầng lớp này mà dần xuất hiện một quý tộc mới với
thế lực ngày càng mạnh hơn, tìm cách leo lên tranh giành quyền lực với
tầng lớp quý tộc cũ.
Về chính trị - xã hội, chế độ tơng pháp nhà Chu khơng cịn được xem
trọng, các quan hệ kinh tế, chính trị, quân sự giữa thiên tử và các chư hầu
ngày càng lỏng lẻo, rời rạc, thiếu liên kết, đặc biệt huyết thống thì ngày
càng xa, trật tự lễ nghĩa nhà Chu bị thay đổi hoàn toàn. Uy thế trong mối
quan hệ của thiên tử nhà Chu với các chư hầu đã khơng cịn, nhiều nước
chư hầu mượn tiếng khôi phục lại địa vị tông chủ của nhà Chu, đề ra khẩu
hiệu “Tông vương bài Di”, đua nhau động binh để mở rộng đất đai và
quyền uy, thôn tính các nước nhỏ, tranh giành địa vị bá chủ thiên hạ. Xã hội


12
bắt đầu diễn ra những cuộc đấu tranh phân chia lợi ích, quyền thế, đất đai,
tranh giành ảnh hưởng lẫn nhau. Thời Xuân thu có khoảng 242 năm, đã xảy
ra 483 cuộc chiến tranh lớn nhỏ. Đầu thời Tây Chu có hàng ngàn nước, cuối

thời Xn thu chỉ cịn hơn 100 nước. Trong đó có những nước hùng mạnh
thời bấy giờ tranh nhau làm bá chủ thiên hạ là Tề, Tấn, Sở, Tống, Ngô,
Việt, Tần.
Thời kỳ này, các lãnh chúa càng tăng cường bóc lột nhân dân lao
động bằng việc những người dân ngoài việc phải đi các chiến trận thực hiện
các cuộc chinh phạt của các tập đoàn quý tộc, còn phải chịu sưu thuế, phu
phen, lao dịch nặng nề. Thiên tai thường xuyên diễn ra, nạn cướp bóc nổi
lên khắp nơi làm cho đời sống nhân dân ngày càng trở nên khốn khổ. Dân
lưu vong, đồng trong ruộng ngoài bỏ hoang ngày càng nhiều.
Việc các nước gây chiến tranh nhau thơn tính lẫn nhau cũng như các
lãnh chúa bóc lột tàn khốc nhân dân lao động khơng chỉ dẫn đến sự diệt
vong của hàng loạt các nước chư hầu nhỏ mà còn phá hoại lễ nghĩa nhà
Chu, phá hoại trật tự triều hội. Chinh phạt giữa các nước chư hầu làm cho
mâu thuẫn trong giai cấp thống trị ngày càng trở nên gay gắt và sự rối loạn
trong xã hội ngày càng tăng. Đặc biệt những nghi lễ tơn nghiêm trước đây
đã từng góp phần bảo vệ và làm ổn định chế độ tông pháp nhà Chu, đến lúc
này đã bị xem thường. Tình trạng lễ nghĩa, cương thường đảo lộn, đạo đức
suy vong ở thời kỳ này biểu hiện qua những tệ nạn xã hội chiếm ngôi đoạt
vị, chế độ triều cống cũng bị các chư hầu tự ý phá bỏ. Trong xã hội, cảnh
tôi giết vua, con giết cha, anh em giết nhau, chồng vợ chia lìa thường xun
xảy ra. Tình trạng đó, theo Khổng Tử không phải xảy ra một sớm một chiều
mà đã âm ỉ mục ruỗng từ lâu. Chế độ lễ nghi nhà Chu trở thành hình thức
sáo rỗng. Việc tang viếng, tế lễ, chúc mừng trở thành thủ đoạn ngoại giao
chứ không còn là lễ nghĩa của quan hệ gia tộc và trật tự xã hội nữa.


13
Trái ngược với cảnh dân đen phải chịu cùng cực thì các vương hầu,
lãnh chúa, quý tộc sống rất xa hoa, phù phiếm. Họ xây cất những cung điện
nguy nga. Do đời sống đói rét cực khổ nên nạn trộm cắp hồnh hành. Bọn

thống trị lại tăng cường hình pháp làm cho đời sống nhân dân vốn đã cơ cực
lại càng thêm nghẹt thở. Điều này đã dẫn đến nhiều cuộc khởi nghĩa của
nông dân và nô lệ, mâu thuẫn xã hội lên đỉnh cao, đưa chế độ chiếm hữu nô
lệ Trung Quốc lao nhanh đến giờ phút cáo chung.
Chiến tranh giữa các nước đã diễn ra gay gắt nhưng trong từng nước
cũng thường xảy ra những cuộc nội chiến tranh giành đất đai, địa vị, quyền
thế giữa các bọn quý tộc với nhau. Ở nước Tấn, năm 403 trước cơng
ngun có ba dịng họ lớn là: Hàn, Triệu, Ngụy đã nổi lên phế bỏ vua Tấn
dựng nên ba nước Hàn, Triệu, Ngụy, tạo thành cục diện thất hùng, thường
gây chiến tranh với quy mô lớn giành ngôi bá chủ thiên hạ.
Sang đến thời Chiến quốc, tình hình kinh tế đã có bước phát triển
mạnh mẽ. Nghề luyện sắt đã đạt trình độ khá cao. Đồ dùng sắt, đặc biệt là
công cụ sắt được sử dụng phổ biến; các kỹ thuật thủy lợi và canh tác, khai
khẩn đất đai ngày càng phát triển. Thủ công nghiệp và thương nghiệp cũng
theo đó mà phát triển. Tuy nhiên, đời sống của nhân dân lao động vẫn cực
khổ do chiến tranh tàn khốc trên quy mô lớn và liên tục giữa các nước chư
hầu. Tình hình này đã làm cho cơng xã nơng thôn tan rã. Chế độ chiếm hữu
tư nhân về ruộng đất dần trở thành quan hệ sở hữu thống trị. Đa số nông
dân nghèo mất hết ruộng đất phải đi cày thuê, cuốc mướn trở thành tá điền
cố nông. Xã hội bắt đầu xuất hiện chế độ bóc lột bằng phát canh thu tô.
Trong xã hội đã xuất hiện những yếu tố của quan hệ sản xuất mới, đó là chế
độ phong kiến quận, huyện. Mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt hơn, đã
đẩy xã hội đến nguy cơ nghiêm trọng, xuất hiện một số cuộc cải cách do
giai cấp thống trị tiến hành nhằm ngăn chặn nguy cơ đảo lộn xã hội.


14
Năm 362 trước Công nguyên, Tần là một trong những quốc gia mạnh
nhất. Khi Tần Hiếu Công lên ngôi đã tích cực phát triển nơng nghiệp, củng
cố và chuẩn bị binh bị. Do những cuộc cải cách của Thương Ưởng vào

những năm 359 đến 350 trước Công nguyên về kinh tế, tổ chức hành chính,
pháp luật, tiền tệ, thuế má, chế độ khen thưởng, quan hệ gia trưởng và công
xã nơng thơn ở nước Tần hồn tồn tan rã. Chính nhờ những cải cách trên
và nhờ việc sử dụng phương pháp chính trị, nước Tần trở thành quốc gia
hùng mạnh nhất. Cục diện thời Chiến quốc đã làm nảy sinh những thủ đoạn
ngoại giao và quân sự dùng để đối phó lẫn nhau giữa các nước gọi là thuật
“hợp tung” và “liên hoành”. Nước Tần lần lượt đánh bại sáu nước ở phía
đơng là Hàn, Triệu, Ngụy, Sở, Tề, n, chấm dứt các cuộc chiến tranh liên
minh tàn khốc, thống nhất Trung Hoa thành một quốc gia phong kiến trung
ương tập quyền đầu tiên vào năm 221 trước Công nguyên. Đó là đế chế
Tần. Biến cố này là dấu ấn ghi lại sự thay đổi lớn nhất trong lịch sử Trung
Quốc. Nó gắn liền với một tư tưởng triết học có ảnh hưởng lớn thời bấy giờ
là Pháp gia mà người đại biểu xuất sắc là Hàn Phi Tử, đã giúp nước Tần
thành công trong việc thống nhất Trung Quốc.
Với chính sách hà khắc để thực hiện mục đích thống nhất về tư tưởng
và chính trị trong xã hội, nhà Tần đã chủ trương “chôn nho, đốt sách” (phần
thư khanh nho), cấm tất cả các học thuyết đương thời, chỉ cho giữ lại và
truyền bá các sách về y học, chiêm tinh, nông học, cùng với việc gây chiến
tranh chinh phạt, huy động bằng bạo lực hàng chục vạn nông dân xây Vạn
lý trường thành, đã tự ý phá hoại cơ sở kinh tế và chính trị của nước Tần.
Nhà Tần đứng đầu là Tần Thủy Hồng đã tự mình làm mình sụp đổ nhanh
chóng. Cuộc khởi nghĩa nơng dân hùng mạnh của Lưu Bang lãnh đạo đã lật
đổ nhà Tần vào năm 206 trước Cơng ngun, lập nên chính thể một triều
đại mới, đó là nhà Hán.


15
Sự phát triển công cụ sản xuất, sự khởi sắc của kinh tế ở mỗi giai
đoạn lịch sử là bước đánh dấu trình độ, khả năng chinh phục tự nhiên của
con người. Song với Trang Tử điều đó lại là bằng chứng phá hoại tự nhiên

của con người. Ông cho rằng phải dùng đến thừng, móc, thước vng và
thước trịn để uốn nắn sự vật là làm hại đến bản tính của sự vật. Trong xã
hội, lễ, nhạc, nhân, nghĩa chính là cái khn ép, là chế ngự làm mất bản tính
vơ tư, thuần phác của con người. Theo Trang Tử nên gạt bỏ tất cả mọi hành
động tác tạo, ham muốn thái quá và những chuẩn mực do họ đặt ra, bởi đó
chính là ngun nhân làm cho con người ngày càng xa rời bản tính tự nhiên
tốt đẹp ban đầu và trói mình trong cuộc sống chật hẹp của nhân thế. Trang
Tử đã biết được những điều đó và tự chiêm nghiệm để đưa ra con đường
hành đạo, giúp đời theo phương châm “vơ vi”.
Có thể nói, mâu thuẫn chính nổi lên ở xã hội đương thời tóm gọn lại
ở những vấn đề sau:
Thứ nhất, mâu thuẫn giữa các nước chư hầu với nhau trong mưu đồ
xưng bá để thay thế vị trí của nhà Chu.
Thứ hai, mâu thuẫn giữa quý tộc cấp tiến và quý tộc bảo thủ. Bộ phận
bảo thủ là bộ phận kiên định với lập trường khôi phục trật tự nhà Chu. Bộ
phận cấp tiến, một mặt khơng cịn tin tưởng và bằng lịng với trật tự cai trị
của nhà Chu, mặt khác cũng muốn khôi phục lại trật tự cũ bằng con đường
cải lương.
Thứ ba, mâu thuẫn giữa tầng lớp quý tộc mới có tiềm lực áp đảo về
kinh tế nhưng khơng có địa vị chính trị với giai cấp quý tộc Chu đang nắm
chính quyền.
Thứ tư, mâu thuẫn giữa tiểu quý tộc Chu với đại quý tộc Chu đang
thao túng chính quyền và quý tộc mới đang lên.
Thứ năm, mâu thuẫn giữa nông dân công xã thuộc các tộc người bị
nô dịch với nhà Chu và tầng lớp quý tộc mới.


16
Thứ sáu, mâu thuẫn giữa tầng lớp sản xuất nhỏ như nơng dân có chút
ít ruộng đất, thợ thủ cơng, tiểu thương nhân với giai cấp quý tộc Chu.

Đó là những mâu thuẫn của thời kỳ lịch sử đang đòi hỏi phá bỏ chế
độ nô lệ, phân phong của xã hội cũ để tiến tới thiết lập một quốc gia, một
chế độ chính trị thống nhất trên tồn lãnh thổ Trung Quốc nhằm giải phóng
lực lượng sản xuất, mở đường cho xã hội phát triển. Điều đó được thể hiện
rõ nét qua cuộc chiến tranh thơn tính khốc liệt nhằm thực hiện mưu đồ xưng
bá của các nước chư hầu. Trong bối cảnh lịch sử - xã hội đó, mỗi nhà tư
tưởng đều đứng trên lập trường của giai tầng mình để đề ra những học
thuyết tranh luận, phê phán, đả kích lẫn nhau nhằm lý giải và tìm ra con
đường ổn định xã hội.
Bị bỏ rơi khỏi lực lượng thống trị cũ và phải chịu áp lực từ tầng lớp
quý tộc mới lên, tầng lớp tiểu quý tộc Chu đã rơi vào tình cảnh suy vi. Tư
tưởng của phái Đạo gia đại diện cho tầng lớp này. Trang Tử sống trong thời
Chiến quốc, thời đại mà những mâu thuẫn xã hội đã được đẩy lên đỉnh cao,
đồng thời, địa vị chính trị của giai tầng mà ơng là người đại diện đang đi
đến cực điểm của sự thất thế. Dưới lăng kính đại diện cho tầng lớp tiểu quý
tộc đang suy tàn, tư tưởng của Trang Tử tỏ rõ sự bất lực trước thời cuộc và
tâm trạng hoài nghi, tuyệt vọng của tầng lớp đó. Con đường mà Trang Tử
đưa ra để cứu đời, dẹp loạn giống như một biện pháp để giải thoát cá nhân.
Song, tư tưởng của Trang Tử tỏ rõ màu sắc hoài nghi, yếm thế và sự bất lực
trước thời cuộc của tầng lớp này.
Ngoài những đặc điểm của thực tiễn lịch sử xã hội, những tri thức về
khoa học, văn hóa khá phong phú của nhân dân Trung Quốc thời Xuân thu
– Chiến quốc đã góp phần khơng chỉ thúc đẩy q trình sản xuất xã hội phát
triển mà còn là những tiền đề làm nảy sinh những tư tưởng triết học ở
Trung Quốc cổ đại.


17
Về thiên văn học vào thế kỷ thứ IV trước Công nguyên, nhà thiên văn
học Trung Quốc, Thạch Thân, đã sáng tạo ra bảng tổng mục về các vì sao

bao gồm 800 tinh tú, trong đó vị trí của 120 vì sao đã được xác định. Những
biên niên sử ở thế kỷ thứ II trước Cơng ngun đã có nói tới cuộc du lịch
trên bộ, trong đó, người Trung Quốc đã biết sáng chế và sử dụng la bàn.
Trên lĩnh vực y học những tri thức y học Trung Quốc cổ đại có kinh
nghiệm thực tiễn phong phú và được tổng kết trong cuốn y học hết sức quý
báu như Hồng đế nội cung, Thần nơng bản thảo kinh. Các nhà y học thời
kỳ này đã biết giải phẫu cơ thể người, biết các cơ quan nội tạng và hệ thống
tuần hồn khá rõ. Họ cịn đi sâu nghiên cứu các nguyên nhân của bệnh tật,
các phương pháp chẩn đoán như nghe, hỏi, bắt mạch …
Về tốn học đạt trình độ khá cao. Vào thời Chiến quốc, các nhà bác
học Trung Quốc đã biết trong một tam giác vng thì tổng bình phương của
hai cạnh góc vng bằng bình phương của cạnh huyền. Họ cũng biết tính
tốn diện tích các hình, biết các phép đo lường, ...
Về văn học để lại nhiều tác phẩm nổi tiếng. Những tác phẩm tiêu
biểu: Kinh Thi, Sở Từ. Kinh Thi gồm có ba bộ: phong, nhã, tụng. Nó phản
ánh tình hình kinh tế, chính trị, phong tục, tập quán, đời sống tình cảm và
nguyện vọng của nhân dân Trung Hoa từ thời Tây Chu đến cuối thời Xuân
Thu. Bộ Sở Từ của nhà thơ yêu nước vĩ đại Khuất Nguyên, phản ánh đặc
điểm của thời Chiến quốc và địa phương nước Sở. Sở Từ gồm có: Cửu ca,
Chiêu hồn, Thiên vấn, Cửu chương và Ly tao.
Về sử học người Trung Quốc cổ đại đã có nhiều bộ sử có giá trị.
Xuân thu là bộ biên niên sử vào hạng xưa nhất thế giới, phản ánh sinh động
tình hình xã hội loạn lạc của Trung Quốc giai đoạn từ Xuân thu đến Chiến
quốc. Xuân thu cịn có giá trị về mặt triết học, trong đó có quan điểm của
học thuyết “Chính danh” của Khổng Tử.


18
Hình thành trên cơ sở hoạt động thực tiễn lâu dài của nhân dân lao
động, những tri thức khoa học mà nhân dân Trung Hoa đã đạt được góp

phần thúc đẩy sự phát triển đời sống vật chất và tinh thần của xã hội Trung
Quốc cổ đại. Hơn nữa, nó cịn góp phần vào việc phát triển trình độ nhận
thức, làm cơ sở cho thế giới quan triết học nảy nở và phát triển, trong đó có
triết học của Trang Tử.
Về văn hóa, thời kỳ Xuân thu – Chiến quốc diễn ra hiện tượng “trăm
nhà đua tiếng”. Sở dĩ nguyên nhân của hiện tượng này là do cuộc chiến
tranh thôn tính giữa các nước chư hầu trở nên tàn khốc, quyết liệt và đi tới
giai đoạn kết thúc, đem đến sự biến chuyển mới về xã hội nên việc xác định
hiện trạng cũng như con đường và biện pháp giải quyết các vấn đề của nó là
vơ cùng cần thiết. Bên cạnh đó, trong kho tàng văn hóa thời Xuân thu –
Chiến quốc đã ẩn chứa những tiền đề tư tưởng kích thích gợi mở sự khám
phá sáng tạo của học sĩ. Tiếp đến, do sự phát triển và phân cơng lao động
thời Xn thu – Chiến quốc đã có sự chuyển biến, cùng với sự phổ biến của
tư học nên đã cho ra đời một tầng lớp đặc biệt – kẻ sĩ – tầng lớp này ngày
càng lớn mạnh và có thể chuyên tâm quan sát, tổng kết thời thế và đề xướng
luận thuyết và giải pháp xã hội. Trong tầng lớp kẻ sĩ bình dân đã xuất hiện
nhiều nhân vật có chí lớn và tài thao lược trên các lĩnh vực chính trị, quân
sự, ngoại giao…
Chính trong thời đại lịch sử biến đổi toàn diện và sâu sắc đó đã đặt ra
những vấn đề triết học, chính trị xã hội, luân lý đạo đức, kinh tế, pháp luật,
quân sự, ngoại giao, … khiến các bậc hiền tài đương thời quan tâm lý giải,
để tìm ra phương pháp giải quyết cứu đời cứu người, làm nảy sinh ra một
loạt các nhà tư tưởng nổi tiếng và các trường phái triết học lớn. Các nhà tư
tưởng, các trường phái là đại diện cho lợi ích của các giai tầng khác nhau,
vừa kế thừa nhau, vừa đấu tranh với nhau tạo nên khơng khí sơi động trong
đời sống tinh thần xã hội Trung Quốc cổ đại, như một mốc son chói lọi


19
trong lịch sử tư tưởng phương Đơng. Như vậy, có thể nói tư tưởng triết học

Trung Quốc bắt nguồn từ thần thoại tôn giáo thời cổ. Nhưng các môn phái
triết học có tính hệ thống thì chỉ được hình thành vào thời Xuân thu – Chiến
quốc, một thời đại tư tưởng được giải phóng khỏi ảnh hưởng của thần thoại
tơn giáo truyền thống, tri thức được phổ cập. Triết học Trung Quốc ra đời
trong bối cảnh lịch sử - xã hội thời Xuân thu – Chiến quốc khi mâu thuẫn
trở nên gay gắt đòi hỏi phải giải quyết.
1.2. TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA
TRANG TỬ

Trong sự nghiệp của cuộc đời mình, Lão Tử được xem là người có
ảnh hưởng nhiều nhất đối với Trang Tử.
Về cuộc đời và sự nghiệp của Lão Tử đời sau viết lại mang nhiều tính
huyền thoại, cho nên khó xác định được chính xác. Theo Sử ký của Tư Mã
Thiên, Lão Tử là người sống cùng thời với Khổng Tử, ông là người đọc
nhiều, hiểu rộng, đi nhiều nơi song thích sống ẩn dật. Tồn bộ tư tưởng của
Lão Tử thể hiện chủ yếu trong tác phẩm Đạo đức kinh, với các nội dung cơ
bản sau: Tư tưởng về “đạo” (hay những vấn đề bản thể luận); tư tưởng về
phép biện chứng; học thuyết “vô vi” (hay những vấn đề đạo đức, nhân sinh,
chính trị, xã hội). Lão Tử và Trang Tử là hai triết gia làm tốn giấy mực cho
đời sau nhiều nhất. Một phần là vì triết thuyết của họ rất sâu sắc, ảnh hưởng
tới tư tưởng và đời sống của Trung Hoa. Nhưng nguyên nhân chính là văn
của họ q cơ đọng, hàm súc, có thể hiểu được nhiều cách, nhiều chỗ không
ai biết chắc được họ muốn nói gì, đành phải suy đốn. Hai bộ Đạo đức kinh
và Nam Hoa kinh so với hai bộ Luận ngữ và Mạnh tử rất khác nhau, một
bên súc tích, khó hiểu bao nhiêu, một bên rõ ràng, dễ hiểu bấy nhiêu.
Từ khi Tư Mã Thiên chép chung tiểu sử của Lão Tử, Trang Tử, Thân
Bất Hại, Hàn Phi trong một chương thì hễ nhắc tới Lão, chúng ta nghĩ ngay
tới Trang. Lão và Trang đại biểu cho tư tưởng lãng mạn, khống đạt, vơ vi
của phương Nam cũng như Khổng và Mạnh đại biểu cho tư tưởng thực tế



20
của phương Bắc (tức miền ở phía Bắc sơng Hồng Hà). Xét về ảnh hưởng
thì Trang nhận di sản tinh thần của nhiều nhà, từ Dương Chu sống trước
Trang khoảng một trăm năm tới Lão Tử, Liệt Tử, có lẽ cả Điền Biền và
Thận Đáo sống cùng thời với Trang và lớn hơn Trang khoảng mười tuổi,
cho nên có tác giả đã nói rằng: Trang tập đại thành các học thuyết của
phương Nam mà di sản đó cũng là thứ di sản gián tiếp chứ không trực tiếp
như Khổng để lại cho Tử Tư rồi Tử Tư truyền lại cho Mạnh Tử hai ba thế
hệ sau. Nghĩa là Mạnh Tử có thể coi là mơn đồ xa của Khổng Tử; Trang Tử
thì tuyệt nhiên khơng phải là mơn đồ của Lão Tử. Hơn nữa, Mạnh Tử được
đọc các kinh Thi, Thư, Lễ, Xuân Thu của Khổng Tử, có thể cả Luận ngữ
cùng Đại học, Trung dung nữa; còn Trang chỉ nghe được học thuyết của
Lão tử thôi chứ không được đọc vì bộ Đạo Đức kinh chưa xuất hiện hoặc
mới xuất hiện mà không tới tay ông, cho nên trong chương Nội thiên của
Nam Hoa kinh ông không dẫn một câu nào trong bộ đó cả, cịn những lời
ơng cho Lão đáp Dương Tử Cư có phần chắc là tư tưởng của Liệt Tử hoặc
của chính ơng hơn là của Lão, vì tư tưởng trong bài đó khơng hợp với Lão,
mà truyện chỉ là một “trọng ngôn” tức một thứ ngụ ngôn thôi.
Lịch sử ghi nhận Trang Tử đã phát triển học thuyết Lão Tử, ông trở
thành nhân vật đại biểu xuất sắc của Đạo gia, sau Lão Tử. Nhưng ở đây vẫn
có một câu hỏi lớn, khi xuất hiện Trang Tử, văn bản Đạo đức kinh của Lão
Tử đã phổ biến chưa? Nếu Lão Tử sống vào thế kỷ VI trước Công nguyên,
“cùng thời nhưng lớn tuổi hơn Khổng Tử” như đã chép trong Sử ký của Tư
Mã Thiên thì chẳng lẽ sau hai thế kỷ văn bản chứa đựng học thuyết nổi
tiếng của Lão Tử vẫn chưa đến tay một học giả như Trang Tử? Cho nên, ý
kiến của Vũ Đồng trong sách Trung Quốc triết học đại cương (Thương vụ
ấn thư quán, 1958) ghi nhận năm sinh và năm mất của Lão Tử là 430-340
trước Công nguyên, của Trang Tử là 360-280 trước Cơng ngun có thể xê
dịch vài ba chục năm gì đó là rất đáng chú ý: khi Lão Tử mất, Trang còn rất



×