Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Tài liệu Giới thiệu về địa chỉ IPv6 (phần cuối) docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.3 KB, 4 trang )

Giới thiệu về địa chỉ IPv6 (phần cuối)
Ngu
ồn : quantrimang.com 
Trong bài viết này, chúng tôi đã trình bày cho các bạn sự khác nhau đáng
kể về các bit trong địa chỉ IPv6. Phần cuối đã đi thẳng vào thảo luận sự
khác nhau giữa các loại địa chỉ IPv6. Trong phần 3 chúng tôi sẽ tiếp tục
thảo luận bằng việc nói về các địa chỉ multicast và anycast.

Trong phần 2 của loạt bài này, chúng tôi đã giới thiệu cho các bạn về ba loại
khác nhau của địa chỉ IPv6: unicast, multicast và anycast. Trong bài vi
ết này,
chúng tôi sẽ giải thích vắn tắt các địa chỉ unicast được sử dụng để nhận dạng
một host riêng lẻ trên mạng. Các địa chỉ multicast chỉ nhận một nhóm giao diện
mạng cư trú điển hình trên các máy tính phức hợp. Khi một gói dữ liệu được gửi
đến địa chỉ multicast thì gói đó được gửi đến tất cả các giao diện mạng trong
nhóm multicast. Giống như địa chỉ multicast, các đị
a chỉ anycast cũng nhận dạng
một nhóm cụ thể các giao diện mạng thường cư trú trên những máy tính phức
hợp. Sự khác nhau ở đây là khi gói được gửi đến địa chỉ multicast, chúng được
gửi đến tất cả các giao diện mạng (nút mạng) trong nhóm. Ngược lại, khi gói dữ
liệu được gửi đến một địa chỉ anycast thì các gói này không được gửi đến toàn
bộ nhóm và thay vào đó chúng chỉ được gử
i đến thành viên gần nhất về mặt vật
lý với người gửi.

Như bạn thấy, thực sự có một chút khá giống nhau giữa hai địa chỉ multicast và
anycast. Trong bài viết này chúng tôi sẽ kết luận loạt bài này bằng việc thảo luận
chi tiết hơn về multicast và anycast.

Địa chỉ Multicast


Như chúng tôi đã giải thích ở phần trước, các địa
chỉ multicast được sử dụng để nh
ận dạng một
nhóm các giao diện mạng, được biết đến như một
nhóm multicast. Các giao diện mạng điển hình
được định vị trên các máy tính phức hợp nhưng
đây không phải là một thiết bị thuần túy. Các địa chỉ
multicast được sử dụng để gửi thông tin đến bất kỳ
giao diện mạng nào đã được định nghĩa thuộc về
nhóm multicast.

Một trong những điều thú vị nhất về các địa chỉ multicast đó là chúng hoàn toàn
riêng biệt, một giao diện mạng có một địa chỉ multicast không có nghĩa là máy đó
không thể có một địa chỉ unicast hoặc là nằm trong các nhóm multicast khác
Trong thực tế, một vài hệ điều hành đã thêm vào đó một adapter mạng của máy
tính đối với các nhóm multicast khác nhau tại thời điểm địa chỉ unicast của
adapter được định ngh
ĩa. Ví dụ: hệ điều hành Solaris tự động thêm vào các
adapter mạng vào nút Solicited và các nhóm multicast tất cả các nút (hoặc tất cả
các router). Trong trường hợp bạn không quen với Solaris, nhóm nút Solicited
được sử dụng cho việc phát hiện ra IPv6 khác đã kích hoạt các thiết bị trên
mạng. Windows Vista cũng có một chức năng tương tự.

Chúng tôi đã giải thích cho các bạn nghe về các địa chỉ multicast được sử dụng
cho những địa chỉ multicast trông như thế nào. Mặ
c dù một địa chỉ IPv6 dài 128
bit nhưng 8 bit đầu tiên của địa chỉ lại định nghĩa cho địa chỉ multicast. Mỗi một
địa chỉ multicast sử dụng một định dạng tiền tố là 11111111. Khi được biểu diễn
trong ký hiệu hex và “:” thì một địa chỉ multicast luôn luôn bắt đầu bằng FF.


Bốn bit tiếp theo của địa chỉ multicast là các bit cờ (flag). Tại thời điểm hiện tại,
ba bit đầu trong nhóm bố
n bit là không dùng đến (chính vì vậy chúng được thiết
lập là 0). Bit cờ thứ tư được biết đến như một bit nốt đệm. Nhiệm vụ của nó là để
biểu thị xem địa chỉ đó là một địa chỉ tạm thời hay thường xuyên. Nếu địa chỉ đó
là địa chỉ thường xuyên thì bit này sẽ được gán bằng 0 còn ngược lại nó sẽ
được gán bằng 1.

Bốn bit tiếp theo trong đị
a chỉ multicast được biết đến như các bit ID Scope. Số
lượng của không gian dự trữ cho các bit Scope ID là 4 bit, điều đó có nghĩa là có
16 giá trị khác nhau được biểu thị. Mặc dù không phải tất cả 16 giá trị đều được
sử dụng tại thời điểm hiện tại, 7 trong số các giá trị đó được sử dụng để xác định
phạm vi của địa chỉ. Ví dụ: nếu một
địa chỉ có phạm vi toàn cầu thì địa chỉ là hợp
lệ trên toàn bộ Internet. Hiện tại đã sử dụng các bit Scope ID như sau:  
Giá trị
thập phân
Giá trị nhị
phân
Phạm vi địa
chỉ
0 0000 Dự trữ
1 0001
Phạm vi nút
nội bộ
2 0010
Phạm vi liên
kết nội bộ
5 0101

Phạm vi trang
nội bộ
8 1000
Phạm vi tổ
chức nội bộ
14 1110
Phạm vi toàn
cầu
15 1111 Dự trữ
112 bit còn lại được sử dụng cho nhóm ID. Kích thước của nhóm ID cho phép
các địa chỉ multicast dùng hết 1/256 phần không gian địa chỉ của IPv6.

Để đặt lược đồ địa chỉ này trong phần sắp tới, chúng tôi cho bạn xem một số địa
chỉ multicast được sử dụng thường xuyên nhất:

FF0x0:0:0:0:0:1
Đây là một multicast cho tất cả các nút. Bạn có thể phải lưu ý đến chữ “x” trong
địa chỉ, nó không phải là một kí tự hệ
số hex. Nó là một trình giữ chỗ cho phạm
vi. Địa chỉ cụ thể này có thể sử dụng phạm vi nút nội bộ (FF01:0:0:0:0:0:1)
hoặc phạm vi liên kết nội bộ (FF02:0:0:0:0:0:1).

FF0x:0:0:0:0:0:2
Địa chỉ multicast này được gán cho tất cả các router bên trong phạm vi đã định
nghĩa. Ở đây cũng có kí tự “x”, nó cũng có chức năng tương tự. Các phạm vi
hợp lệ là nút nội bộ (FF01:0:0:0:0:0:2), liên kế
t nội bộ
(FF02:0:0:0:0:0:2) và trang nội bộ (FF05:0:0:0:0:0:2).

Địa chỉ Anycast


Nếu đã nghiên cứu giao thức IPv4 thì bạn có thể biết được rằng các khái niệm
của unicast và multicast cũng tồn tại ở IPv4, mặc dù vậy ở IPv6 chúng được bổ
sung nhiều vấn đề khác. Anycast là duy nhất với IPv6. Anycast làm việc giống
như một sự kết hợp các địa chỉ unicast và multicast. Một địa chỉ unicast được s

dụng để gửi dữ liệu đến một người nhận cụ thể nào đó, một địa chỉ multicast
được sử dụng để gửi dữ liệu đến một nhóm người nhận còn một địa chỉ anycast
thì được sử dụng để gửi dữ liệu đến một người nhận cụ thể ở ngoài nhóm người
nhận.

Trong trường hợp bạ
n đang phân vân rằng anycast được tạo như một cách làm
cân bằng tải trở lên dễ dàng hơn. Hãy hình dung một tình huống bạn cần cung
cấp một số lượng lớn người dùng để họ có thể truy cập đến các dịch vụ hoặc
đến một router của họ. Trong tình huống như vậy thì nó thường làm cho bạn
phải sử dụng nhiều máy chủ để cấu hình dịch vụ đang được cung cấp hoặc sử
dụng các router phức hợ
p hay bất cứ trường hợp nào có thể. Lý do ở đây là vì
nó có thể cho phép phân phối luồng công việc giữa các thiết bị phức hợp.

Loại cân bằng tải này thực hiện rất khó khăn nếu sử dụng Ipv4 (mặc dù nó đã
được thực hiện). Siệc sử dụng các địa chỉ anycast với IPv6 sẽ cho hiệu quả
tuyệt đối với việc cân bằng tải. Bạn cần gử
i một yêu cầu người dùng đến một
trong những thiết bị, trong khi không thể quan tâm đến các thiết bị đã được chỉ
định quản lý yêu cầu mà chỉ là yêu cầu phải được quan tâm. Bằng việc sử dụng
các địa chỉ anycast, mỗi yêu cầu sẽ tự động gửi đến thiết bị gần nhất về mặt địa
lý đến máy tính đưa ra yêu cầu. Trong một số tình huống, anycast thậ
m có thể

được sử dụng để cung cấp lỗi dung sai cho một router lỗi. Lỗi có thể được phát
hiện và các yêu cầu có thể được gửi lại vòng qua một router khác lân cận.

Vấn đề kỳ lạ nhất với các địa chỉ anycast là không có lược đồ định địa chỉ đặc
biệt nào. Với những gì trong bài viết này, bạn đã thấy được có rất nhiều loại
nguyên tắc bao trùm sử dụng và c
ấu trúc của các địa chỉ unicast và multicast là
để gán cùng một địa chỉ unicast cho các host phức hợp. Với cách làm như vậy
các địa chỉ unicast trở thành một địa chỉ anycast.

Kết luận

Trong loạt bài viết này, chúng tôi đã cố gắng lướt qua một cách cơ bản về giao
thức IPv6. Hầu hết các quản trị viên có thể không cần phải trở thành các chuyên
gia ngay lập tức nhưng IPv6 là một thành phần cần thi
ết trong Windows Vista và
Longhorn Server. Chính vì vậy, chúng ta tìm hiểu để biết chút ít về nó là một việc
làm cần thiết.
 

×