BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA CHÍNH TRỊ - LUẬT
-----o0o----
BÀI TẬP LỚN HỌC PHẦN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
TÊN ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ
CÁCH MẠNG GIẢI PHĨNG DÂN TỘC. LIÊN HỆ BẢN THÂN
TRONG VIỆC BẢO VỆ THÀNH QUẢ CÁCH MẠNG, GIỮ GÌN
ĐỘC LẬP, TỰ DO VÀ TỒN VẸN LÃNH THỔ THIÊNG LIÊNG
CỦA TỔ QUỐC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
NHĨM: 3
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 7 năm 2021
BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA CHÍNH TRỊ - LUẬT
-----o0o----
TÊN ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ
CÁCH MẠNG GIẢI PHĨNG DÂN TỘC. LIÊN HỆ BẢN THÂN
TRONG VIỆC BẢO VỆ THÀNH QUẢ CÁCH MẠNG, GIỮ GÌN
ĐỘC LẬP, TỰ DO VÀ TỒN VẸN LÃNH THỔ THIÊNG LIÊNG
CỦA TỔ QUỐC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
Giảng viên hướng dẫn:
Nhóm: 3
Trưởng nhóm : Phạm Duy Tâm - 2029190621
Nguyễn Thị Lợi
Thành viên:
1. Nguyễn Trần Thảo Uyên - 2029190724
2. Trần Văn Việt - 2003190181
3. Phạm Vũ Hải Đăng - 2005191033
4. Thân Hùng Vương - 2003190193
5. Mai Thị Kim Trâm - 2005190696
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 7 năm 2021
LỜI CẢM ƠN
Chúng em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Khoa, đến Trường đã tạo điều kiện thuận
lợi cho chúng em học tập và hoàn thành đề tài này. Đặc biệt, chúng em xin bày tỏ lòng
biết ơn sâu sắc đến cô Nguyễn Thị Lợi đã dày công truyền đạt kiến thức và hướng dẫn
chúng em trong quá trình làm bài.
Chúng em đã cố gắng vận dụng những kiến thức đã học được trong học kỳ qua để hoàn
thành bài tiểu luận. Nhưng do kiến thức hạn chế và khơng có nhiều kinh nghiệm thực
tiễn nên khó tránh khỏi những thiếu sót trong q trình tìm hiểu và trình bày. Rất kính
mong sự góp ý của q thầy cơ để bài tiểu luận của chúng em được hồn thiện hơn.
Một lần nữa, em xin trân trọng cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ của các thầy cô đã giúp đỡ
em trong quá trình thực hiện bài tiểu luận này.
LỜI CAM ĐOAN
Nhóm chúng em xin cam đoan đề tài: “Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cách
mạng giải phóng dân tộc. Liên hệ bản thân trong việc bảo vệ thành quả cách mạng, giữ
gìn độc lập, tự do và toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc trong giai đoạn hiện
nay” do nhóm chúng em nghiên cứu và thực hiện.
Nhóm chúng em đã kiểm tra dữ liệu theo quy định hiện hành.
Kết quả bài làm của đề tài “Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cách mạng giải
phóng dân tộc. Liên hệ bản thân trong việc bảo vệ thành quả cách mạng, giữ gìn độc
lập, tự do và toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay” là
trung thực và không sao chép từ bất kỳ bài tập của nhóm khác.
Các tài liệu được sử dụng trong tiểu luận có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG ..........................................................................................................3
1. Khái niệm về giải phóng dân tộc ..............................................................................3
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc .......................................4
2.1
sản
Con đường cách mạng giải phóng dân tộc phải là con đường cách mạng vô
4
2.2
Cách mạng phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo ....................................................6
2.3 Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc chính là đồn kết tồn dân trên
cơ sở liên minh cơng – nơng: .......................................................................................7
2.4
Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo ............9
2.5
Phải tiến hàng bằng phương pháp bạo lực cách mạng .....................................12
3. ý nghĩa.....................................................................................................................16
4. Giải thích, liên hệ bản thân về việc bảo vệ thành quả cách mạng, chủ quyền tổ
quốc, biển đảo trong giai đoạn hiện nay. .......................................................................16
PHẦN KẾT LUẬN .......................................................................................................21
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................................22
[1] PGS, TS Nguyễn Danh Tiên (2020). Những sáng tạo lý luận của hồ chí minh về
cách mạng giải phóng dân tộc và giá trị thời đại. Truy cập ngày 10/7/2021, từ
........................................................22
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc cũng là giải phóng giai cấp,
giải phóng con người chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh
. Đây cũng là vấn đề cơ bản của đường lối cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người vừa là sự kết hợp tinh hoa văn hóa dân tộc và trí tuệ thời đại, vừa thể
hiện tinh thần độc lập, tự chủ sáng tạo của người trong việc vận dụng những nguyên lý
phổ biến của Chủ nghĩa Mac Leenin vào hoàn cảnh Việt Nam. Chính vì vậy, tư tưởng
Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người được coi là bước phát triển mới học thuyết Mac Leenin về cách mạng thuộc địa
ở thời điểm các dân tộc bị áp bức vùng lên đấu tranh cho độc lập, tự do.
Vì vậy nhóm chúng em xem đây là nội dung rất đáng quan tâm, cần thiết làm và hiểu
rõ quan điểm này của Hồ Chí Minh.
2. Mục đích và đối tượng nghiên cứu của đề tài
Trong bối cảnh của một nước thuộc địa, muốn có độc lập dân tộc, phải tiến hành
cách mạng giải phóng dân tộc, đánh đuổi thực dân và phong kiến tay sai. Cuộc cách
mạng này muốn thắng lợi thì phải đi theo con đường nào, ai lãnh đạo, lực lượng và
phương pháp cách mạng ra sao? Nhóm chúng em nghiên cứu chi tiết hơn để làm rõ các
vấn đề này.
Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu quan điểm của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân
tộc từ đó Liên hệ bản thân trong việc bảo vệ thành quả cách mạng, giữ gìn độc lập, tự
do và tồn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.
1|trang
Phương pháp nghiên cứu
Với phương pháp luận là quan điểm của Hồ Chí Minh đi tìm hiểu sâu giúp cho tư duy
và góc độ nghiên cứu ln đi đúng hướng và hiệu quả. Kết hợp với phương pháp phân
tích tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp liên ngành là ba phương pháp nghiên
cứu chính khi nghiên cứu đề tài này.
2|trang
PHẦN NỘI DUNG
1. KHÁI NIỆM VỀ GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
Giải phóng dân tộc là phong trào đấu tranh địi quyền độc lập dân tộc và bảo vệ độc
lập dân tộc
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh:
Giải phóng dân tộc là nhiệm vụ , mục tiêu hàng đầu của cách mạng:
Giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, người cộng sản Nguyễn Ái Quốc đã đặt cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc ở nước ta vào quỹ đạo của cuộc cách mạng vơ sản nghĩa là sự
nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân ta phải gắn liền với sự nghiệp giải phóng giai
cấp vơ sản.
Trong điều kiện một nước thuộc địa nửa phong kiến, lực lượng giải phóng dân tộc
là lực lượng tồn dân, trong đó liên minh cơng nơng làm nịng cốt. Hồ Chí Minh đã đề
ra chiến lược đại đoàn kết toàn dân dưới ngọn cờ yêu nước “đem sức ta mà giải phóng
cho ta” .Bác chỉ rõ: Giải phóng dân tộc là nhiệm vụ, mục tiêu hàng đầu của cách mạng.
Bởi vì nếu khơng giải quyết được vấn đề dân tộc, khơng địi được độc lập tự do cho tồn
thể dân tộc, thì chẳng những tồn thể dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi
giai cấp đến vạn năm sau cũng khơng địi lại được.
Giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội vì con người, do con người:
Theo quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng con người khơng có bức tường ngăn cách mà là cách mạng khơng
ngừng. Giải phóng dân tộc là tiền đề, điều kiện để giải phóng giai cấp, giải phóng con
người
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, mới đảm bảo đem lại quyền và lời ích
của con người. Bác khẳng định “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nơ lệ.
Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt
3|trang
chủng tộc, nguồn gốc, sự tự do bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm
cho mọi người”.
2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHĨNG DÂN TỘC
2.1 Con đường cách mạng giải phóng dân tộc phải là con đường cách mạng vô
sản
Tinh thần yêu nước và chống giặc ngoại xâm, bảo vệ chủ quyền và nền độc lập là
truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Phát huy truyền thống đánh giặc giữ nước
của ông cha ta, tận mắt chứng kiến cảnh nước mất nhà tan, nhân dân đói khổ. Ngày
5/6/1911, với hai bàn tay trắng người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã rời bến
Nhà Rồng trên con tàu Đô đốc Latouche-Tréville lên đường sang Pháp nhằm thực hiện
công cuộc giải phóng Việt Nam khỏi ách thuộc địa của Thực dân Pháp. Mang khát vọng
giải phóng dân tộc, qua nhiều năm bơn ba ở nước ngồi, Nguyễn Ái Quốc đã đến với
chủ nghĩa Mác - Lênin và tìm ra con đường cách mạng đúng đắn, đó là con đường cách
mạng vô sản. Người khẳng định muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, khơng có con
đường nào khác ngồi con đường cách mạng vô sản. Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con
đường cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga năm
1917, bởi theo Người chỉ có cách mệnh Nga là đã thành cơng, và thành công đến nơi,
nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật. Phương hướng đấu
tranh giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vơ sản, là cuộc cách mạng toàn
diện, sâu sắc và triệt để. Cuộc cách mạng đó khơng chỉ giải phóng giai cấp, mà cịn giải
phóng dân tộc, giải phóng xã hội.
Trong q trình vận dụng lý luận cách mạng vơ sản ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã
kiên trì khắc phục những trở ngại của khuynh hướng giáo điều, nhấn mạnh một chiều
đấu tranh giai cấp trong nửa sau những năm 20 và nửa đầu những năm 30 của thế kỷ
XX, làm cho lý luận cách mạng giải phóng dân tộc theo cách mạng vơ sản có sức sống
mạnh mẽ, thâm nhập trong đông đảo quần chúng nhân dân. Đi theo con đường cách
mạng vơ sản, Hồ Chí Minh sớm xác định cách mạng Việt Nam là làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Sau khi độc lập, phải tiến lên
xây dựng CNXH. Người dành nhiều tâm trí vào cách mạng XHCN và xây dựng CNXH
4|trang
ở Việt Nam, hình thành nên những quan điểm hết sức cơ bản về CNXH và con đường
đi lên CNXH từ một nước thuộc địa, với những tàn tích phong kiến nặng nề; xác định
những đặc trưng bản chất của CNXH, mục tiêu và bước đi để đạt tới CNXH. Đó là một
q trình cách mạng lâu dài, gian khổ, phải trải qua nhiều chặng đường khác nhau, vì sự
nghiệp giải phóng con người, làm cho con người phát triển tồn diện, có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc.
Cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, tức là độc lập dân
tộc đi lên CNXH. Độc lập dân tộc là điều kiện tất quyết để đi lên CNXH. Độc lập dân
tộc thể hiện ở chỗ giành và giữ chính quyền dân chủ nhân dân, chuẩn bị tiền đề đi lên
CNXH, nhưng nếu độc lập mà dân khơng hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng
có nghĩa lý gì. CNXH là hạnh phúc, tự do. Vì vậy, phải xây dựng CNXH như là sự phát
triển của độc lập dân tộc, để bảo vệ độc lập dân tộc và tạo ra bước phát triển mới với
một trình độ cao hơn của tồn bộ tiến trình cách mạng. Đây là sự phát triển sáng tạo luận
điểm của Lênin về cách mạng không ngừng - cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng
XHCN, giữa hai giai đoạn đó khơng có một bức tường thành nào ngăn cách cả.
Thực tiễn cho thấy, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con
đường của cách mạng vô sản là một trong những sáng tạo nổi bật về lý luận của Hồ Chí
Minh. Chính theo con đường cách mạng vô sản, nhân dân Việt Nam đã làm nên cuộc
Cách mạng Tháng Tám 1945 “long trời lở đất”, dẫn tới sự ra đời của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hịa (2/9/1945). Trong Tun ngơn độc lập đọc ngày 2/9/1945, Hồ Chí
Minh tun bố: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành
một nước tự do độc lập. Hồ Chí Minh đã tuyên bố với toàn thế giới về quyền độc lập
dân tộc, thống nhất đất nước, toàn vẹn lãnh thổ và quyền dân tộc tự quyết của dân tộc
Việt Nam. Trong đó, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ vừa là tiền
đề, vừa là điều kiện tiên quyết của chế độ dân chủ, cho việc xác lập và bảo vệ quyền con
người.
Cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng và Hồ Chí Minh lãnh đạo đã mở ra
một thời đại mới cho dân tộc Việt Nam - thời đại độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội. Trong cuộc đấu tranh, tất cả người dân Việt Nam đã kiên cường đấu tranh cho
5|trang
độc lập dân tộc và tự do cho nhân dân. Quyền vốn dĩ tự nhiên đó của con người Việt
Nam, của dân tộc Việt Nam được cộng đồng quốc tế đón nhận như là một trong những
tư tưởng lớn của thời đại.
2.2 Cách mạng phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo
Đây là một sáng tạo của Hồ Chí Minh về lý luận cách mạng giải phóng dân tộc. Cách
mạng trước hết phải có đảng lãnh đạo, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngồi
thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản ở mọi nơi. Đảng được xây dựng theo
nguyên tắc đảng kiểu mới của Lênin, được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác - Lênin. Nhiệm
vụ lãnh đạo của Đảng Cộng sản là xác định mục tiêu, xây dựng đường lối cách mạng
giải phóng dân tộc; tổ chức vận động, tập hợp các lực lượng cách mạng, xây dựng Mặt
trận Dân tộc thống nhất. Đối với cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản phải thực hiện
đồng thời hai nhiệm vụ: chống đế quốc và phong kiến, giành độc lập dân tộc, đem lại tự
do và hạnh phúc cho nhân dân. Cương lĩnh Chính trị đầu tiên do Nguyễn Ái Quốc soạn
thảo đã khẳng định: Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, Đảng không chỉ là của
riêng giai cấp công nhân, mà của toàn dân tộc. Đại hội lần thứ II của Đảng vào tháng
2/1951, Hồ Chí Minh cho rằng quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
và của dân tộc là một. Năm 1961, nhân dân miền Bắc đang thực hiện kế hoạch 5 năm
lần thứ nhất, Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng
thời cũng là của dân tộc.
Đó là một Đảng đạo đức và văn minh, được võ trang bằng lý luận Mác – Lênin, có
bản lĩnh chính trị vững vàng, đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm chất trong sáng, năng
lực trí tuệ dồi dào, biết giải quyết mọi vấn đề từ thực tiễn Việt Nam và theo kịp bước
tiến của thời đại. Đảng phải xây dựng được một Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi,
vững chắc, lâu dài, chân thành, đoàn kết; trong đó, lực lượng của Đảng là cả dân tộc,
mọi con dân nước Việt. Đảng đó cịn tập hợp các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên
thế giới đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa thực dân, vì mục tiêu chung của nhân
loại tiến bộ là: hịa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ.
6|trang
Sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng
lợi của cách mạng Việt Nam, chính trong q trình lãnh đạo cách mạng, Đảng đã được
thử thách và không ngừng trưởng thành, giàu kinh nghiệm để ngày càng xứng đáng với
vai trò và sứ mệnh lãnh đạo cách mạng, xứng đáng với sự tin cậy của nhân dân.
2.3 Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc chính là đồn kết tồn dân
trên cơ sở liên minh cơng – nơng:
Hồ Chí Minh cho rằng, cách mạng giải phóng dân tộc là việc chung của dân chúng,
vì vậy phải đồn kết tồn dân, sĩ, nơng, cơng, thương đều nhất trí chống lại cường quyền,
nhưng trong sự tập hợp đó, ln phải nhớ: “Cơng nông là người chủ cách mệnh… Công
nông là gốc cách mệnh”.
Sinh thời, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đồn kết
tồn dân, trên cơ sở liên minh cơng nơng làm nịng cốt”... Trong đó, “thực hiện cho được
liên minh cơng nơng vì đó là sự bảo đảm chắc chắn nhất những thắng lợi của cách
mạng”.
Từ thực tiễn Việt Nam, với tuyệt đại đa số dân số là nơng dân, Hồ Chí Minh cho
rằng, nông dân là những người chịu nhiều tầng áp bức, bị bần cùng hóa nên họ ln có
ý thức phản kháng, sẵn sàng tham gia cách mạng. Do đó, cách mạng giải phóng dân tộc
phải có sự tham gia của giai cấp nơng dân và là sự nghiệp của tồn dân. Chủ tịch Hồ
Chí Minh khẳng định: Nơng dân là một lực lượng rất to lớn của dân tộc, một đồng minh
rất trung thành của giai cấp công nhân. Muốn kháng chiến kiến quốc thành công, muốn
độc lập, thống nhất thật sự, ắt phải dựa vào lực lượng của nông dân. Đồng bào nơng dân
sẵn có lực lượng to lớn, sẵn có lịng nồng nàn u nước, sẵn có chí khí kiên quyết đấu
tranh và hy sinh. Do vậy, vấn đề giải phóng dân tộc ở Việt Nam, thực chất là vấn đề
nông dân. Nông dân vừa là động lực, vừa là lực lượng đơng đảo, nịng cốt, và cũng là
đối tượng vận động của cách mạng.
7|trang
Đánh giá cao vai trò, sứ mệnh của giai cấp nơng dân, nhưng Hồ Chí Minh ln khẳng
định, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng và Đảng phải lãnh đạo xây dựng
khối liên minh công - nơng làm nịng cốt cho Mặt trận Dân tộc thống nhất. Hồ Chí Minh
chủ trương vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam, những người
dân mất nước, đang phải chịu thân phận nô lệ, tham gia vào Mặt trận Dân tộc thống
nhất, nhằm huy động sức mạnh của toàn dân tộc vào cuộc đấu tranh giành độc lập, tự
do. Đây là luận điểm rất mới, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn đối với cách mạng thế
giới, đặc biệt là phong trào giải phóng dân tộc. Đó là sự bổ sung kịp thời vào kho tàng
lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Có thể nói, đối với cách mạng Việt Nam, luận điểm
của Hồ Chí Minh về vấn đề xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên minh
công - nông đã được vận dụng một cách chủ động, sáng tạo trong tiến trình tiến hành
cách mạng giải phóng dân tộc.
Như vậy, tổ chức chính trị có thể thực hiện việc quy tụ, tập hợp rộng rãi mọi tầng
lớp nhân dân là “Mặt trận dân tộc thống nhất” dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm tạo ra
sức mạnh của cả dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do; đấu tranh chống lại
kẻ thù là bọn đế quốc và đại địa chủ phong kiến, tay sai.
Đảng cần có các chủ trương, chính sách tranh thủ vận động các tầng lớp nhân dân vì
mục tiêu chung. Trong sách lược vắn tắt, Người viết: “Đảng phải hết sức liên lạc với
tiểu tư sản, trí thức, trung nơng, Thanh niên, Tân Việt... để kéo họ đi vào phe vô sản giai
cấp. Cịn đối với phú nơng, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản
cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng tập trung...
Trong khi chủ trương đoàn kết, tập hợp rộng rãi các lực lượng dân tộc chống đế quốc,
Hồ Chí Minh vẫn nhắc nhở phải quán triệt quan điểm giai cấp: “cơng nơng là gốc cách
mệnh; cịn học trị, nhà bn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực
khổ bằng công nông; 3 hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi”. Và trong
khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích
gì của cơng nơng mà đi vào đường thỏa hiệp”.
8|trang
2.4 Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo
Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo. Đây là một
luận điểm mới và sáng tạo của Hồ Chí Minh. Trong phong trào cộng sản quốc tế lúc bấy
giờ đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc trực
tiếp vào thắng lợi của cách mạng vơ sản chính quốc. Do nhận thức được thuộc địa là
một khâu yếu trong hệ thống của chủ nghĩa đế quốc, do đánh giá đúng đắn sức mạnh
của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, ngay từ năm 1924, Người đã sớm cho rằng
cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc
mà có thể giành thắng lợi trước.Đây là một cống hiến rất quan trọng vào kho tàng lý
luận Mác – Lênin, đã được thắng lợi của cách mạng Việt Nam chứng minh là hoàn toàn
đúng đắn.
Tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc phạm trù của chủ nghĩa Mác – Lênin, mang bản chất
khoa học và cách mạng. Cũng như chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ
thống mở, luôn luôn được phát triển theo dịng chảy của chung của trí tuệ và cách mạng
thế giới. Hồ Chí Minh là một trong những nhân vật hiếm có trên thế giới hiểu biết sâu
sắc và có thể vận dụng các giá trị tư tưởng, lý luận, văn hóa, đạo đức của Phương Đơng
và Phương Tây một cách hết sức nhuần nhuyễn. Thành công của Chủ tịch Hồ Chí Minh
chính là sự kết hợp giữa giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc với tinh hoa văn hóa
nhân loại. Trên con đường ra đi tìm đường cứu nước, đứng trước Hồ Chí Minh là nhiệm
vụ tập hợp được sức mạnh của toàn dân tộc để đấu tranh giành lại nền độc lập dân tộc
do thực dân Pháp đã cướp mất từ cuối thể kỷ thứ XIX. Con đường đấu tranh giành lại
nền độc lập dân tộc của các dân tộc thuộc địa lúc đó chưa có sẵn. Bởi vậy, sự tìm tịi con
đường cứu nước của Hồ Chí Minh phải dựa trên sự sáng tạo từ thực tiễn của đất nước
và thời đại. Toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh – hệ thống các quan điểm cơ bản và toàn
diện và sâu sắc của cách mạng Việt Nam là sự sáng tạo vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh đã vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng giải phóng giai cấp, giải
phóng con người của chủ nghĩa Mác – Lênin trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân
9|trang
tộc, kết hợp nhuần nguyễn và sáng tạo vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và
giải phóng con người trong cách mạng Việt Nam.
Hoàn cảnh lịch sử cho sự kết hợp đó là chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế
quốc chủ nghĩa, trên thế giới xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa; độc lập, tự do của các
dân tộc trở thành vấn đề thời đại, mà C.Mác, F.Ăngghen chưa có điều kiện lịch sử để đề
cập đến. Từ thực tiễn của nước Nga Sa hoàng và thế giới sau Cách mạng Tháng Mười,
V.I. Lênin đã đề cập đến sự kết hợp giữa cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng
vơ sản trong “Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về các vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc
địa”. Tiếc rằng trong những năm sau đó, V.I. Lênin chưa có nhiều điều kiện để cụ thể
hóa và tổ chức thực hiện. Người nắm lấy và vận dụng sáng tạo tư tưởng đó là Nguyễn
Ái Quốc. Bối cảnh của sự vận dụng tư tưởng của V.I. Lênin là những khảo nghiệm trước
đó của Hồ Chí Minh. Trên đường tiếp cận chân lý cứu nước, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu
rất nhiều tài liệu về quyền lợi của dân tộc và của con người trong đó nổi bật nhất là:
Tun ngơn độc lập 1776 của nước Mỹ và tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791
của cách mạng Pháp, hiểu rõ chân lý bất di bất dịch về quyền cơ bản của các dân tộc. Vì
vậy, khi tiếp cận Luận cương của Lênin lần đầu tiên trên Báo Nhân Đạo của Đảng xã
hội Pháp, số tháng 7-2020, Hồ Chí Minh đã coi “đây là cái cần thiết cho chúng ta” và
khẳng định “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác cách
mạng vơ sản”.
Sáng tạo nổi bật của Hồ Chí Minh là đặt mục tiêu giải phóng dân tộc lên trên hết và
trước hết. Ngay trong những văn kiện đầu tiên của Đảng, Hồ Chí Minh đã viết về sự cần
thiết phải tiến hành “trước làm cách mạng quốc gia, sau làm cách mạng thế giới. Từ
trong thực tế chỉ đạo cách mạng, năm 1941, khi thành lập Mặt trận Việt Minh, Người
chỉ rõ: trong lúc này, phải đem sức ta mà giải phóng cho ta. Độc lập dân tộc lúc này mà
khơng giành lại được, thì quyền lợi giai cấp ngàn vạn năm cũng khơng địi lại được.
Năm 1946, Người ra lời kêu toàn quốc kháng chiến:Thà hi sinh tất cả, chứ nhất định
không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ!. Tư tưởng về việc đặt lợi ích dân
tộc lên trên, lên trước được thể hiện cụ thể trong lời kêu gọi chống Mỹ cứu nước năm
10 | t r a n g
1966 bằng một khẩu hiệu, mang một chân chân lý bất hủ, có giá trị cho mọi thời đại:
“Khơng có gì q hơn độc lập, tự do”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc có sự sáng tạo lớn, khi
Người khẳng định chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực lớn của đất
nước. Năm 1924, từ sự phân tích đặc điểm giai cấp, dân tộc ở các nước phương Đơng,
Hồ Chí Minh khẳng định: Đối với các dân tộc thuộc địa ở phương Đông, “chủ nghĩa dân
tộc là một động lực lớn của đất nước”; “người ta sẽ không thể làm gì được cho người
An Nam nếu khơng dựa trên cái động lực vĩ đại và duy nhất trong đời sống của họ”.
Người kiến nghị về Cương lĩnh hành động của Quốc tế Cộng sản: “Phát động chủ nghĩa
dân tộc nhân danh Quốc tế Cộng sản. Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi nhất định
chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”.
Sáng tạo trong tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh
vừa mang tính dân tộc, vừa mang tính thời đại và được chứng minh bằng thực tế thắng
lợi của cách mạng Việt Nam. Từ quan điểm chung: cách mạng giải phóng dân tộc muốn
thắng lợi phải đi theo con đường của cách mạng vô sản; Cách mạng giải phóng dân tộc
dưới sự lãnh đạo của Đảng cách mạng, Hồ Chí Minh đã khẳng định: Cách mạng giải
phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân, cách mạng giải phóng dân tộc cần
được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vơ
sản ở chính quốc; cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng sự kết hợp
lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang trong nhân dân; được tiến
hành dưới hình thức tổng khởi nghĩa tồn dân… Thắng lợi vĩ đại có ý nghĩa lịch sử của
Cách mạng Tháng Tám và việc thành lập Nhà nước cộng hòa dân chủ Việt Nam, Nhà
nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á đã khẳng định sự sáng tạo trong tiến
hành cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh.
11 | t r a n g
2.5 Phải tiến hàng bằng phương pháp bạo lực cách mạng
Theo C.Mác, bạo lực chỉ là bà đỡ của một xã hội được thai nghén trong xã hội cũ.
Bạo lực vì vậy khơng phải là cứu cánh của giai cấp vô sản mà chỉ là phương tiện của
giai cấp vô sản. Việc sử dụng lực lượng cách mạng trong cuộc đấu tranh chống ách
thống trị của chủ nghĩa tư bản, xây dựng và bảo vệ chế độ mới xã hội chủ nghĩa là một
tất yếu khách quan.
Cố Tổng Bí thư Trường Chinh từng nhấn mạnh: “Lịch sử phát triển cách mạng thế
giới đã cho thấy, một phong trào nào đó có lúc đình trệ, khơng có lối thốt, thậm chí thất
bại vì khơng có mục đích. Có mục tiêu và phương hướng rõ ràng thì khơng. ”Lực lượng
cách mạng khơng tự tổ chức được mà chủ yếu do thiếu phương pháp cách mạng và hình
thức đấu tranh phù hợp”[1]. Đó là thực tế của lịch sử dân tộc Việt Nam được thể hiện
qua các phong trào yêu nước cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 (Phong trào Cần Vương,
Phong trào Nông dân, Phong trào yêu nước do tư sản Phan Thiết lãnh đạo). Bội Châu,
Phan Châu Trinh, v.v.), tất cả các phong trào yêu nước này lại thất bại do thiếu hình
thức và phương pháp đấu tranh đúng đắn. Mọi khuynh hướng cải cách và thỏa hiệp đều
không thể dẫn cách mạng đến thành công. Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã chỉ rõ phương thức tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc phải bằng bạo lực cách
mạng. “Sự áp bức, bóc lột vơ nhân đạo của đế quốc Pháp đã làm cho đồng bào ta thấy
rõ, dân ta sống có Cách Mạng,và chết nếu khơng có Cách Mạng”[2]. Vì lẽ đó, “trong
cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, phải dùng bạo lực
cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành chính quyền và bảo vệ nó”[3]. Bạo
lực cách mạng là lực lượng của cả dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thông qua việc
sử dụng lực lượng cách mạng, Đảng ta đã gắn chặt cả lực lượng chính trị và lực lượng
vũ trang; Sử dụng kết hợp hai hình thức đấu tranh (đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ
trang) để hình thành phương thức bạo lực cách mạng có hiệu quả, trong đó, đấu tranh
chính trị được xác định là hình thức đấu tranh cơ bản, có tầm quan trọng trọng yếu, là
cuộc tiến công và cách mạng. thời kỳ đe dọa lớn về chính trị và tinh thần đối với kẻ thù.
Chiến đấu vũ trang là hình thức chiến đấu cơ bản trực tiếp tiêu hao sinh lực của kẻ thù,
vô hiệu hố các kế hoạch và hành động chính trị, quân sự của chúng. Cuộc đấu tranh
chính trị phát triển. Bằng cách này, một phương pháp cách mạng hoàn chỉnh có thể được
12 | t r a n g
tạo ra để cản trở mọi kế hoạch của kẻ thù [4]. Bộ phận trung tâm của lực lượng chính trị
là Mặt trận Việt Minh. Từ căn cứ địa Cao Bằng, căn cứ địa của Mặt trận Việt Minh
nhanh chóng lan ra chiến khu Việt Bắc và cả nước. Các tổ chức cứu quốc phát triển khắp
nơi. Đầu năm 1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp và quyết định chủ trương
phát triển mặt trận dân tộc thống nhất và tập trung mọi hoạt động chuẩn bị cho việc khởi
nghĩa vũ trang khi có thời cơ. Việc thực hiện chính sách này đã thúc đẩy sự chuẩn bị
của lực lượng cách mạng. Một nền văn hóa mới để chống đế quốc Pháp, phát xít Nhật
và giành độc lập dân tộc. Đồng thời, đảng đã vận động và ủng hộ một số sinh viên, trí
thức yêu nước thành lập “Đảng Dân chủ Việt Nam” (Đảng Dân chủ Việt Nam)( 6/1944)
góp phần mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc và làm thất bại âm mưu chia rẽ, lôi
kéo giai cấp tư sản dân tộc và trí thức của phát xít Nhật, phát xít tay sai của hắn. Đảng
cũng đẩy mạnh cơng tác vận động binh lính người Việt trong qn đội Pháp và người
nước ngồi thơng qua “Mặt trận dân chủ chống phát xít Nhật” ở Đơng Dương. Sau ngày
Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), đảng bộ đã phát động phong trào nơng thơn phá kho
thóc của Nhật để cứu đói. Mặt trận Việt Minh tổ chức các cuộc mít tinh và biểu tình
chống phát xít Nhật ở các đơ thị. Trong thời gian trước cuộc nổi dậy, lực lượng vũ trang
đóng một vai trị quan trọng trong việc phát triển du kích địa phương ở nơng thơn và
xây dựng căn cứ địa cách mạng. Các lực lượng vũ trang chiến đấu sẽ gây ra hỗn loạn.
Đó là một cơ hội lớn cho cách mạng sẽ giúp phát triển cơ sở chính trị của quần chúng.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh “Thời cơ tổng khởi nghĩa của toàn dân chưa đến. Nếu bây giờ
chúng ta chỉ hành động dưới hình thức chính trị, thì chúng ta khơng thể”[5]. Ngay sau
khởi nghĩa Bắc Sơn (9/1940), Đội du kích Bắc Sơn vẫn đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp
của Ban Thường vụ Trung ương Đảng và được đổi tên thành Cứu quốc quân. Dưới thời
Pháp thuộc, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra lệnh cho các Đảng viên Cứu quốc
quân tham gia quần chúng, kiên trì đấu tranh chống địch khủng bố, duy trì quân đội và
động viên các phong trào quần chúng trong cả nước. Từ giữa năm 1944 tình hình trong
nước và thế giới phát triển nhanh chóng, cuộc chiến tranh chống chủ nghĩa phát xít sắp
kết thúc, qn đội Liên Xơ đang tấn công Đức trên nhiều mặt trận. Ngày 7/5/1944, cơ
quan đầu não của Việt Minh ra chỉ thị "Chuẩn bị khởi nghĩa" kêu gọi nhân dân "sắm vũ
khí, săn lùng kẻ thù chung". Ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền được giải.
13 | t r a n g
Qn Giải phóng được thành lập theo phương châm chính trị trọng quân sự, công tác
tuyên huấn hơn chiến đấu, vai trò là vũ trang tuyên truyền, vận động quần chúng khởi
nghĩa, hướng dẫn các đoàn vũ trang địa phương huấn luyện, luyện tập vũ khí, trang bị;
đồng thời là việc xây dựng cơ sở chính trị và quân sự cho các cuộc khởi nghĩa tiếp theo.
Chỉ thị của Hồ Chí Minh về việc thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng qn
có giá trị như một chương trình quân sự của Đảng. Chỉ ba ngày sau khi được thành lập,
nó đã liên tục bị đội tuyên truyền giải phóng qn Việt Nam tấn cơng và xóa sổ. Hai đồn
bốt của địch ở Phay Khát (25/12/1944) và Nà Na (26/12/1944) đã tạo được sự hưởng
ứng lớn, thúc đẩy phong trào cách mạng cả nước. Sau những thắng lợi đầu tiên, Đội Việt
Nam tuyên truyền giải phóng quân đã tăng cường vũ trang, kết hợp tuyên truyền chính
trị và quân sự, xây dựng căn cứ địa cách mạng, góp phần củng cố và mở rộng vùng căn
cứ Cao Bắc - Lạng.
Ngay sau khi Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945) Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã
ra chỉ thị “Nhật và Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” (12/3/1945) và quyết định
phát động cao trào chống Nhật. Cứu nước để tiến tới tổng khởi nghĩa nếu điều kiện thích
hợp. Ban chấp hành đã thể hiện được sự lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết và kịp thời của
Đảng. Tại căn cứ Cao Bắc Lạng, Đội Việt Nam giải phóng quân khẩn trương ra nhiều
hướng chặn đánh địch, kêu gọi binh lính Việt Pháp ở các tiền đồn biệt lập đầu hàng,
giao nộp vũ khí; Mở rộng cơng tác vũ trang tun truyền, thành lập các hội cứu quốc, tổ
chức huấn luyện chính trị, quân sự cho quần chúng. Các cuộc chiến đấu vũ trang và các
cuộc nổi dậy từng phần đã diễn ra ở nhiều nơi ở Tây Nguyên và Tây Nguyên. Đội Việt
Nam Tuyên truyền Giải phóng quân và Cứu quốc quân phối hợp với các lực lượng chính
trị của quần chúng giải phóng hàng. Các tỉnh, xứ, huyện thuộc các tỉnh Cao Bằng, Bắc
Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang. Ở Bắc Giang, quần chúng nổi dậy thành
lập các Ủy ban giải phóng dân tộc ở nhiều làng xã và thành lập đội du kích bắc bộ.
Giang. Tại Hưng Yên, đội tự vệ chiến đấu đánh chiếm đồn Bần, thu tồn bộ vũ khí của
địch. Đội du kích Ba Tơ được thành lập ở Quảng Ngãi. Đây là đội vượt ngục có vũ trang
đầu tiên do đảng và ban lãnh đạo miền trung tổ chức. Trong bối cảnh làn sóng kháng
Nhật cứu nước ngày càng phát triển, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã triệu tập Hội
nghị quân sự cách mạng Việt Nam tại Hiệp Hòa (Bắc Giang) vào tháng 4 năm 1945 và
14 | t r a n g
quyết định hợp nhất các lực lượng vũ trang. Việt Nam xuất quân, xây dựng lực lượng tự
vệ vũ trang và tự vệ chiến đấu, thành lập các chiến khu trên cả nước, mở các lớp huấn
luyện bộ đội chủ lực, v.v ... Ngay khi nhận được tin Nhật chấp nhận đầu hàng của Đồng
chí Quốc. Hội nghị họp từ ngày 15 tháng 11 đến ngày 15 tháng 8 năm 1945 để quyết
tâm tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Sau Hội nghị toàn quốc của Đảng ngày
16/8/1945, Quốc hội ở Tân Trào (Tun Quang) đã nhất trí thơng qua quyết định tổng
khởi nghĩa của Đảng Cộng sản Đông Dương, tán thành 10 chủ trương chính của Mặt
trận Việt Minh, thành lập Ủy ban dân tộc Giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh làm
Chủ tịch nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 20 triệu đồng bào đã đồng lòng vươn
lên nắm chính quyền trên cả nước. Trong 15 ngày (từ 14 đến 28-8-1945), cuộc Tổng
khởi nghĩa Tháng Tám bắt đầu. Anh ấy đã làm được. Lần đầu tiên trong lịch sử, chính
quyền của cả nước thuộc về nhân dân.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của sự kết hợp giữa đấu tranh
chính trị và đấu tranh vũ trang, trong đó xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng có vai
trị quan trọng, là lực lượng trung tâm động viên các lực lượng cách mạng. Huy động
sức mạnh tổng hợp trên phạm vi toàn quốc. . Nếu trước đây Đảng ta không xây dựng
được lực lượng vũ trang và căn cứ địa rộng lớn để hỗ trợ lực lượng chính trị và các
phong trào đấu tranh chính trị thì khơng thể khởi nghĩa vũ trang nhanh chóng, cách mạng
cũng khơng thể nhanh chóng giành được thắng lợi khi có điều kiện. Thực tiễn Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 là kết quả của một quá trình chuẩn bị lâu dài cho cuộc đấu
tranh cách mạng trải qua ba cuộc diễn tập với ba cao trào cách mạng 1930-1931, 1936,
1939 và 1939-1945. Đó là một cuộc cách mạng. Bạo lực liên kết chặt chẽ lực lượng
chính trị với lực lượng vũ trang; Kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, lấy
đấu tranh chính trị là chính. Nắm vững quan điểm cách mạng bạo lực của chủ nghĩa Mác
- Lê-nin, vận dụng sáng tạo đúng đắn, chủ động thời cơ, Đảng đã nhanh chóng lãnh đạo
tồn dân khởi nghĩa giành chính quyền. Tháng 8 năm 1945 là cuộc bạo động của đội
quân quần chúng chính trị hùng hậu, với lực lượng vũ trang là hạt nhân của làn sóng
bành trướng đã đánh tan bộ máy của chủ nghĩa thực dân và giành thắng lợi cho cách
mạng.
15 | t r a n g
Việc xác định phương pháp cách mạng đúng đắn trong những năm 1930-1945 là dựa
vào lịng dũng cảm, trí tuệ, tinh thần độc lập, tự cường, sáng tạo của đảng do Chủ tịch
Hồ Chí Minh lãnh đạo tiếp thu và vận dụng. Lý luận Mác - Lê-nin trong điều kiện cụ
thể của Việt Nam: đây là cơ sở quan trọng để Đảng ta tiếp tục bổ sung, phát triển và
hoàn thiện đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, đồng thời góp phần tạo nên
phong cách của cách mạng Việt Nam, làm phong phú thêm kho tàng lý luận của cách
mạng giải phóng dân tộc.
3. Ý NGHĨA
Giá trị lý luận: Đây là một cống hiến vô cùng quan trọng vào kho tàng lý luận Mác
– Lênin
Giá trị thực tiễn: Đây là quan điểm có ý nghĩa thực tiễn to lớn, giúp cách mạng giải
phóng dân tộc ở Việt Nam không thụ động, ỷ nại chờ sự giúp đỡ từ bên ngồi mà ln
phát huy tính độc lập tự chủ, tự lực, tự cường. Nhờ đó mà cách mạng Việt Nam giành
được thắng lợi vĩ đại. Đồng thời nó cũng góp phần định hướng cho phong trào giải
phóng dân tộc ở các nước khác trên thế giới trong thời kì bấy giờ. Thực tiễn cách mạng
ở một số nước thuộc địa và cách mạng Việt Nam đã chứng minh rằng đây là một tư
tưởng hồn tồn đúng đắn.
4. GIẢI THÍCH, LIÊN HỆ BẢN THÂN VỀ VIỆC BẢO VỆ THÀNH QUẢ
CÁCH MẠNG, CHỦ QUYỀN TỔ QUỐC, BIỂN ĐẢO TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY.
Vận dụng để giải thích về việc bảo về thành quả Cách mạng, chủ quyền Tổ quốc,
biển đảo Việt Nam
Khi đưa phong trào yêu nước giải phóng dân tộc của nhân dân ta hòa vào vòng vây
của phong trào cách mạng vơ sản thế giới, Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc: con đường
tất yếu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc. Gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Người
16 | t r a n g
cho rằng, đường lối, chiến lược và sách lược của cách mạng nước nào phụ thuộc vào
trình độ phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của nước đó. Nhiệm vụ chính của
các dân tộc trên bán đảo Đông Dương là giành độc lập, tự do khỏi tay thực dân Pháp và
bè lũ tay sai. Sự nghiệp giải phóng dân tộc hồn tồn khơng thể phụ thuộc vào cách
mạng chính quốc ở Pháp. Sự sáng tạo được thể hiện bắt đầu từ việc Chủ tịch Hồ Chí
Minh truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin ở Việt Nam và kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin
với các phong trào yêu nước và lao động rời Việt Nam. Sự ra đời của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã thực hiện mục tiêu là làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, giải phóng
cơng nhân và nơng dân khỏi ách áp bức của đế quốc và phong kiến, thiết lập nền dân
chủ mới trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội, giải phóng con người và tạo điều kiện phát triển mới vì lợi ích của người
Việt Nam.Chúng ta khơng giành độc lập bằng cách ngồi chợ giặc rủ lòng thương. Khi
dân tộc ta bị đoạ đày, sống trong đau khổ dưới áp ách bức của chế độ thực dân, phong
kiến thì các tầng lớp tư sản và tiểu tư sản nổi dậy đấu tranh nhưng đều thất bại. Và rồi
Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời, mở ra một bước tiến mới nhờ những cương lĩnh chính
trị phù hợp với hoàn cảnh lúc bấy giờ và đường lối lãnh đạo tài tình của Bác.
Ngày nay chúng ta đang thừa hưởng thành quả vĩ đại do các cuộc kháng chiến bảo
vệ Tổ quốc và đặc biệt là Cách mạng Tháng Tám đem lại. Sự thừa hưởng đó là khát
vọng, là thảnh quả của tồn dân tộc Việt Nam vì muốn có hồ bình thì phải có độc lập,
muốn giành được độc lập thì phải đấu tranh để bảo vệ hồ bình nên biết bao người đã hi
sinh. Chúng ta đổi lấy những cuộc chiến tranh đẫm máu để có được hồ bình thì bây giờ
phải làm mọi cách để bảo vệ nền hồ bình ấy, tất cả các thế hệ cùng chung tay cùng xây
dựng đất nước giàu mạnh, giữ gìn Tổ quốc thân yêu, kiên định với con đường Cách
mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã chọn. Đồng thời, muốn giữ vững thành quả
của Cách mạng, giữ vững Nhà nước của dân, do dân và vì dân, hơn bao giờ hết, chúng
ta phải tiếp tục kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
Lịch sử Việt Nam chứng minh những gì nhân dân Việt Nam đã trải qua, vì thế phải
tơn trọng sự thật lịch sử, phải biết ơn những người đã cho ta cuộc sống ngày hôm nay.
17 | t r a n g
Những thành quả đó cần được kế thừa và phát huy mạnh mẽ. Bên cạnh đó phải cảnh
giác và đấu tranh các luận điệu sai trái, không đúng sự thật nhằm chia rẽ sự nghiệp Cách
mạng và khối đại đoàn kết của nhân dân ta.
Vấn đề bảo vệ chủ quyền tồn vẹn lãnh thổ trong đó bao gồm biển đảo phải ln đề
cao để giữ gìn thành quả của q trình dựng nước và giữ nước của ơng cha ta. Hơn nữa
việc làm này góp phần lớn trong sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội, giúp đất nước tiến
lên giàu mạnh.
Liên hệ bản thân về việc bảo vệ thành quả Cách mạng trong giai đoạn hiện
nay
Là sinh viên- thế hệ trẻ năng động, nhiệt huyết và có tri thức, tất cả chúng ta đều biết
được rằng để đất nước Việt Nam độc lập và thống nhất như ngày hôm nay, dân tộc ta đã
trải qua biết bao gian khổ, những cuộc chiến đấu chống quân xâm lược trường kỳ, biết
bao xương máu vùi dưới lớp đất của những người đã hy sinh anh dũng. Hơn nữa, trải
qua nhiều năm học tập, sinh viên là người hiểu rõ giá trị của độc lập, tự do là như thế
nào. Vì thế phải kiên quyết bảo vệ thành quả Cách mạng đã giành được, giữ , biết ơn
những người có cơng với Tổ quốc bằng cách :
• Hành động thiết thực bằng cách hướng về ngày thương binh, liệt sĩ mỗi năm, than
gia phong trào đền ơn đáp nghĩa: Tri ân và thăm hỏi các bà mẹ Việt Nam anh
hùng cũng như các thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ, cựu chiến binh, bệnh
binh, cựu thanh niên xung phong,…
• Học tập và làm theo tấm gương của những anh hùng đã quên mình vì Tổ quốc,
nhất là thế hệ sinh viên-những người trẻ và tràn đầy năng lượng, phải biết đóng
góp cơng sức của mình cho đất nước bằng cách học tập tốt, nỗ lực phấn đấu hết
sức mình, tham gia các chiến dịch tình nguyện, tự giác tìm hiểu về lịch sử nước
nhà.
• Tổ chức tham gia các địa chỉ đỏ để , các khu di tích lịch sử để hiểu rõ hơn về quá
khứ của chiến tranh, góp phần giáo dục lòng yêu nước và xây dựng niềm tự hào
dân tộc.
18 | t r a n g
• Xây dựng tinh thần đồn kết ở mơi trường nhà trường, quyết tâm xây dựng đất
nước Việt Nam giàu đẹp và vững mạnh hơn.
• Quyết khơng để các thế lực thù địch lợi dụng môi trường đại học mà tuyên truyền
những thông tin sai lệch làm thay đổi tư tưởng và khiến sinh viên hành động sai
trái.
• Nói khơng với tham gia các cuộc bạo loạn, biết phân biệt và nhận thức được
những thông tin đúng và sai sự thật, biết chọn lọc báo mạng để đọc.
• Lên án và báo cáo với chính quyền địa phương những quan điểm sai trái, xuyên
tạc ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống đạo đức cũng như chính trị.
Liên hệ bản thân về việc bảo vệ chủ quyền Tổ quốc, biển đảo trong giai đoạn
hiện nay
Qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, một dân tộc nhỏ bé đã làm nên
nhiều điều vĩ đại: chiến thắng hai cường quốc là thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ, biết bao
lớp người đã ngã xuống vì chúng ta, một trong số đó phải kể đến những sinh viên đã
phải tạm gác lại việc học mà cầm chắc tay súng nơi chiến trường, giành cho ta cuộc sống
ấm no hạnh phúc như ngày hôm nay. Sinh viên là những chủ nhân tương lai của đất
nước, có vai trị to lớn trong việc bảo vệ và xây dựng nước nhà ngày một giàu mạnh. Vì
thế cần phải:
• Hiểu rõ quan điểm và chủ trương của Đảng cũng như Luật pháp về bảo vệ tồn
vẹn lãnh thổ để khơng mắc phải sai lầm khi tun truyền đến mọi người.
• Tìm hiểu luật pháp quốc tế về chủ quyền quốc gia và biển đảo .
• Tham gia các buổi hội thảo thanh niên để nâng cao nhận thức và xác định vai trị
của mình đối với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền Tổ quốc và biển đảo.
• Hành động thiết thực bằng cách bảo vệ mơi trường đất liền và biển đảo, giữ gìn
và phát triển những tiềm năng của biển đảo Việt Nam: tham gia trồng cây xanh,
nhặt rác,…
19 | t r a n g
• Đối với thanh niên ở các địa phương ven biển, hãy chủ động tham gia vào lực
lượng kiểm ngư, dân quân tự vệ để vừa tham gia sản xuất, khai thác hải sản, vừa
giữ gìn an ninh trật tự trên biển.
• Đấu tranh với các nhận thức lệch lạc, những tư tưởng cho rằng không cần bảo vệ
chủ quyền tồn vẹn lãnh thổ và biển đảo trong thời bình.
• Phát huy tinh thần tự giác học tập, nâng cao trình độ của mình về mọi mặt để đáp
ứng các nhu cầu về bào vệ Tổ quốc ở thời đại mới, kiên quyết giữ gìn mơi trường
hồ bình và trật tự an ninh xã hội.
• Tham gia các phong trào : “Thanh niên với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc”, “Tuổi trẻ
giữ nước”, “Vì Trường Sa thân yêu “,…
20 | t r a n g