Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

ĐỀ tài mối TƯƠNG QUAN GIỮA QUÁ TRÌNH hội NHẬP QUỐC tế và TÌNH TRẠNG bất BÌNH ĐẲNG THU NHẬP tại VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (746.93 KB, 31 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

BÀI TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
HỌC PHẦN: HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ PHÁT TRIỂN

TÊN ĐỀ TÀI: MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP
QUỐC TẾ VÀ TÌNH TRẠNG BẤT BÌNH ĐẲNG THU NHẬP TẠI
VIỆT NAM

Giảng viên: TS. Ngô Tuấn Thắng
Sinh viên thực hiện: Bùi Minh Hiền – 19031873
Nguyễn Thị Lan – 20032396

Hà Nội, tháng 05 năm 2021
0


PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ những ngày đầu thành lập đã luôn nhận
thức được tầm quan trọng của việc xóa đói giảm nghèo, xóa bỏ khoảng cách bất
bình đẳng thu nhập và các chính sách ổn định kinh tế, an sinh xã hội. Sau khi giải
phóng miền Nam, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, Việt Nam bước vào thời kỳ xây
dựng, tái kiến thiết đất nước và phục hồi sau chiến tranh. Mục tiêu tăng trưởng
kinh tế kết hợp với cơng bằng xã hội chính là ngun tắc quan trọng trong công
cuộc phát triển đất nước. Đại hội VII Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định:
“Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ công bằng xã hội ngay từ trong bước
đi và trong suốt quá trình phát triển. Tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội
phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình. Thu hẹp dần khoảng cách về trình độ
phát triển với mức sống giữa các vùng, các dân tộc và các tầng lớp dân cư”.


Việt Nam từ một trong những nước nghèo nhất trên thế giới vươn mình lên từ
chiến tranh, sau khi thực hiện đường lối chính sách đổi mới năm 1986 và trải qua
hơn 3 thập niên hội nhập quốc tế, nước ta đã trở thành một trong những quốc gia
có tốc độ tăng trưởng kinh tế lớn nhất trên thế giới. Có thể thấy, q trình hội nhập
quốc tế đã góp một phần vơ cùng quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế và phát
triển tại Việt Nam. Tuy nhiên, khoảng cách trong thu nhập giữa những người lao
động, giữa các tầng lớp dân cư đang ngày một hiện hữu rõ rệt và càng gia tăng
đang tạo nên bất bình đẳng thu nhập. Với việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO), hội nhập quốc tế tại Việt Nam đang diễn ra ngày càng sâu rộng, tạo
nên những chuyển biến mới trong nền kinh tế. Những sự thay đổi này vừa là cơ
hội, vừa là thách thức đối với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Khả
năng tiếp cận và vận dụng các cơ hội mà hội nhập quốc tế đem lại chính là tiềm
năng giúp các đối tượng có thu nhập thấp tận dụng để cải thiện mức sống, cải thiện
1


vị thế trong xã hội, đồng thời cũng chính là yếu tố tiềm ẩn làm gia tăng khoảng
cách giàu nghèo trong xã hội nếu họ không thể tận dụng hiệu quả các lợi thế đó.
Đây chính là một trong các vấn đề mà Chính phủ và các tổ chức quốc tế đang hoạt
động tại Việt Nam đặc biệt quan tâm. Để giảm thiểu tối đa bất bình đẳng thu nhập,
Việt Nam cần phải làm rõ các nguyên nhân của nó để từ đó đưa ra những chính
sách điều hịa kinh tế một cách phù hợp.
Trong bài tiểu luận này, nhóm chúng em sẽ phân tích các ngun nhân gây nên
tình trạng bất bình đẳng thu nhập tại Việt Nam, để từ đó đưa ra những khuyến nghị
về các chính sách mà Việt Nam có thể áp dụng để bất bình đẳng thu nhập được
giảm thiểu tới mức tối đa.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Xác định nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng thu nhập tại Việt Nam và phân
tích nó trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, từ đó đưa ra những giải pháp cho

tình trạng này.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
(1) Xây dựng cơ sở lý luận về bất bình đẳng thu nhập và hội nhập quốc tế
(2) Phân tích hiện trạng bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam
(3) Phân tích tác động của hội nhập quốc tế đến bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam
(4) Đề xuất những giải pháp ngăn ngừa tác động tiêu cực của hội nhập quốc tế dẫn
đến bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: bất bình đẳng thu nhập
3.2. Phạm vi nghiên cứu
 Phạm vi không gian: Việt Nam
 Phạm vi thời gian: 1975 – nay
2


 Phạm vi nội dung: tác động của hội nhập quốc tế đến bất bình đẳng thu nhập
tại Việt Nam
4. Phương pháp nghiên cứu
Quá trình thực hiện tiểu luận này, chúng em sử dụng phương pháp nghiên cứu
thu nhập thông tin kết hợp với nghiên cứu tài liệu.
5. Bố cục bài tiểu luận
Ngoài phần nội dung gồm 3 chương, bài tiểu luận này còn bao gồm phần mở
đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo.

3


PHẦN II: NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lý luận
1.1. Các khái niệm

1.1.1. Khái niệm “thu nhập”
Theo Thư viện Pháp luật, thu nhập là khoản của cải thường được tính thành
tiền mà một cá nhân, doanh nghiệp hoặc một nền kinh tế nhận được trong một
khoảng thời gian nhất định từ cơng việc, dịch vụ hoặc hoạt động nào đó. Thu nhập
có thể bao gồm các khoản tiền như lương, tiền cơng, tiền cho th tài sản, lợi
nhuận kinh doanh. Ngồi ra, thu nhập cịn có thể có được từ nhiều nguồn khác
nhau, có thể từ lao động, từ việc sở hữu những giấy tờ có giá trị, từ thừa kế, được
tặng cho, v.v
1.1.2. Khái niệm “bất bình đẳng”
Bất bình đẳng là một hiện tượng mang tính kế thừa ở mọi thời đại vì nó tồn tại
trong mọi xã hội và do cơ cấu xã hội mang lại. Nó khơng phải là một hiện tượng tự
nhiên, tồn tại một cách ngẫu nhiên giữa các mối quan hệ trong xã hội, mà nó tồn tại
“khi có một nhóm xã hội kiểm sốt và khai thác các nhóm xã hội khác”. Bất bình
đẳng ln là một phạm trù mang tính xã hội. Bất bình đẳng xã hội là sự khơng
bằng nhau về mặt xã hội, tức là sự khác nhau về những lợi ích, cơ hội về mặt vật
chất lẫn tinh thần cũng như là thỏa mãn các lợi ích đó của cá nhân trong một nhóm
xã hội hay nhiều xã hội khác nhau.
1.1.3. Khái niệm “bất bình đẳng thu nhập”
Bất bình đẳng thu nhập là cách thức phân bổ thu nhập không đồng đều trong
tồn bộ dân số. Phân phối càng ít bình đẳng thì bất bình đẳng thu nhập càng cao.
Bất bình đẳng thu nhập thường đi kèm với khoảng cách giàu – nghèo, đó là sự
phân phối của cái khơng đồng đều. Dân số có thể được phân chia theo nhiều cách
4


khác nhau để thể hiện các mức độ và hình thức bất bình đẳng thu nhập theo giới
tính hoặc chủng tộc. Các thước đo khác nhau, chẳng hạn như hệ số Gini, có thể
được sử dụng để phân tích mức độ bất bình đẳng thu nhập trong dân số.
1.1.4. Khái niệm “hội nhập quốc tế”
Theo từ điển Cambridge, hội nhập là hành động hoặc quá trình tham gia hoặc

kết hợp thành cơng với một nhóm người khác. Hội nhập là hịa mình vào trong một
cộng đồng lớn, cùng hoạt động và cùng phát triển với các thành viên trong cộng
đồng đó (thường nói về quan hệ giữa các dân tộc, quốc gia).
Hội nhập quốc tế là một phạm trù trong quan hệ quốc tế. Hội nhập quốc tế là
hình thức phát triển cao của hợp tác quốc tế, là quá trình chủ động chấp nhận, áp
dụng và tham gia xây dựng các luật lệ và chuẩn mực quốc tế nhằm phục vụ tối đa
lợi ích quốc gia – dân tộc. Theo Ban Tuyên giáo TW, hội nhập quốc tế là quá trình
liên kết, gắn kết giữa các quốc gia/vùng lãnh thổ với nhau thông qua việc tham gia
các tổ chức, thể chế, cơ chế, hoạt động hợp tác quốc tế vì mục tiêu phát triển của
bản thân mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ đó nhằm tạo thành sức mạnh tập thể, giải
quyết những vấn đề chung mà các bên cùng quan tâm.
1.2. Tình hình hội nhập quốc tế tại Việt Nam
1.2.1. Từ 1975 đến trước thời kỳ Đổi Mới
Giai đoạn này, chúng ta chưa biết đến cụm từ “hội nhập quốc tế”, vì vậy chúng
em sẽ đi vào phân tích đường lối đối ngoại của Đảng trong thời kỳ này.
Sau năm 1975, khi đất nước hồn tồn giải phóng, Đảng và nhân dân ta đứng
trước những khó khăn về mọi mặt, đặc biệt là về kinh tế. Đảng và Nhà nước đã đề
ra đường lối đối ngoại phù hợp để phát triển kinh tế đồng thời bảo vệ độc lập chủ
quyền đất nước.
Đại hội lần thứ IV của Đảng (12/1976) xác định nhiệm vụ đối ngoại là “Ra
sức tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để nhanh chóng hàn gắn những vết
5


thương chiến tranh, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở nước
ta”. Trong quan hệ với các nước, Đại hội IV chủ trương củng cố và tăng cường tình
đồn kết chiến đấu và quan hệ hợp tác với tất cả các nước xã hội chủ nghĩa; bảo vệ
và phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào – Campuchia; sẵn sàng, thiết
lập phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trong khu vực; thiết lập và
mở rộng quan hệ bình thường giữa Việt Nam với tất cả các nước trên cơ sở tơn

trọng độc lập chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi. Từ giữa năm 1978, Đảng đã
điều chỉnh một số chủ trương, chính sách đối ngoại như: chú trọng củng cố, tăng
cường hợp tác về mọi mặt với Liên Xơ là hịn đá tảng trong chính sách đối ngoại
của Việt Nam; nhấn mạnh yêu cầu ra sức bảo vệ mối quan hệ đặc biệt Việt – Lào
trong bối cảnh vấn đề Campuchia đang diễn biến phức tạp; chủ trương góp phần
xây dựng khu vực Đơng Nam Á hồ bình, tự do, trung lập và ổn định; đề ra yêu
cầu mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.
Đại hội lần thứ V của Đảng (3/1982) xác định: Công tác đối ngoại phải trở
thành một mặt trận chủ động, tích cực trong đấu tranh nhằm làm thất bại chính
sách của các thế lực hiếu chiến mưu toan chống phá cách mạng nước ta. Về quan
hệ với các nước, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh đoàn kết và hợp tác tồn diện với
Liên Xơ là ngun tắc, là chiến lược và ln ln là hịn đá tảng trong chính sách
đối ngoại của Việt Nam; xác định quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào – Campuchia
có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh của ba dân tộc; kêu gọi các nước ASEAN
hãy cùng các nước Đông Dương đối thoại và thương lượng để giải quyết các trở
ngại, nhằm xây dựng Đơng Nam Á thành khu vực hồ bình và ổn định; chủ
chương khơi phục quan hệ bình thường với Trung Quốc trên cơ sở các nguyên tắc
cùng tồn tại hồ bình; chủ trương thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường về mặt
nhà nước, về kinh tế, văn hoá, khoa học, kỹ thuật với tất cả các nước khơng phân
biệt chế độ chính trị. Thực tế cho thấy, ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Việt
Nam giai đoạn (1975  1986) là xây dựng quan hệ hợp tác tồn diện với Liên Xơ
6


và các nước xã hội chủ nghĩa; cũng cố và tăng cường đoàn kết hợp tác với Lào và
Campuchia; mở rộng quan hệ hữu nghị với các nước không liên kết và các nước
đang phát triển; đấu tranh với sự bao vây cấm vận của các thế lực thù địch.
1.2.2. Sau thời kỳ Đổi Mới
Đại hội lần thứ VI của Đảng (1986) tổng kết, rút ra bài học về kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đề ra việc đổi mới trong chính sách đối ngoại

của nước ta: xây đựng mối quan hệ tốt đẹp với các bạn bè truyền thống ở các nước
xã hội chủ nghĩa, các nước đấu tranh giải phóng dân tộc, phong trào không liên kết,
phong trào công nhân ở các nước phát triển, v.v. Đại hội VII (l991), Đại hội VIII
(1996) khẳng định đường lối đối ngoại trên, và nhấn mạnh cần tiếp tục củng cố vị
thế nước ta trên thế giới, thốt khỏi sự bao vây, cơ lập, mở rộng quan hệ với các
nước trong khu vực, những nước vốn trước đây là thù địch với ta, như Hoa Kỳ. Đại
hội IX (2001) của Đảng đã soi sáng phương hướng cho việc xây dựng đất nước
trong những năm đầu thế kỷ XXI, với những chính sách nhằm phát huy nội lực kết
hợp với ngoại lực, bao gồm lực lượng các nước và kiều bào yêu nước. Đại hội X
(2006) xác định: "Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững mơi trường hồ
bình, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát
triển kinh tế  xã hội, cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, xây đựng và bảo vệ
Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế
giới và hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội". Đây là việc tiếp tục
thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh,
được khẳng định ở Đại hội VIII, là "độc lập, tự chủ, mở rộng, đa phương hóa và đa
dạng hóa các quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả các
nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển”. Thực
tiễn trong những năm cuối thế kỷ XX - đầu thế kỷ XXI xác nhận rằng, nhận thức
về quy luật phát triển xã hội loài người của Đại hội IX là đúng đắn: "Tồn cầu hóa
7


kinh tế là xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, vừa có mặt
tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh, v.v. Thế giới đứng
trước nhiều vấn đề toàn cầu mà khơng một quốc gia riêng lẻ nào đó có thể tự giải
quyết nếu khơng có sự hợp tác đa phương”.
Như vậy đường lối đối ngoại của Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã chủ
trương vừa hội nhập vào quốc tế và khu vực, vừa giữ vững độc lập, tự chủ, bản sắc
dân tộc và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, đấu tranh chống lại lực lượng

phản động nhằm phá hoại cách mạng, đất nước Việt Nam, tấn công chủ nghĩa Mác,
chủ nghĩa xã hội và Đảng cộng sản Việt Nam. Quán triệt đường lối của Đảng về
quan hệ quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong hơn 20 năm qua (1986  2008),
nhân dân Việt nam dã đạt được nhiều thành tựu trong việc hội nhập quốc tế trên
mọi lĩnh vực đối ngoại, kinh tế, văn hóa giáo dục, v.v.
1.2.2.1. Hội nhập về mặt đối ngoại
Đến nay nước ta đã có quan hệ ngoại giao với gần 170 nước trên thế giới,
trong đó có tất cả các nước lớn, kể cả 5 quốc gia – là Uỷ viên thường trực Hội
đồng Bảo an Liên hợp quốc, nhiều tổ chức quốc tế, khu vực và trung tâm chính trị
- kinh tế quan trọng. Việc tổ chức thành công Hội nghị cấp cao ASEM 5 (2005) và
Hội nghị APEC14 (2006) tại Hà Nội và nhiều Hội nghị quốc tế khác trong năm
2007, tạo được ấn tượng sâu sắc đối với cộng đồng quốc tế. Không những thế,
chúng ta còn tiếp tục chủ động tham gia và có những đóng góp thiết thực tại các
diễn đàn quốc tế và khu vực như Hội nghị cấp cao ASEM tại Lào. Hội nghị AIPO
tại Campuchia, Hội nghị Cấp cao APEC tại Chi-lê, Hội nghị thượng đỉnh cộng
đồng Pháp ngữ tại Buốc-ki-na-pha-xơ, Ca-na-đa, v.v. Sự tham gia tích cực và
những đóng góp thiết tực của Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Uy
tín vị thế của Việt Nam được tăng lên trong những chuyến đi thăm các nước của
lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta, đặc biệt là chuyến đi thăm Mỹ, Ca-na-đa của Thủ
8


tướng Phan Văn Khải vào cuối tháng 6  2005 và chuyến thăm Trung Quốc của
Chủ tịch Trần Đức Lương tháng 7/2005 thu được những kết quả tích cực. Trong
những năm 2006  2008, trong tình hình quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, theo
chiều hướng căng thẳng, hoạt động ngoại giao của Chính phủ ta có những chuyển
biến tích cực, chủ động, triển khai trên nhiều hướng, có trọng tâm, trọng điểm, đạt
được những thành tựu toàn diện về chính trị, kinh tế  xã hội. Nổi bật là các hoạt
động trên diễn đàn quốc tế của ASEAN, APEC, ASEM, v.v, gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO), được bầu làm Uỷ viên không thường trực Hội đồng

Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008  2009 với số phiếu tuyệt đối. Những hoạt
động về ngoại giao kinh tế có nhiều kết quả trong việc mở rộng đầu tư, hợp tác
kinh doanh, khai thác những thị trường mới giàu tiềm năng ở châu Phi, Trung
Đông, Mỹ, v.v thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Việc bảo vệ quyền lợi người
Việt Nam sinh sống ở nước ngoài, thu hút kiều bào đóng góp tích cực cho xây
dựng đất nước cũng có nhiều tiến bộ. Sự khởi sắc của ngoại giao văn hóa, thơng
tin, giáo dục đối ngoại đã làm cho bạn bè quốc tế gần gũi, gắn bó, giúp đỡ cho Việt
Nam và cũng thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc, củng cố lịng tự hào dân tộc, xây
dựng và phát triển văn hóa dân tộc của nhân dân trong nước, chống những lai căng
du nhập các loại 6 văn hóa đồi truỵ, khơng phù hợp với Việt Nam. Những hợp tác
quốc tế khác về giáo dục, bảo vệ mơi trường sống, phịng chống các dịch bệnh,
việc đấu tranh chống “diễn biến hịa bình” trên nhiều trận địa đã có sự đóng góp
của cơng tác đối ngoại. Những hoạt động đối ngoại trong hội nhập quốc tế vào
những năm qua đem lại nhiều ấn tượng đẹp đẽ về quan hệ hữu nghị với các nước đi
vào chiều sâu, nâng lên tâm cao mới trên mọi lĩnh vực có hiệu quả.
1.2.2.2. Hội nhập về mặt kinh tế
Chúng ta có quan hệ bn bán với trên 100 nước và lãnh thổ, quan hệ đầu tư
phát triển với trên 40 nước; thị trường ngày càng mở rộng; đối tác ngày càng
9


nhiều, quan hệ tài chính tiền tệ với các tổ chức quốc tế và các nước được khai
thông; tranh thủ được nguồn viện trợ phát triển đáng kể. Đồng thời, chúng ta còn
phải tiếp tục giải quyết nhiều vấn đề tồn tại khá phức tạp, như vấn đề lãnh thổ, vấn
đề nhân quyền, vấn đề tôn giáo, v.v. Hơn thế, tình hình của thế giới ngày nay cũng
nảy sinh nhiều vấn đề mới mà Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức đầy đủ và xử lý
tích cực, kịp thời. Chỉ tính riêng hai năm 2004  2005, hoạt động đối ngoại của
Đảng và Nhà nước ta đạt những thành tựu đáng khích lệ: tiếp tục góp phần duy trì
được mơi trường hịa bình, ổn định để phát triển đất nước, thiết lập được các khuôn
khổ quan hệ vững chắc với nhiều nước láng giềng trong khu vực và các nước lớn,

qua dó, tăng cường sự đan xen về lợi ích, sự ràng buộc về quan hệ về pháp lý tạo
chuyển biến về chất trong quan hệ với các đối tác quan trọng này. Công tác hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực đã được đẩy mạnh, góp phần tranh thủ hợp tác,
nhất là hợp tác về kinh tế, thương mại, đầu tư và du lịch, v.v vị thế của nước ta
được nâng cao.
Việc trở thành thành viên WTO đã có những tác động tích cực đối với kinh
tế Việt Nam, đặc biệt về kinh tế đối ngoại, như thu hút đầu tư trực tiếp (FDI) và
xuất khẩu. Mặt khác cũng nảy sinh một số khó khăn, thách thức, như khung khổ
pháp lý phải bổ sung và hoàn thiện cho phù hợp cam kết chung trong WTO và các
chuẩn mực kinh tế thị trường mà vẫn giữ vững ổn định kinh tế, độc lập, tự chủ về
kinh tế. Sự hội nhập kinh tế thế giới, với những cơ hội và thách thức, những tác
động thuận lợi và không thuận lợi đối với công cuộc phát triển kinh tế  xã hội của
đất nước trong điều kiện kinh tế thế giới, khu vực có những chuyển biến phức tạp,
địi hỏi chúng ta cần tỉnh táo, năng động, thực hiện sáng tạo quan điểm đường lối
của Đảng.
Chương 2: Tác động của quá trình hội nhập quốc tế tới tình trạng bất bình
đẳng thu nhập tại Việt Nam
10


2.1. Nguyên nhân
2.1.1. Nguyên nhân chủ quan
2.1.1.1. Trình độ người lao động gồm trình độ học vấn và trình độ chuyên môn kỹ
thuật
Học vấn là một trong những chỉ tiêu quan trọng phản ánh chất lượng nguồn
nhân lực. Mặc dù trình độ học vấn của người lao động đã được cải thiện đáng kể,
nhưng lại có sự khác biệt đáng kể giữa các vùng. Tỷ trọng những người chưa từng
đi học trong lực lượng lao động cao nhất ở vùng trung du và miền núi phía Bắc,
tiếp đến là Tây Nguyên. Đây cũng là những vùng có tỷ trọng lao động tốt nghiệp
phổ thông trung học trở lên thấp nhất. Hai vùng có mức độ phát triển cao nhất về

kinh tế – xã hội là Đông Nam bộ và đồng bằng sông Hồng cũng là nơi thu hút
mạnh số người có học vấn cao và tỷ lệ tốt nghiệp phổ thông trung học trở lên cũng
đạt mức cao nhất. Về trình độ chun mơn kỹ thuật: tỷ trọng lực lượng đã qua đào
tạo ở nước ta vẫn còn thấp, trong đó tỷ lệ lao động đã qua đào tạo chuyên môn kỹ
thật cao nhất là ở đồng bằng sông Hồng và thấp nhất là ở đồng bằng sông Cửu
Long. Tỷ trọng lực lượng lao động có trình độ đại học trở lên cũng khác nhau đáng
kể giữa các vùng. Vùng có tỷ trọng này cao nhất là Đơng Nam bộ, tiếp đến là đồng
bằng sông Hồng.
2.1.1.2. Phân bố dân cư
Những vùng có mật độ dân cư thưa thớt, quy mơ dân số nhỏ có trình độ phát
triển kinh tế thấp hơn so với những vùng có mật độ dân cư cao, quy mô dân số
đông. Ở Việt Nam, dân cư không phân bố đồng đều, tập trung nhiều ở các vùng
đồng bằng và duyên hải, vùng đồng bằng sông Hồng là vùng có đơng dân cư nhất
và thấp nhất là ở vùng Tây Nguyên. Bên cạnh đó, những vùng này lại thường tập
trung nhóm dân tộc thiểu số. Sự chênh lệch về tỷ lệ tăng trưởng giữa nhóm dân tộc
thiểu số và nhóm đa số đã góp phần đặc biệt làm tăng bất bình đẳng ở khu vực
11


nơng thơn. Do người dân tộc thiểu số có trình độ học vấn thấp hơn và bị hạn chế
hơn về khả năng tiếp cận nguồn vốn sản xuất nên những chênh lệch về các loại tài
sản khác này cũng góp phần gây nên và củng cố thêm những chênh lệch về thu
nhập giữa các dân tộc.
2.1.1.3. Bản thân nền kinh tế thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, khi còn nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản
xuất, phát triển kinh tế nhiều thành phần và sản xuất hàng hóa thì sự phân hóa giàu
nghèo là một hiện tượng khách quan và nguyên nhân trực tiếp của sự chênh lệch về
thu nhập, sự phân hóa giàu nghèo từ quan hệ phân phối thu nhập. Văn kiện Đại hội
Đảng lần thứ IX đã xác định: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời

phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh
và thông qua quỹ phúc lợi xã hội”. Điều này có nghĩa là trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, để thực hiện nguyên tắc phân phối công bằng vẫn phải thừa nhận
sự tồn tại của sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập và mức sống như một tất
yếu kinh tế, chấp nhận sự chênh lệch trong thu nhập do năng suất và hiệu quả lao
động, chấp nhận sự phân hóa giàu nghèo trong giới hạn, mức độ cho phép.
2.1.1.4. Mơ hình tăng trưởng và cơ chế phân bổ nguồn lực
Mơ hình tăng trưởng và cơ chế phân bổ nguồn lực là yếu tố có ảnh
hưởng trực tiếp và lâu dài đến việc tạo lập công bằng xã hội. Nền kinh tế nước ta
theo đuổi mơ hình tăng trưởng “thị trường – hướng về xuất khẩu”, vì vậy, gắn với
mơ hình đó là định hướng ưu tiên phân bổ nguồn lực cho các ngành và dự án
dùng nhiều vốn và ít tạo việc làm mới, cho các vùng có khả năng tăng trưởng cao
và cho các doanh nghiệp nhà nước. Định hướng đầu tư này phản ánh chính sách
vẫn dựa mạnh vào sự lựa chọn nhà nước hơn là theo các tín hiệu và nguyên tắc thị

12


trường. Cơ chế để thực hiện định hướng phân bổ nguồn lực như vậy chưa dựa trên
một sự phân công chức năng hợp lý giữa Nhà nước và thị trường.
2.1.1.5. Quá trình cơng nghiệp hóa, đơ thị hóa nhanh chóng
Q trình cơng nghiệp hố kéo theo việc ứng dụng cơng nghệ mới và cách
thức trong tổ chức sản xuất. Chỉ những người lao động được đào tạo, có kỹ năng
và có tay nghề mới đáp ứng những công việc phức tạp. Hiện nay tỷ lệ lao động qua
đào tạo có bằng cấp và chứng chỉ chính quy chưa nhiều. Do có việc làm mới, số
người này có thu nhập cao hơn nhiều so với số động lao động giản đơn và vì
thế khoảng cách thu nhập đã tăng lên.
2.1.2. Nguyên nhân khách quan
2.1.2.1. Quy luật phát triển không đồng đều giữa các vùng
Sự phát triển không đồng đều bắt nguồn từ những khác biệt về các điều kiện

địa lý, phương thức sản xuất, văn hóa, phong tục tập quán và lối sống. Vùng có
điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế – xã hội thuận lợi thì sẽ phát triển
nhanh, năng suất lao động cao, thu hút các nguồn vốn đầu tư; theo đó, tốc độ tăng
trưởng kinh tế nhanh sẽ dẫn đến kết quả thu nhập của dân cư cao hơn so với những
vùng khó khăn, kém phát triển hơn. Trong khi đó, khả năng cạnh tranh của nền
kinh tế giữa các vùng là không giống nhau nên sự chênh lệch về trình độ phát triển
giữa các vùng càng lớn, các vùng chậm phát triển có nguy cơ tụt hậu.
2.1.2.2. Điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên là một trong những nhân tố quan trọng tạo ra sự khác biệt
về trình độ phát triển kinh tế cũng như bất bình đẳng thu nhập giữa các vùng. Các
vùng có trình độ phát triển kinh tế thấp như trung du miền núi phía Bắc, Bắc Trung
bộ và Dun hải miền Trung thường có địa hình hiểm trở, gây khó khăn cho việc
phát triển kinh tế nói chung và việc đi lại nói riêng. Do địa hình phức tạp, bị
chia cắt manh mún tạo nên những tiểu vùng khí hậu khắc nghiệt thường gây ra lũ,
13


sạt lở núi về mùa mưa, hạn hán và thiếu nước về mùa khô làm ảnh hưởng nghiêm
trọng tới sản xuất nông nghiệp. Tài nguyên thiên nhiên đang bị xuống cấp, đất đai
bị xói mịn.
Trong khi đó, vùng đồng bằng sơng Hồng, Đơng Nam bộ lại có vị trí và địa
hình thuận lợi để phát triển. Với một địa hình đa dạng và phong phú như đồng
bằng, biển, v.v, các vùng này có đầy đủ cơ sở để phát triển một hệ thống đường bộ,
đường sắt, v.v. Thêm vào đó, điều kiện tự nhiên cho phép phát triển nền nơng
nghiệp thâm canh cao, có khả năng đảm bảo an ninh lương thực, có nhiều loại
nơng đặc sản có giá trị kinh tế cao. Tài nguyên du lịch lớn do có nhiều cảnh quan
đẹp.
2.1.2.3. Điều kiện kinh tế xã hội
Sự khác biệt về điều kiện kinh tế – xã hội sẽ tạo ra những cơ hội phát triển
khác nhau. Những vùng nào có điểm xuất phát thấp, kết cấu hạ tầng kinh tế – xã

hội yếu kém thường ít có cơ hội phát triển hơn. Vùng trung du & miền núi phía
Bắc và Bắc Trung bộ & Duyên hải miền Trung vẫn là vùng có điểm xuất phát thấp,
kinh tế chậm phát triển nên việc huy động nội lực để phát triển kinh tế – xã hội rất
khó khăn. Đồng thời, kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội của những vùng này vẫn còn
yếu kém so với các vùng khác: đường giao thơng chủ yếu là đường bộ, nhưng cịn
thiếu nhiều và chưa bảo đảm chất lượng; các cơng trình thủy lợi vừa thiếu nghiêm
trọng, vừa xuống cấp; việc cung cấp nước sinh hoạt, cấp điện, thông tin liên lạc
cho vùng sâu, vùng núi cao cịn nhiều khó khăn; hệ thống bệnh viện và trạm y tế xã
chưa đủ, thiếu điều kiện làm việc, chưa đáp ứng cơng tác chăm sóc sức khỏe cho
nhân dân; hệ thống trường học, dạy nghề cũng chưa đáp ứng được yêu cầu, v.v.
Tích lũy nội bộ nền kinh tế thấp nhất cả nước, do đó hạn chế khả năng tham gia
đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng thiết yếu phục vụ phát triển kinh tế – xã hội của
vùng. Trong khi đó, hai vùng phát triển nhất là vùng Đông Nam Bộ và đồng
14


bằng sơng Hồng lại có một hệ thống đơ thị và các cơ sở kinh tế tương đối mạnh, là
địa bàn tập trung nhiều ngành cơng nghiệp và có cơ cấu cơng nghiệp phát triển
hơn. Các ngành dịch vụ phát triển với nhịp độ ngày càng tăng và thu hút nhiều lao
động, các ngành dịch vụ quan trọng như vận tải, viễn thông, tài chính ngân hàng,
thương mại đều đạt tốc độ tăng trưởng cao. Mơ hình kinh doanh các loại hình dịch
vụ ngày càng được đổi mới theo hướng hiện đại, chất lượng dịch vụ ngày càng
được nâng cao.
2.2. Tình trạng bất bình đẳng thu nhập tại Việt Nam
Hiện nay, ngồi thu nhập bình qn đầu người, khoảng cách giàu – nghèo,
mức độ bất bình đẳng thu nhập của các quốc gia trên thế giới thường được đo
lường bằng hệ số Gini. Hệ số Gini luôn luôn lớn hơn 0 và nhỏ hơn 1. Hệ số Gini
càng nhỏ thì mức chênh lệch trong phân khối thu nhập giữa các nhóm dân cư ngày
càng ít. Ngược lại, hệ số Gini càng lớn thì mức độ chênh lệch ngày càng cao, khi
đó phân khối thu nhập càng trở nên bất bình đẳng. Ngồi ra, Simon Kuznets (1955)

đưa ra hệ số căn cứ vào tỷ trọng thu nhập của nhóm 20% giàu nhất so với tỷ trọng
thu nhập của nhóm 20% dân số nghèo nhất làm thước đo bất bình đẳng (tỷ số
Kuznets) Hệ số chênh lệch càng lớn thì tình trạng bất bình đẳng ngày càng cao.

Hình 1. Tình trạng bất bình đẳng tăng nhẹ theo thời gian

15


Nguồn: Phân tích của cán bộ Ngân hàng Thế giới dựa trên Khảo sát Mức sống
Hộ gia đình ở Việt Nam

Hình 1 cho thấy tình trạng bất bình đẳng thu nhập tại Việt Nam có xu hướng
tăng trong giai đoạn 1992 – 2010, và giảm vào khoảng 2010 – 2012. Trong những
năm 1990, ngành nơng nghiệp vẫn cịn là ngành nghề chính của đại đa số người
dân Việt Nam, tỷ lệ gia tăng mức độ bất bình đẳng chỉ diễn ra khiêm tốn. Phần lớn
tăng trưởng trong giai đoạn này là nhờ q trình phi tập thể hóa hình thức làm
nơng nghiệp. Khi đó dân số chủ yếu cịn là nơng dân, việc một số hộ gia đình thu
được nhiều lợi hơn các hộ khác, góp phần làm lớn khoảng cách trong bất bình đẳng
thu nhập.
Hiện nay, Việt Nam đang nằm trong nhóm nước có tỷ lệ bất bình đẳng thu
nhập ở mức trung bình. Trong những năm tiếp theo, con số này có thể sẽ tăng cao
bởi, theo lý thuyết về đường cong Kuznets (1955), khi một quốc gia phát triển, bất

16


bình đẳng sẽ tăng và sau đó sẽ giảm. Bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam xảy ra
giữa các vùng, giữa các nhóm ngành và các nhóm dân tộc.
Bảng 1. Hệ số Gini ở Việt Nam phân theo vùng

Năm
Cả nước
Thành thị
Nơng thơn
Đồng bằng sơng Hồng
Miền núi phía Bắc
Bắc Trung bộ và Duyên hải miền

2010
0,433
0,402
0,395
0,408
0,406
0,385

2012
0,424
0,385
0,399
0,393
0,411
0,384

2014
0,430
0,397
0,398
0,407
0,416

0,385

2016
0.431
0,391
0,408
0,401
0,433
0,393

2018
0,424
0,372
0,407
0,392
0,443
0,383

Trung
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
Đồng bằng sông Cửu Long

0,408
0,414
0,398

0,397
0,391
0,403


0,408
0,397
0,395

0,439
0,387
0,405

0,440
0,373
0,399

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Bảng 1 cho thấy hệ số Gini (năm 2010) ở thành thị cao hơn ở nông thôn, các
năm tiếp theo hệ số Gini ở nông thôn cao hơn ở thành thị, cho thấy xu hướng bất
bình đẳng thu nhập ở nơng thơn có xu hướng gia tăng và ở thành thị thì giảm dần.
Các vùng kinh tế có sự chênh lệch khác nhau, nhìn chung đều có xu hướng giảm
dần, ngoại trừ khu vực miền núi phía Bắc và Tây Nguyên. Đây là 2 khu vực kinh tế
có tốc độ phát triển chậm hơn những khu vực cịn lại, do đó, khoảng cách bất bình
đẳng thu nhập có dấu hiệu tăng hơn. Khu vực Đơng Nam Bộ có mức độ tăng
trưởng kinh tế cao nhất so với các khu vực khác, nên hệ số Gini giảm mạnh hơn,
khoảng cách về bất bình đẳng thu nhập ngày càng được thu hẹp tại đây.
Bảng 2. Thu nhập bình qn đâu người/tháng phân theo 5 nhóm thu nhập của Việt
Nam giai đoạn 2010 – 2018
Đơn vị: Nghìn đồng
Năm

Bình


Nhóm

Nhóm

Nhóm

Nhóm

Nhóm

qn

1

2

3

4

5

17

(1)

(2)



2010
2012
2014
2016
2018

1387
2000
2637
3098
3760

369
512
660
771
931

669
984
1314
1516
1808

1000
1500
1972
2301
2774


1490
2222
2830
3356
4110

3410
4784
6413
7547
9175

3041
4272
5753
6776
8244

9,24
9,34
9,72
9,79
9,86

Ghi chú: (1) Khoảng cách thu nhập giữa nhóm 5 và nhóm 1; (2) Số lần chênh lệch thu nhập
giữa nhóm 5 (giàu nhất) và nhóm 1 (nghèo nhất)
Nguồn: Tổng cục Thống kê

Bảng 2 cho thấy sự chênh lệch thu nhập bình qn đầu người/tháng giữa
nhóm 5 và nhóm 1 ngày càng tăng cao qua các năm. Mức độ chênh lệch giữa 2

nhóm này năm 2018 đã tăng gấp khoảng 2,7 lần so với năm 2010. Chênh lệch thu
nhập giữa nhóm 1 với thu nhập bình qn các nhóm có xu hướng tăng nhẹ, cụ thể
vào năm 2010, nhóm 1 chỉ kiếm được số tiền bằng 3,7 lần thu nhập bình quân. Đến
năm 2018, con số này đã tăng lên thành 4 lần. Trong khi đó, nhóm 5 lại có thu
nhập gấp 2,5 lần thu nhập bình quân năm 2010, và đến năm 2018 giảm xuống còn
2,2 lần. Điều này cho thấy, dù tỷ lệ chênh lệch giữa nhóm giàu nhất so với thu
nhập bình qn đã có dấu hiệu giảm, nhưng khoảng cách thu nhập giữa nhóm này
với nhóm nghèo nhất vẫn có dấu hiệu tăng. Số lần chênh lệch giữa nhóm 5 và
nhóm 1 đã tăng từ 9,24 lần (2010) đền 9,86 lần vào năm 2018.
Hình 2. Bản đồ tỷ lệ nghèo

18


Nguồn: “Báo cáo nghèo đa chiều” do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Viện Hàn lâm
Khoa học và Xã hội Việt Nam; Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam
phối hợp thực hiện

Ngoài ra, tình trạng bất bình đẳng về thu nhập cịn dựa trên sự chênh lệch
giữa các nhóm dân tộc, mà chủ yếu là giữa dân tộc Kinh và 53 nhóm dân tộc thiểu
số tại Việt Nam. Qua hình 2, chúng ta thấy rõ khoảng cách chênh lệch lớn giữa 2
nhóm này. Tỷ lệ nghèo ở nhóm dân tộc Kinh hầu như khơng có, hoặc chỉ chiếm
10% ở những vùng núi phía Bắc, khu vực Hà Tĩnh, Gia Lai, Đắk Lắk, Bạc Liêu và
Cà Mau. Trong khí đó, tỷ lệ nghèo ở 53 nhóm dân tộc thiểu số cịn lại ở mức cao,
chiếm từ 20-70%, phân bố chủ yếu ở khu vực miền núi phía Bắc, vùng duyên hải
miền Trung, và khu vực Tây Nguyên.
Hình 3. Tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo theo khu vực, thành thị  nông thôn, và vùng
kinh tế  xã hội giai đoạn 2013 – 2018
19



Nguồn: Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội

Hình 3 một lần nữa cho thấy tỷ lệ hộ nghèo tại các vùng biên giới, Bắc Trung
bộ và Duyên hải miền Trung đạt mức cao gần 50% số hộ gia đình tại những khu
vực này. Ngược lại, tại thành thị, nơi kinh tế phát triển mạnh như vùng đồng bằng
sông Hồng và vùng Đông Nam bộ, số hộ nghèo chiếm tỷ lệ rất thấp, lần lượt là
14% và 4,6%
2.3. Tác động của hội nhập quốc tế đến bất bình đẳng thu nhập tại Việt Nam
Quá trình hội nhập quốc tế, đặc biệt là hội nhập kinh tế quốc tế đã có góp phần
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ngày càng cải thiện chất lượng cuộc sống của người
dân Việt Nam. Kể từ khi Đảng và Nhà nước thực hiện chính sách Đổi Mới (1986)
và bắt đầu mở cửa đến nay, sau hơn 3 thập niên hội nhập quốc tế, Việt Nam đã
thực thi được 12 hiệp định tự do thương mại (FTA), và thu hút được 231,86 tỷ
USD vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) theo Cục đầu tư nước ngoài, lũy kế
đến 20/12/2020.
2.3.1. Tác động từ nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI)
20


Kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài của Việt Nam (1987) được ban hành cho
đến nay, Việt Nam có tốc độ thu hút FDI nhanh chóng. Điều này là bởi Việt Nam
có nhiều tiềm năng để phát triển và sinh lời trong tương lai như nguồn nhân lực dồi
dào, thị trường tiềm năng, tình hình chính trị ổn định, tài nguyên thiên nhiên dồi
dào và đa dạng.
Bảng 3. Tổng vốn FDI thực hiện (triệu USD)
25000
20000
15000
10000

5000
0

2012

2014

2016

2018

Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam

Trong giai đoạn 2012 – 2018, tổng số dự án FDI được cấp phép là 15.281,
tổng lượng cổ phiếu đăng ký là 185,097 tỷ USD, và tổng số vốn đã thực hiện là
100,904 tỷ USD vào Việt Nam. FDI đã tăng đáng kể vào Việt Nam trong giai đoạn
này (Bảng 3). Hiện nay, có 135 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam.
Hàn Quốc là đối tác lớn nhất, tiếp theo là Nhật Bản, Singapore, và Đài Loan. Bên
cạnh những lợi ích kinh tế, FDI cũng có tác động tích cực đến giao lưu giữa các
nền văn hóa khác nhau thơng qua q trình hợp tác cùng có lợi giữa dân tộc Việt
Nam và nhiều dân tộc khác trên thế giới.

21


Bảng 4. Bất bình đẳng thu nhập (Gini)
0.44
0.44
0.43
0.43

0.42
0.42
2012

2014

2016

2018

Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam

Cũng như các nước trên thế giới, ở Việt Nam, bất bình đẳng vẫn là một
thách thức lớn đến các mục tiêu phát triển kinh tế và con người. Để đánh giá sự bất
bình đẳng, có nhiều biện pháp được sử dụng trong thực tế, trong đó hệ số Gini
được sử dụng phổ biến nhất. Bảng 4 cho thấy rằng bất bình đẳng thu nhập của Việt
Nam trong giai đoạn 2012 – 2018 không ổn định và biến động từ 0,424 năm 2012
xuống 0,436 năm 2016, sau đó xuống 0,422 năm 2018. Mặc dù mức độ thay đổi
trong hệ số Gini khơng cao (0,422 đến 0,436), nó cũng cho thấy thu nhập của
người lao động đã thay đổi trong những năm qua.
Về thu nhập của người lao động trong các doanh nghiệp FDI đã tạo ra
khoảng cách giàu nghèo giữa các ngành trong khu vực FDI và giữa FDI với các
khu vực khác. Bảng 5 cho thấy rằng mức lương trung bình của các doanh nghiệp
FDI cao hơn so với các doanh nghiệp trong nước, nhưng có sự khác biệt giữa các
thời kỳ. Cụ thể, tỷ lệ thu nhập bình quân từ tiền lương ở khu vực có vốn đầu tư
nước ngồi so với các doanh nghiệp trong nước tăng trong giai đoạn 2012 – 2014,
sau đó giảm trong giai đoạn 2014 – 2018.
22



Bảng 5. Tỷ lệ tiền lương giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiêp
trong nước
1.61
1.61.38
1.44
1.43
1.3
1.28
1.24
1.2
0.8
0.4
0
2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

Nguồn: Báo cáo từ dữ liệu Khảo sát Doanh nghiệp

Phân tích dữ liệu của Việt Nam cũng cho thấy rằng FDI có thể gây ra bất

bình đẳng giữa khu vực, vì thu nhập bình quân ở các khu vực thu hút FDI lớn nhất,
khu vực đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ cũng cao hơn đáng kể so với các
vùng cịn lại. Bất bình đẳng thu nhập khu vực không chỉ cho thấy sự khác biệt về
tiền lương giữa các doanh nghiệp FDI trong khu vực mà còn trong tiền lương của
các doanh nghiệp trong nước (Bảng 6).
Bảng 6. Mức lương bình quân của lao động người Việt năm 2018
(triệu VND/người)
140
120
100
80
60

121.58
107.03
92.4
75.91
68.81

81.43
62.97

82.04

90.53

58.66

61.33
55.16


40
20
0

Đồng bằng sông Trung du và miền Bắc Trung Bộ và
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
Hồng
núi Bắc Bộ
Duyên hải miền
Trung
Doanh nghiệp FDI
Doanh nghiệp địa phương

Nguồn: Báo cáo từ dữ liệu Khảo
23 sát Doanh nghiệp

Đồng bằng sông
Cửu Long


Do đó, một phân tích so sánh về thu nhập bình quân của lao động ở các
doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước cũng cho thấy nguồn vốn đầu tư
trực tiếp từ nước ngồi có xu hướng làm gia tăng bất bình đẳng thu nhập ở Việt
Nam. Hiện tượng này không chỉ giới hạn trong phạm vi địa phương mà còn biểu
hiện rõ nét giữa các nền kinh tế.
2.3.2. Tác động từ tự do thương mại quốc tế
Theo Tạp chí Tài chính, Kinh tế và Kinh doanh châu Á, sau 10 năm gia nhập
WTO (2007 – 2016), mặc dù chịu tác động của khủng hoảng tài chính tồn cầu và

khủng hoảng nợ cơng, Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tốc
độ tăng trưởng kinh tế bình quân 10 năm của Việt Nam là 6,29%. GDP bình quân
đầu người đạt 1600 USD, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện. Việt Nam
từ nước có thu nhập bình quân đầu người thấp năm 2008 đã trở thành nước có bình
qn thu nhập trung bình vào năm 2016. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng
tích cực, phù hợp với yêu cầu phát triển. Đây là thành tự kinh tế rất quan trọng
trong bối cảnh thiên tai, dịch bệnh, giá cả thế giới và khủng hoảng kinh tế tồn cầu
rất khó khăn.
Kim ngạch xuất khẩu 10 nhóm hàng chủ yếu năm 2016 đạt gần 126,85 tỷ
USD, chiếm 71,8% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Các mặt hàng xuất
khẩu của Việt Nam hầu hết là hàng truyền thống, cần ít vốn nhưng sử dụng nhiều
lao động (khu vực sử dụng nhiều lao động). Điều này tận dụng được lợi thế thương
mại của Việt Nam, từ đó nâng cao thu nhập cho người lao động, đặc biệt là người
dân nông thôn, tăng xuất khẩu, giảm khoảng cách giữa thành thị và nông thôn.
Những thay đổi này là hoàn toàn phù hợp, đặc biệt là trong bối cảnh của Việt Nam
trong những năm gần đây (Tổng cục Hải quan, 2017).
24


×