Tải bản đầy đủ (.pdf) (140 trang)

Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu quản lý vật liệu hữu cơ sau khai thác rừng Keo lá tràm tại Phú Bình- tỉnh Bình Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.28 MB, 140 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
_____________________________

HÀ KHẮC SƠN

NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ VẬT LIỆU HỮU CƠ
SAU KHAI THÁC RỪNG KEO LÁ TRÀM
TẠI PHÚ BÌNH -TỈNH BÌNH DƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Đồng Nai, 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
_________________________

HÀ KHẮC SƠN

NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ VẬT LIỆU HỮU CƠ
SAU KHAI THÁC RỪNG KEO LÁ TRÀM
TẠI PHÚ BÌNH -TỈNH BÌNH DƯƠNG



CHUYÊN NGÀNH : LÂM HỌC
MÃ SỐ : 60.62.60

LUẬN VĂN THẠC SĨ
KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : TS. PHẠM THẾ DŨNG

Đồng Nai, 2012


i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này do chính tơi thực hiện dƣới sự hƣớng dẫn khoa
học của TS. Phạm Thế Dũng.
Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn của tơi hồn tồn trung thực và
chƣa hề công bố hoặc sử dụng để bảo vệ học vị nào.
Các thơng tin, tài liệu trình bày trong luận văn này đã đƣợc chỉ rõ nguồn gốc.
Nếu sai tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm.
Đồng Nai, tháng 01 năm 2012
Tác giả

Hà Khắc Sơn


ii

LỜI CẢM ƠN
Đƣợc sự đồng ý của Khoa Sau đại học - Trƣờng Đại học Lâm Nghiệp, Ban Lãnh

đạo Phân viện nghiên cứu khoa học lâm nghiệp Nam bộ đề tài đã đƣợc triển khai
nghiên cứu tại Trạm thực nghiệm lâm nghiệp Phú Bình – tỉnh Bình Dƣơng thuộc Phân
viện nghiên cứu khoa học lâm nghiệp Nam bộ .
Sau hơn một năm thu thập, xử lý số liệu, viết và chỉnh sửa đến nay luận văn đã
hồn thành. Có đƣợc kết quả này, trƣớc hết Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành
và sâu sắc tới TS. Phạm Thế Dũng, Thầy giáo đã tận tình hƣớng dẫn, động viên và
giúp đỡ tơi hồn thành tốt luận văn tốt nghiệp này.
Qua đây Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng dạy tôi
trong hơn 3 năm học vừa qua; Cảm ơn tới ban lãnh đạo Chi cục Kiểm lâm Đồng Nai,
bạn bè và ngƣời thân trong gia đình đã động viên, khích lệ và tạo mọi điều kiện giúp
đỡ tơi trong q trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành đề tài.
Nhân dịp này, Tơi xin cảm ơn về sự giúp đỡ nhiệt tình của Ban Lãnh đạo, cán bộ
của Phân viện nghiên cứu khoa học lâm nghiệp Nam bộ, Trạm thực nghiệm lâm
nghiệp Phú Bình – tỉnh Bình Dƣơng, đặc biệt là Ths. Vũ Đình Hƣởng, Ks. Lê Thanh
Quang và Ks. Phạm Văn Bốn đã hỗ trợ và đóng góp những ý kiến q báu cho bản
luận văn của tơi đƣợc hồn thiện.
Trong q trình thực hiện đề tài, mặc dù đã có nhiều cố gắng song luận văn
không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tác giả rất mong nhận đƣợc các ý kiến
đóng góp q báu của các Thầy, Cơ giáo và bạn bè.
Xin chân thành cảm ơn!
Đồng Nai, ngày 30 tháng 01 năm 2012

Hà Khắc Sơn


iii

MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa

Lời cam đoan ................................................................................................................. i
Lời cảm ơn .................................................................................................................. ii
Mục lục ...................................................................................................................... iii
Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt ........................................................................... iv
Danh mục bảng ............................................................................................................... v
Danh mục hình............................................................................................................. vii
ĐẶT VẤN ĐỀ ................................................................................................................ 1
Chƣơng 1 - TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU .................................................. 3
1.1. Khái quát chung về cây Keo là tràm ...................................................................... 4
1.2. Tổng luận về các công trình đã cơng bố về vấn đề nghiên cứu ............................. 5
1.3. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu .................................................................... 19
Chƣơng 2 - ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN XÃ HỘI KHU VỰC NGHIÊN CỨU .............. 20
Chƣơng 3 - MỤC TIÊU, ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU ............................................................................................................. 27
Chƣơng 4 - KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ....................................................................... 34
4.1 Ảnh hƣởng của quản lý vật liệu hữu cơ sau khai thác đến sinh trƣởng,
trữ lƣợng, sinh khối, năng suất rừng Keo lá tràm 3 năm tuổi- Chu kỳ 3 ..................... 34
4. 2 Ảnh hƣởng của các biện pháp quản lý vật liệu hữu cơ sau khai thác tới
tính chất đất sau 3 năm thí nghiệm - chu kỳ 3 ............................................................ 61
4. 3 Phân tích cân bằng dinh dƣỡng đất sau 3 năm thí nghiệm - chu kỳ 3 ................. 68
Chƣơng 5 - KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ................................................................... 71
5. 1 Kết luận............................................................................................................. 71
5. 2 Kiến nghị ......................................................................................................... 73
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


iv

CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CIFOR:

Trung tâm nghiên cứu lâm nghiệp quốc tế

VLHCSKT:

Vật liệu hữu cơ sau khai thác

VLHC

Vật liệu hữu cơ

MARD:

Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn

KHLN:

Khoa học Lâm nghiệp

D1.3 (cm):

Đƣờng kính ở vị trí cao 1,3 m.

Hvn (m):

Chiều cao vút ngọn

M (m3):


Trữ lƣợng

Δ (m3/ha/năm):

Tăng trƣởng bình quân hàng năm

TLS (%):

Tỷ lệ sống

LSD :

Sự khác biệt có ý nghĩa

Sig :

Mức ý nghĩa

Mg :

Ma giê

K:

Ka li

N% :

Đạm tổng số


Ca :

Can xi

C:

Chất hữu cơ

P:

Lân

V:

Thể tích

SE :

Sai tiêu chuẩn của trung bình mẫu

[1]

Số hiệu tài liệu trích dẫn trong danh sách tài liệu tham khảo


v

DANH SÁCH CÁC BẢNG
Số hiệu


Tên Bảng

Trang

Bảng
Bảng 4.1 Kí hiệu cơng thức thí nghiệm từ dự án CIFOR sang đề tài nghiên
cứu.
Bảng 4.2

Diễn biến độ chua và dung trọng của đất ở chu kỳ 2 trƣớc khi thí
nghiệm

Bảng 4.3

37

37

Ảnh hƣởng của quản lý VLHCSKT đến C, N và P tầng đất mặt
từ 0 -10 cm ở chu kỳ 2 trƣớc thí nghiệm

38

Bảng 4.4

Lƣợng Cation trao đổi ở chu kỳ 2 trƣớc khi thí nghiệm.

39

Bảng 4.5


Phân tích nguồn dinh dƣỡng (kg/ha) ở các nghiệm thức chu kỳ 2.

40

Bảng 4.6

Ảnh hƣởng của quản lý VLHCSKT tới sinh trƣởng rừng 6 năm
tuổi, chu kỳ 2

Bảng 4.7

Sinh khối và thành phần dinh dƣỡng tích lũy của rừng 6 năm
tuổi, tuổi chu kỳ 2.

Bảng 4.8

48

Ảnh hƣởng của quản lý VLHCSKT đến sinh trƣởng đƣờng kính
rừng trồng 36 tháng tuổi (3 năm tuổi).

Bảng 4.14

47

Ảnh hƣởng của quản lý VLHCSKT đến sinh trƣởng chiều cao
rừng trồng 36 tháng tuổi (3 năm tuổi).

Bảng 4.13


47

Ảnh hƣởng của quản lý VLHCSKT đến tỷ lệ sống rừng trồng
t 36 tháng tuổi (3 năm tuổi).

Bảng 4.12

46

Ảnh hƣởng của quản lý VLHCSKT đến sinh trƣởng rừng trồng
24 tháng tuổi (2 năm tuổi).

Bảng 4.11

45

Ảnh hƣởng của quản lý VLHCSKT đến sinh trƣởng rừng trồng
12 tháng tuổi (1 năm tuổi).

Bảng 4.10

43

Lƣợng VLHCSKT và khả năng cung cấp dinh dƣỡng cho đất ở
Chu kỳ 2.

Bảng 4.9

43


51

Ảnh hƣởng của quản lý VLHCSKT đến sinh trƣởng thể tích rừng
trồng 36 tháng tuổi (3 năm tuổi)

54


vi

Bảng 4.15

Ảnh hƣởng của quản lý VLHCSKT đến sinh trƣởng, động thái
sinh trƣởng rừng trồng 36 tháng tuổi (3 năm tuổi).

Bảng 4.16

54

Ảnh hƣởng của quản lý VLHCSKT đến sinh khối thân có vỏ,
cành từ 1-5cm và cành<1cm của rừng trồng 36 tháng tuổi (3

56

năm tuổi).
Bảng 4.17

Ảnh hƣởng của quản lý VLHCSKT đến sinh khối tƣơi của lá và
tổng sinh khối tƣơi của cây ở rừng trồng 36 tháng tuổi (3 năm


57

tuổi)
Bảng 4.18

Tác động của biện pháp quản lý lập địa tới sinh khối và lƣợng
chất dinh dƣỡng rừng keo lá tràm 03 năm tuổi, chu kỳ 3

Bảng 4.19

Tính chất đất trƣớc khi thí nghiệm quản lý VLHCSKT ở chu kỳ
3

Bảng 4.20

63

Ảnh hƣởng của việc để lại vật liệu hữu cơ sau khai thác tới dung
trọng đất rừng trồng 3 năm tuổi, chu kỳ 3

Bảng 4.23

62

Ảnh hƣởng của việc để lại vật liệu hữu cơ sau khai thác tới pH
đất

Bảng 4.22


61

Kết quả phân tích đất các nghiệm thức sau thí nghiệm 3 năm ,
chu kỳ 3

Bảng 4.21

59

64

Cation trao đổi ở tầng đất mặt (0 – 10 cm) trƣớc và sau trồng
rừng thực nghiệm 3 năm , chu kỳ 3

Bảng 4.24 Phân tích nguồn dinh dƣỡng (kg/ha) ở các nghiệm thức chu kỳ 3

65
69


vii

DANH SÁCH CÁC HÌNH
Số hiệu

Tên Hình

Hình 2.1

Bản đồ Vị trí khu vực nghiên cứu.


Hình 4.1

Ảnh hƣởng của quản lý VLHCSKT đến hàm lƣợng C, N và P
trong tầng đất 0 - 10cm theo tuổi rừng trƣớc thí nghiệm.

Hình 4.2

Cation trao đổi (kg/ha) của các tầng đất trƣớc và sau thí nghiệm
của chu kỳ 2.

Trang
20
36
37

Hình 4.3

Cân bằng dinh dƣỡng giữa các thí nghiệm.

38

Hình 4.4

Sinh khối của rừng theo tuổi ở các thí nghiệm.

40

Hình 4.5


Tích lũy các chất dinh dƣỡng của rừng theo tuổi ở các thí nghiệm.

42

Hình 4.6

Phƣơng trình tƣơng quan giữa đƣờng kính với sinh khối khơ tổng
số, sinh khối khơ thân cây có vỏ, cành 1-5cm, cành < 1cm và lá
cây

44

Hình 4.7

Sinh trƣởng của rừng 02 năm tuổi ở các thí nghiệm.

46

Hình 4.8

Biểu đồ phân bố chiều cao của rừng 3 tuổi theo các thí nghiệm

48

Hình 4.9

Ảnh chụp rừng keo lá tràm rừng 3 năm tuổi ở nghiệm thức F[M].

49


Hình 4.10

Biểu đồ phân bố đƣờng kính của rừng 3 tuổi theo các thí nghiệm

50

Hình 4.11

Ảnh chụp rừng keo lá tràm rừng 3 năm tuổi ở nghiệm thức F[L].

51

Hình 4.12

Ảnh chụp rừng keo lá tràm rừng 3 năm tuổi ở nghiệm thức F[H].

52

Hình 4.13

Biểu đồ phân bố thể tích của rừng 3 tuổi theo các thí nghiệm.

Hình 4.14

Biểu đồ sinh trƣởng và động thái sinh trƣởng của rừng 3 tuổi theo
các nghiệm thức

55

Hình 4.15


Biểu đồ sinh khối của rừng 3 năm tuổi theo các nghiệm thức

58

Hình 4.16

Đo đếm và lấy mẫu sinh khối cây Keo lá tràm 3 năm tuổi
(chu kỳ 3) tại hiện trƣờng

58

53


viii

Hình 4.17

Biểu đồ tích lũy dinh dƣỡng trong thực vật của rừng 3 năm tuổi
theo các nghiệm thức

61

Hình 4.18

Ảnh chụp thu thập mẫu đất năm thứ 3 (chu kỳ 3) tại hiện trƣờng

62


Hình 4.19

Sự tăng đạm và lân dễ tiêu trong đất giữa các nghiệm thức
thí nghiệm quản lí VLHCSKT ở năm thứ 3, chu kỳ 3

65

Hình 4.20 Sự thay đổi trong đất (a) chất hữu cơ- C, (b) đạm- N, (c) lân - P

66

Biểu đồ cân bằng dinh dƣỡng của rừng 3 năm tuổi
theo các nghiệm thức

70

Hình 4.21


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Phát triển lâm nghiệp bền vững đã và đang là con đường tất yếu của mỗi quốc
gia trong việc giải quyết những mâu thuẫn có tính qui luật giữa sử dụng và bảo vệ
tài nguyên thiên nhiên. Trong kinh doanh và phát triển rừng, đặc biệt trồng rừng sản
xuất có qui mơ lớn như ở các quốc gia Indoneshia, Trung quốc, Brazil, Chilê…chủ
rừng luôn nhận thấy rằng: năng suất rừng sụt giảm ở các chu kỳ kế tiếp, kèm theo là
sự thối hóa về đất đai mà trực quan cũng dễ nhận biết qua thực vật chỉ thị.
Giải quyết vấn đề này, đã có nhiều nghiên cứu về quản lý lập địa thông qua
các biện pháp cải tạo đất như cày xới, đặc biệt là bón phân cho rừng trồng theo

hướng sử dụng phân hữu cơ, vi sinh ..vv…Tuy nhiên, phát hiện mới là: Ở các nước
nhiệt đới, thông thường sau khai thác rừng, thường để lại một lượng sản phẩm hữu
cơ rất lớn (cành, nhánh cây nhỏ, ngọn cây…) trên sàn rừng. Khi dọn thực bì để
trồng mới, giải pháp nhanh gọn thường dùng là đốt dọn thực bì. Việc làm này đã
mất đi một lượng lớn chất hữu cơ không được phân hủy, các vi sinh vật trong đất
nơi gần bề mặt bị tiêu diệt, tính chất cơ lý của đất bị thay đổi … đã dẫn đến suy
thối độ phì nhiêu của đất. Phát hiện này đã được Trung tâm Nghiên cứu lâm
nghiệp Quốc tế (CIFOR) cảnh báo và bắt tay vào nghiên cứu tìm kiếm giải pháp
khắc phục để lượng hóa đựơc những mất mát về độ phì nhiêu của đất cũng như tính
tốn được hiệu quả của của các kỹ thuật áp dụng đối với năng suất rừng trồng.
Nghiên cứu này đã được thực hiện tại nhiều nước trên thế giới như Braxil,
Indoneshia, Chile, Pháp, Trung Quốc, Nam Phi…
Từ năm 2002-2007, CIFOR đã giúp Phân viện nghiên cứu khoa học lâm
nghiệp Nam Bộ thuộc Viện Khoa học lâm nghiệp Việt Nam thực hiện dự án
“Nghiên cứu về quản lý lập địa và năng suất rừng trồng nhiệt đới”. Tiếp theo kết
quả nghiên cứu này, đề tài “Nghiên cứu các giải pháp kỹ thuật nhằm bảo vệ độ phì
đất và nâng cao năng suất rừng ở các chu kỳ sau (2008-2012)” đã được Bộ
NN&PTNT giao cho Phân viện thực hiện với mục tiêu mở rộng kết quả NC của dự
án trên 3 vùng sinh thái Bắc, Trung và Nam cho một số loài cây trồng rừng chính
của Việt Nam. Một trong nhiệm vụ của đề tài này là đào tạo, hướng dẫn học viên


2

cao học nghiên cứu cụ thể cho một loài cây ở phía Nam và hồn thành luận văn thạc
sĩ chun ngành. Tác giả đã chọn cây Keo lá tràm (Acacia auriculiformis) một loài
cây được gây trồng chủ yếu ở các tỉnh phía Nam làm đối tượng nghiên cứu cho đề
tài: Nghiên cứu quản lý vật liệu hữu cơ sau khai thác rừng Keo lá tràm tại Phú
Bình- tỉnh Bình Dương.
Như đã biết, Keo lá tràm là loài cây được xác định là thích hợp với điều kiện

đất đai, khí hậu ở Việt Nam và có diện tích gây trồng tương đối lớn trong các
chương trình trồng rừng. Lồi cây này có chu kỳ kinh doanh ngắn, gỗ có thể phục
vụ cho nhiều mục đích khác nhau như làm giấy, ván dăm, ván sợi... Keo lá tràm là
loài cây lá rộng, mọc nhanh, mọc được trên nhiều loại đất, có biên độ sinh thái rộng,
phù hợp cho trồng rừng trên quy mơ lớn. Ngồi việc cung cấp ngun liệu cho cơng
nghiệp sản xuất giấy, ván nhân tạo, gỗ của loài cây này cịn được sử dụng cho các
mục đích khác như xây dựng, đồ gỗ, trang trí nội thất, gỗ củi... Đây cũng là lồi cây
có nốt sần chứa cả Rhizobium và Bradyrhiobium, có khả năng tổng hợp nitơ tự do
trong khơng khí rất cao (Dart và các cộng sự, 1991) [37], có khả năng thích ứng với
nhiều điều kiện khí hậu đất đai ở nước ta từ vùng cát ven biển tương đối khô hạn
đến vùng núi thấp dưới 400m ở Tây Nguyên.
Theo dự báo trong chiến lược phát triển lâm nghiệp, nhu cầu gỗ lớn trong
công nghiệp và dân dụng năm 2010 khoảng 8 triệu m3, năm 2015 khoảng hơn 10
triệu m3 và đến năm 2020 khoảng 12 triệu m3. Do đó việc trồng rừng thâm canh cây
Keo lá tràm với các kỹ thuật quản lý tốt lập địa trồng rừng sẽ ln duy trì năng suất
rừng một cách ổn định và bền vững đáp ứng được nhu cầu gỗ nêu trên.


3

Chƣơng 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 Khái quát chung về cây keo lá tràm
Keo Acacia là một chi thực vật họ phụ Trinh nữ (Mimosoideae) thuộc họ Đậu
(Leguminosae) bao gồm khoảng 1200 lồi có phân bố rộng ở châu Á, và châu Đại
Dương. Riêng Austrailia có khoảng 850 lồi Keo Acacia với hàng trăm lồi có lá
giả (Pedley, 1987) [51] . Ở Việt Nam, vào đầu những năm 1960 gần 20 loài Keo
Acacia được đưa vào thử nghiệm gây trồng, Keo lá tràm là một trong những lồi có
khả năng thích nghi cao và sinh trưởng nhanh do đó trở thành loài cây trồng rừng
phổ biến ở các tỉnh phía Nam (Nguyễn Hồng Nghĩa, 1997) [13]. Keo lá tràm

(Acacia auriculiformis A.Cunn. ex Benth), có nơi cịn gọi là Tràm bơng vàng (vì
chúng có lá giống lá cây Tràm và có hoa màu vàng) là lồi cây đơn thân, thẳng,
thường xanh và sinh trưởng khá nhanh. Hiện nay ở nước ta Keo lá tràm là một trong
những loài cây trồng rừng kinh tế chủ yếu.
Số liệu thống kê toàn quốc giai đoạn 1986 - 1992 của vụ khoa học công nghệ,
Bộ lâm nghiệp (1994) [3] cho thấy diện tích trồng Keo lá tràm khoảng 43.000 ha
chiếm 4,5% .
Keo lá tràm (Acacia auriculiformis) có nguồn gốc từ Australia, Papua New
Guinea (PNG) và Indonesia được nhập vào nước ta từ những năm 1960 (Nguyễn
Hoàng Nghĩa, 1997) [13] , phân bố chủ yếu ở 8 - 160 vĩ Nam, ở độ cao 100m, có thể
đến 400m trên mặt biển, lượng mưa 1400 - 3400mm/năm, song có thể chịu được
lượng mưa 500- 1000mm. Keo lá tràm là một trong những loài cây đang được ưa
chuộng trên thị trường đồ mộc ở nước ta và trên thế giới. Keo lá tràm thường có
kích thước trung bình, thân ngắn nhiều cành nhánh, tuy nhiên trên các lập địa tốt
lồi này có thế cao 30 m với đường kính 80 cm và thân thẳng đơn trục
(Pinyopusarerk, 1990) [55]. Đây là lồi cây sinh trưởng nhanh, gỗ có tỷ trọng 0,5 0,6, thậm chí 0,7, nhiệt lượng cao (4800 - 4900 Kcal/kg) (Viện hàn lâm khoa học
Mỹ, 1984) có thể dùng làm giấy, làm gỗ xây dựng và gỗ đồ mộc.


4

Keo lá tràm có phân bố tự nhiên ở Ơxtrâylia, Papua New Guinea và Indonesia.
Ở Ôxtrâylia cây phân bố chủ yếu ở các vùng phía bắc bang Northern Territory với
độ cao 400m (nằm giữa vĩ độ 110 đến 140 nam và kinh độ 1300 đến 1350 đông),
Cape York Peninsula, Queesland và trên đảo Torres Strait ở độ cao 150m (100 đến
160 vĩ nam và 1420 đến 1450 kinh đông).
Ở Papua New Guinea Keo lá tràm chủ yếu ở phía Tây từ vùng giáp ranh Irian
Jaya đến vùng sông oriomo. Tại Indonesia chúng có phân bố gần Papua New
Guinea và trên đảo Kai Island chủ yếu ở độ cao từ 5 đến 20m (Pinyopusarerk. K,
1984) [53]. Ở Việt Nam, Keo lá tràm là cây nhập nội đã được gây trồng rộng rãi ở

hầu hết các địa phương, đây là loài cây thích ứng khá rộng với các vùng sinh thái
khác nhau của nước ta, từ điều kiện khí hậu, đất đai của vùng cát ven biển tương đối
khô hạn miền Trung đến vùng núi thấp dưới 400m ở Tây nguyên. (Lê Đình Khả và
cộng sự, 2001) [10]
Gỗ Keo lá tràm có tỷ trọng từ 0,5 đến 0,6 thậm chí 0,7 nhiệt lượng cao 4800
đến 4900 kcal/kg (Viện hàn lâm khoa học Mỹ, 1984), trong thành phần hoá học gỗ
chứa 48-50,5% cellulose, 23,5-25,5% lignin và 19,6-22,7% pentosan (Lê Đình Khả
,1999) [11] vì vậy thường được sử dụng làm chất đốt, làm giấy sợi, gỗ xây dựng và
đồ mộc. Ngoài ra, Keo lá tràm cũng là lồi cây có nốt sần ở rễ chứa cả Rhizobium
và Bradyrhizobium có khả năng tổng hợp Nitơ trong khí quyển rất cao, do đó khả
năng cải tạo đất của chúng rất hiệu quả. Nhiều nơi đã dùng Keo lá tràm như là một
trong những loài cây tiên phong để cải tạo đất trống đồi núi trọc.
Chu kỳ kinh doanh của cây Keo lá tràm thường từ 8 đến 12 năm với mục tiêu
làm gỗ nguyên liệu. Vỏ và giác cây thường chiếm khoảng 30% thể tích cây
(Chomcharn và cộng sự, 1986) [36], lõi có mầu nâu nhẹ đến đỏ thẫm, thớ gỗ mịn,
có thể dùng đóng đồ mộc rất tốt. Ở nước ta hiện nay gỗ Keo lá tràm được dùng làm
nguyên liệu giấy sợi, gỗ xây dựng, gỗ chống lị và đóng đồ gia dụng, đồ mỹ nghệ.
Do gỗ có vân đẹp và có mầu phù hợp nên có nơi gọi là “Cẩm lai giả” (Lê Đình Khả,
1993) [8] điều đó chứng tỏ gỗ Keo lá tràm được dùng rộng rãi và được người dân
chấp nhận khi gỗ của một số loài như Đinh, Lim, Lát, v.v... ngày càng hiếm và đắt.


5

Kết quả khảo nghiệm xuất xứ trong nhiều năm qua ở nước ta cho thấy trong hàng
chục xuất xứ Keo lá tràm chỉ có một số ít là có sinh trưởng nhanh rõ rệt. Nơi địa
phương Keo lá tràm được nhập trước đây tuy có khả năng chịu đựng khá tốt đối với
hoàn cảnh khắc nghiệt nhưng sinh trưởng kém hơn nhiều xuất xứ khác, lại có nhiều
cành nhánh (Nguyễn Hồng Nghĩa, 1997) [13]. Vì vậy, việc chọn những cá thể ưu
trội có sinh trưởng nhanh, chất lượng thân cây đẹp và khảo nghiệm dịng vơ tính để

xác định tính ổn định di truyền của chúng là một trong những biện pháp góp phần
nâng cao năng suất và chất lượng của rừng trồng loài cây này.
Với những ưu điểm vừa nêu, Keo lá tràm nhanh chóng được các nước ở vùng
nhiệt đới sử dụng như là một loài chủ yếu để trồng rừng kinh tế, phủ xanh đất trống
đồi núi trọc nhất là các nước vùng Đông Nam Á và Trung Quốc. Do đó nghiên cứu
về Keo lá tràm được các nhà khoa học trên thế giới rất quan tâm.
1.2 Tổng luận về các cơng trình đã cơng bố về vấn đề nghiên cứu
1.2.1 Nghiên cứu ở ngoài nước
Nghiên cứu về sinh thái cây Keo lá tràm
Theo Verdcourt (1979) [64] thì Keo lá tràm là lồi cây gỗ nhỏ đến trung bình
cao khoảng 8 đến 20m nhưng ở những nơi có lập địa thích hợp Keo lá tràm có thể
cao đến 30m, đường kính đạt từ 80cm đến 90cm. Tán Keo lá tràm khá dày, rộng và
xanh quanh năm, màu lá xanh lục đậm. Vỏ Keo lá tràm màu nâu, dày từ 3-10mm có
nứt dọc nhỏ. Cây non có vỏ mền màu xám, nhẵn sau trở nên xù xì chuyển màu đậm
dần theo tuổi. Khi ở giai đoạn cây mầm, lá Keo lá tràm là lá kép lông chim. Sau
khoảng 20 ngày nảy mầm, cây cho ra các lá có phiến rộng, mỏng do cuống lá biến
đổi thành tuy vậy trên đầu lá vẫn mang đôi lá kép như lá ban đầu (lá thật). Hoa của
Keo lá tràm là hoa tự chùm dài 8 - 10cm mọc thành từng đôi từ nách lá, mỗi hoa
nhỏ dài 0,5 -1,5cm ở vùng nguyên sản Keo lá tràm ra hoa vào tháng 6, tháng 7. Quả
của Keo lá tràm là quả đậu, dẹt và mỏng dài 6 - 10cm. Khi còn non quả thẳng, khi
già quả cuộn lại xoắn ốc, vỏ quả hoá gỗ cứng. Mỗi quả mang 5-7 hạt nằm ngang
trong vỏ, có dây rốn dài màu vàng cuốn lại dính vào vách vỏ quả. Quả Keo lá tràm
chín vào tháng 9, tháng 10. Hạt Keo lá tràm dẹt hình bầu dục dài 4- 6mm, rộng 3-


6

4mm, dày khoảng 1mm. Khi chín hạt màu nâu đen, vỏ hạt rất cứng 1kg có từ
30.000- 60.000 hạt.
Nghiên cứu của Pinyopusarerk (1984) [53] về Keo lá tràm cho thấy ở vùng

nguyên sản sinh trưởng tốt ở độ cao thấp hơn 400m, nhiệt độ trung bình 28- 30oC
khơng có sương mù. Lượng mưa hàng năm thay đổi từ 760mm đến 2000mm, số
ngày mưa thông thường từ 80 - 100 ngày trong một năm và phân bố theo mùa.
Theo Turnbull và các cộng sự (1997) [62] Keo lá tràm mọc được trên nhiều
loại đất. Ở Papua New Guinea chúng mọc được trên đất chua đến đất glay hoá
mạnh, úng nước với pH từ 4- 6 và có thể mọc được trên đất có tính kiềm cao pH từ
8- 9 ở Northern Territory Keo lá tràm cịn có khả năng sinh trưởng và phát triển ở
những nơi có hồn cảnh khác hẳn so với vùng ngun sản, như có mùa khơ kéo dài,
lượng mưa trung bình hàng năm nhỏ hơn 650mm, hoặc ở những vùng đất hoang
hố bị xói mịn mạnh kể cả chịu ảnh hưởng của khí độc cơng nghiệp như ở một số
nơi của Trung Quốc và Ấn Độ nó vẫn sống và phát triển tốt.
Keo lá tràm cũng như một số loài trong chi Acacia là những loài mọc nhanh,
có khả năng cố định đạm trong đất, cải tạo đất, cải tạo môi trường và phát triển
được trong nhiều hồn cảnh dù là khắc nghiệt ít lồi cây khác mọc được. Theo
Banerjee (1973) [34] “Ít có lồi cây nào có khả năng thích nghi rộng rãi với hồn
cảnh sống như Keo lá tràm, nó có vai trị đặc biệt trong việc trồng lại rừng ở những
lập địa khó khăn, đất đai nghèo dinh dưỡng do xói mịn vì thiếu hiểu biết khi canh
tác”.
Do có nhiều ưu điểm như đã trình bày, Keo lá tràm nhanh chóng được các
nước ở vùng nhiệt đới trồng thành những vùng rộng lớn như là một loài chủ yếu
phủ xanh đất trống, đồi trọc.
Nghiên cứu về sinh trƣởng, năng suất rừng và giống cây trồng
Theo Brewbaker (1986) [35] khi tổng kết tình hình sinh trưởng của Keo lá tràm
ở Indonesia cho thấy trong những điều kiện thuận lợi về khí hậu (lượng mưa bình
qn >2000mm) đất đai tốt thì Keo lá tràm sinh trưởng mạnh ở tuổi 10 đến 12 cao
từ 15m- 18m, đường kính 15cm - 20cm và năng suất có thể đạt được 20m3 -


7


25m3/ha/năm. Tuy vậy trên những vùng đất bạc màu bị xói mịn mạnh thì năng suất
chỉ đạt 8m3 - 10m3/ha/năm và ở những nơi có lượng mưa thấp, mùa khơ kéo dài
trồng khơng bón phân thì năng suất chỉ cịn 2m3 đến 4m3/ha/năm. Điều này giống
với năng suất rừng Keo lá tràm trồng quảng canh ở nước ta hiện nay.
Nghiên cứu tuổi khai thác của Keo lá tràm trồng trên đất hoang hoá ở
Indonesia của Djuwadi, Fanani và Durbari (1981) [38] cho thấy lượng tăng trưởng
hàng năm và lượng tăng trưởng bình quân hàng năm bằng nhau ở tuổi 14, sau đó
giảm dần và đến tuổi 18 thì lượng tăng trưởng hàng năm bằng khơng. Vì vậy, tác
giả đề nghị tuổi khai thác của Keo lá tràm nên ở tuổi 14.
Tuy nhiên, tác giả khơng đề cập đến mục đích kinh doanh rừng Keo lá tràm vì
mục đích kinh doanh là một chỉ tiêu rất quan trọng để quyết định tuổi khai thác rừng
trồng.
Sự sai khác rất lớn về sinh trưởng và hình dạng thân giữa các xuất xứ Keo lá
tràm đã được nghiên cứu và ghi nhận ở rất nhiều nước trên thế giới như Australia
(Harwood và cộng sự, 1991) [43] và Malaysia (Nor Aini và cộng sự, 1997)[49] Các
xuất xứ có nguồn gốc từ Papua New Guinea (PNG) có sinh trưởng sinh khối lớn
hơn các xuất xứ có nguồn gốc từ Queensland (Qld) và Northern Territory (NT)
nhưng các xuất xứ có nguồn gốc từ (Qld) lại có tỷ lệ cây một thân cao hơn, có hình
dạng thân đẹp hơn. Tuy nhiên, các nghiên cứu của Pinyopusarerk và cộng sự (1997)
tại Thái Lan [54] lại cho thấy rằng các xuất xứ từ Queens land (Qld) sinh trưởng tốt
hơn và có hình dạng thân đẹp hơn các xuất xứ từ Papua New Guinea (PNG) và
Northern Territory (NT).
Nghiên cứu của Nor Aini và các cộng sự (1997) [49] tại Malaysia trên khảo
nghiệm xuất xứ 4 năm tuổi cho thấy không những các xuất xứ khác nhau thì sinh
trưởng khác nhau mà tỷ trọng của gỗ cũng sai khác rất lớn. Các xuất xứ có sinh
trưởng tốt nhất đồng thời cũng là những xuất xứ cho tỷ trọng gỗ cao nhất, trong khi
các xuất xứ sinh trưởng kém có tỷ trọng gỗ thấp nhất.
Song song với các khảo nghiệm loài và xuất xứ, trong khoảng 10 năm gần đây
các kỹ thuật di truyền phân tử cũng đã được áp dụng rộng rãi trong nghiên cứu chọn



8

giống cây rừng. Các nghiên cứu di truyền phân tử được dùng trong đánh giá mức độ
đa dạng di truyền trong quần thể và giữa các quần thể, tỷ lệ giao phấn chéo trong
quần thể. Các nghiên cứu của Wickneswari. R và Norwati. M (1993) [66] sử dụng
chất isozyme trong đánh giá đa dạng di truyền của quần thể Keo lá tràm tự nhiên tại
Australia cho thấy sự sai khác khá cao giữa các quần thể và sự sai khác di truyền là
do sự sai khác giữa các cá thể trong quần thể. Điều này có thể lý giải sự sai khác về
sinh trưởng cũng như khả năng thích nghi của các xuất xứ trong các khảo nghiệm
và là cơ sở quan trọng trong chọn lọc cá thể.
Sau khảo nghiệm loài và xuất xứ, việc chọn lọc cá thể (cây trội) để xây dựng
các khảo nghiệm hậu thế, dịng vơ tính và vườn giống để cung cấp hạt giống là bước
tiếp theo của một chương trình chọn giống. Khảo nghiệm hậu thế các gia đình cây
trộ i Keo lá tràm được chọn lọc từ nơi nguyên sản và từ các lâm phần địa phương tại
Thái Lan năm 1989 đã cho thấy có sự sai khác rất lớn về sinh trưởng giữa các xuất
xứ cũng như giữa các gia đình trong cùng xuất xứ. Các gia đình được chọn lọc trong
các rừng sản xuất tại Thái Lan có sinh trưởng kém đã bị chặt bỏ khi khảo nghiệm
này được chuyển hoá thành vườn giống. Sự sinh trưởng kém của các gia đình địa
phương đã được lý giải là do nền tảng di truyền hẹp, tình trạng giao phối cận huyết
và chọn lọc âm tính (các cá thể có sinh trưởng kém được chọn để thu hái hạt giống
cho sản xuất đại trà) đã xảy ra qua nhiều thế hệ (Pyniopusarerk và cộng sự, 1997)
[54].
Nghiên cứu về quản lý lập địa trồng rừng Keo lá tràm
Trong những năm gần đây, do nhu cầu về gỗ nguyên liệu ngày càng tăng, các
loài cây gỗ mọc nhanh như keo, bạch đàn, thông, ... đã được gây trồng trên những
diện tích lớn ở các nước nhiệt đới. Việc thay thế các rừng rậm nhiệt đới bằng các
rừng thuần loại, mọc nhanh, với chu kỳ khai thác ngắn đã gây ra những lo ngại về
sự thoái hoá đất và giảm năng suất ở các luân kỳ sau.
Nghiên cứu của Nambiar (1996) [47] cho thấy sự thoái hóa lập địa do khai

thác rừng thơng Pinus radiata với chu kỳ ngắn ở Úc. Theo tác giả, có tới 90% chất
dinh dưỡng trong sinh khối bị lấy đi khỏi rừng khi khai thác. Sands (1983) [56]


9

cũng cho rằng sự thay thế rừng bạch đàn tự nhiên ở Úc bằng rừng trồng thông
(Pinus radiata) với chu kỳ chặt 15 – 20 năm (400m3/ ha) cũng làm giảm độ phì đất
do khai thác gỗ. Mặt khác tầng thảm mục dày và khó phân giải của thơng cũng làm
chậm sự quay vịng các ngun tố khống và đạm ở các lập địa này.
Theo Nambiar và Brown (1997) [57] thì việc trồng rừng có thể đem lại những
ảnh hưởng tích cực khi mà độ phì đất được cải thiện. Ngược lại nó đem lại ảnh
hưởng tiêu cực nếu nó làm mất cân bằng hay cạn kiệt nguồn dinh dưỡng trong đất.
Nhìn chung việc trồng rừng cải thiện các tính chất vật lý đất. Tuy nhiên việc sử
dụng cơ giới hố trong xử lý thực bì, khai thác, trồng rừng là nguyên nhân dẫn đến
sự suy giảm sức sản xuất của đất.
Quản lý độ phì đất là tổng hợp các biện pháp kỹ thuật về xử lý thực bì trước
khi trồng, quản lý vật liệu sau khai thác, quản lý tầng thảm tươi cây bụi và quản lý
nguồn dinh dưỡng trong đất đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của rừng nhằm ổn định và
cải thiện năng suất rừng trồng qua nhiều chu kỳ khai thác (Nambiar và Brown,
1997) [48].
Tại Úc và New Zealand, năng suất rừng trồng thông (Pinus radiata) giảm đi là
do quá trình xử lý đất trồng rừng bằng việc đốt thực bì trước khi trồng rừng đã làm
mất lượng mùn và đạm. Số liệu nghiên cứu cho thấy khi đốt vật liệu hữu cơ sau
khai thác sẽ làm thất thoát khoảng 423 kg đạm/ha và giảm 28 % tổng lượng đạm có
trong đất tính tới độ sâu 50 cm (Flinn và cs., 1980) [40].
Kết quả nghiên cứu của Goncalves (1997) [41] cho thấy trong công tác chuẩn
bị đất trồng rừng, nếu đốt vật liệu hữu cơ sau khai thác (phần ngọn cây, cành nhánh,
lá và phần vỏ của lồi bạch đàn Eucalyptus grandis 7 tuổi) thì sẽ mất một lượng lớn
chất dinh dưỡng được qui đổi theo 1 ha như sau: đạm 345 kg, lân 11 kg, kali 79 kg,

129 kg canxi.
Trong điều kiện đất cát khi mất lượng thảm mục che phủ thì dẫn tới giảm nước
trong đất (Sands, 1983) [56]. Năng suất rừng trồng thông (Pinus radiata) được ổn
định khi mà cành nhánh, lá cây sau khai thác được giữ lại tại hiện trường (Squire và
cs., 1985) [58].


10

Năng suất rừng giảm dần là do khi canh tác không chú ý nghiên cứu các biện
pháp kỹ thuật phục hồi và nâng cao tiềm năng sức sản suất của đất rừng (Nambiar
1996, 1997) [47,48].
Tổng kết các nghiên cứu về quản lý lập địa tại Maramarua- New Zealand qua
hai thập kỷ cho thấy khi thảm mục của rừng bị mất đi và bề mặt đất bị nén lại sau
khai thác sẽ làm giảm năng suất rừng là 8%. Tầng đất mặt bị mất do xói mịn sẽ
giảm năng suất lên tới 42% (Murphy và cs., 2004) [46].
Goncalves và cs. (2004) [42] đã nghiên cứu các biện pháp quản lý lập địa cho
rừng trồng bạch đàn tại Sao Paulo, Brazil cho kết quả là sinh trưởng rừng trồng 15
tháng luân kỳ 2 đã tăng lên khi để lại cành nhánh sau khai thác, trong khi đó năng
suất rừng bạch đàn Eucalyptus grandis 6 tuổi tại Brazil đã giảm đi 36,5 % do không
để lại cành nhành sau khai thác, kết quả này cũng tương tự với các nghiên cứu tại
Úc (O’Connell và cs., 2000; Simpson và cs., 2000). [50], [57] Việc giữ lại vật liệu
hữu cơ sau khai thác đã làm tăng số lượng đạm, lượng nước có trong đất (Du Toi và
cs., 2004; Goncalves và cs., 2004) [39], [42].
Nghiên cứu về quản lý lập địa đối với rừng trồng keo tai tượng tại Indonesia
(Hardiyanto và cs., 2004) [44] cho thấy việc lấy đi cành nhánh sau khai thác đã ảnh
hưởng tới nguồn dinh dưỡng trong đất là lân, kali và canxi và giảm năng suất rừng
trồng.
Tại Úc, công tác quản lý rừng thâm canh được áp dụng nhằm thúc đẩy q
trình sinh trưởng để tối đa hóa sản lượng rừng trên một héc ta. Thực tiễn cho thấy

trong giai đoạn thiết lập rừng trồng bao gồm trải qua các bước như làm đất, quản lý
thực vật và bón phân. Trong đó cơng tác quản lý thực vật có vai trị chính làm thúc
đẩy q trình sinh trưởng của cây rừng trên các dạng lập địa và điều kiện khí hậu
khác nhau (Boomsma và Hunter, 1990; Richardson, 1993).
Armson (1967) [33] cho rằng nghiên cứu thành phần dinh dưỡng trong lá cây
là cơ sở để cho các nghiên cứu về dinh dưỡng và bón phân cho rừng trồng.
Chẩn đốn tình trạng dinh dưỡng loài cây keo tai tượng được trồng tại các
nước châu Á như Trung Quốc, Philipine và Việt Nam đã được Simpson (2000) [57]


11

nghiên cứu. Kết quả cho thấy lồi cây này ln có nhu cầu cần nhiều lân, kali và
magiê trong quá trình sinh trưởng.
Tại Trung Quốc khi nghiên cứu chu trình dinh dưỡng của loài keo tai tượng
(A. mangium) từ 24 - 30 tháng tuổi cho thấy nhu cầu dinh dưỡng của chúng cụ thể
như sau: đạm 153,8 kg/ha, lân 5,04 kg/ha, kali 55,4 kg/ha, canxi 36,4 kg/ha và
magiê 20,5 kg/ha (Bai, 1997).
Trồng rừng hỗn giao giữa 2 loài bạch đàn (E. camaldulensis) và keo lá tràm
(A. auriculiformis) tại Thái Lan đã làm tăng độ phì đất và năng suất rừng trồng ở
tuổi 4 ở 2 mật độ trồng là 2500 cây/ha và 1250 cây/ha (Wilawan và cs., 1997) [65]
Tóm lại, trên thế giới việc nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật như để lại cành
nhánh sau khai thác, quản lý lớp thảm tươi và cây tái sinh, bón phân theo nhu cầu
của cây trồng và theo điều kiện đất đai đã làm cho độ phì đất được cải thiện và năng
suất rừng trồng không ngừng tăng lên sau nhiều chu kỳ khai thác. Đây chính là
thành quả khoa học to lớn của các nhà khoa học lâm nghiệp, tiến bộ kỹ thuật này đã
được triển khai trên diện rộng như ở Braxin hay ở Indonesia,…và đó là một trong
các giải pháp kinh doanh bền vững rừng trồng hiện nay. Kết quả nghiên cứu của các
nước chính là những tài liệu tham khảo tốt để có thể tiến hành nghiên cứu về quản
lý độ phì đất rừng trồng trong điều kiện ở Việt Nam.

1.2.2 Nghiên cứu ở trong nước
Các loài cây mọc nhanh như bạch đàn và keo được du nhập vào Việt Nam từ
giữa thế kỷ 20 (Nguyễn Hoàng Nghĩa, 1997) [13]. Ngày nay bạch đàn và keo được
coi như là những lồi cây chủ yếu trong chương trình trồng rừng nguyên liệu. Diện
tích rừng trồng keo và bạch đàn chiếm khoảng 46% tổng diện tích rừng trồng tại
Việt Nam (Nguyễn Huy Sơn và Đặng Thịnh Triều, 2004) [21].
Keo lá tràm được nhập nội vào nước ta trong những năm 1960 (Nguyễn
Hoàng Nghĩa, 1997) [13] nên buổi đầu các nhà khoa học có những cơng trình
nghiên cứu về đặc điểm, công dụng của Keo lá tràm đồng thời tập hợp tài liệu của
nước ngoài, dịch và giới thiệu về loài cây này ở Việt Nam. Có thể kể ra một loạt các
cơng bố của Phạm Hồng Hộ, 1991 [27], của Thái Văn Trừng, 1982 [29] và của Lê


12

Đình Khả, 1993 [8] giới thiệu Keo lá tràm là một trong những lồi cây có khả năng
cải tạo đất, phủ xanh đất trống đồi núi trọc.
Năm 1986, Cao Thọ Ứng và Nguyễn Xn Qt đã có cơng trình nghiên cứu
khá toàn diện về các biện pháp kỹ thuật gây trồng Keo lá tràm [4], tiếp đó Bộ lâm
nghiệp sau khi tổng kết nhiều kết quả nghiên cứu đã phổ biến Quy phạm kỹ thuật
tạm thời trồng Keo lá tràm, hướng dẫn trồng Keo lá tràm bằng cây con có bầu [2].
Trần Hậu Huệ, 1995 [30], đã đánh giá tiềm năng tái sinh của Keo lá tràm như sau
“những cây mạ tái sinh dày đặc, kín cả mặt đất ở những nơi vừa khai thác trắng nhất
là những nơi vừa qua mới bị cháy”. Từ đó tác giả cho rằng khả năng xúc tiến tái
sinh hạt của Keo lá tràm là rất triển vọng khi kết hợp với các phương pháp làm đất
và xử lý thực bì. vào năm 1996, Vũ Tiến Hinh [31] sau khi khảo sát 84 ô rừng trồng
thuần loài Keo lá tràm 4 đến 10 tuổi thuộc 7 địa phương đại diện cho các vùng sinh
thái trong cả nước và giải tích 117 cây đại diện cho các ô quan sát đã lập được các
biểu sau :
- Biểu thể tích cây đứng Keo lá tràm.

- Biểu cấp đất rừng trồng Keo lá tràm.
- Xây dựng một số mơ hình dự đốn sản lượng của Keo lá tràm.
- Biểu quá trình sinh trưởng của Keo lá tràm.
Theo kết quả trong biểu sinh trưởng ở một số vùng được nghiên cứu, lượng
tăng trưởng bình quân của Keo lá tràm ở cấp tuổi 8 có thể đạt từ 5.5 m3/ha/ năm
(cấp đất 4) đến 16.2 m3/ha/năm (cấp đất 1). Tác giả cũng đưa ra kết luận là tuổi
thành thục công nghệ của rừng trồng Keo lá tràm phải sau tuổi 12 (vì lúc đó chưa có
rừng Keo lá tràm thuần lồi cao tuổi hơn). Từ đó, tác giả đề xuất việc ứng dụng kết
quả này cho sản xuất và nghiên cứu vì đây là những căn cứ quan trọng giúp cho các
đơn vị trồng Keo lá tràm tham khảo, tra cứu tính tốn trong sản xuất.
Nói chung ở Việt Nam hiện nay, phương pháp trồng rừng Keo lá tràm bằng
cây con có bầu vẫn là chủ yếu. Thời gian gần đây, một số nơi đã xúc tiến thử
nghiệm phương pháp gieo hạt thẳng bằng máy bay song kết quả vẫn chưa được tổng
kết.


13

Nhu cầu của xã hội về sản phẩm gỗ ngày càng nhiều, rừng trồng Keo lá tràm
khơng chỉ mang tính phòng hộ như trước đây mà còn phải đáp ứng về mặt gỗ, củi.
Chính vì vậy, nghiên cứu về sinh trưởng cho Keo lá tràm được các nhà khoa học
trong nước quan tâm. Năng suất rừng ngày một nâng cao nhờ áp dụng thành tựu về
công tác giống, các biện pháp lâm sinh như biện pháp làm đất, xử lý thực bì, bón
phân và mật độ trồng rừng phù hợp, phịng trừ sâu bệnh. Có thể khái qt một số
nghiên cứu quản lý lập địa được áp dụng như sau:
Các nghiên cứu về giống
Nghiên cứu chọn tạo giống và nhân giống cho một số loài cây trồng chủ yếu,
đặc biệt là hai loài bạch đàn và keo đã thu được kết quả khả quan, đã xác định được
giống cây trồng mới, góp phần làm tăng năng suất trồng rừng trồng ở nước ta. Cụ
thể các loài keo vùng thấp như keo lá tràm, keo tai tượng, keo lưỡi liềm, các loài

keo chịu hạn A. difficilis, A. tumida và A. torulosa, một số loài keo vùng cao A.
mearnsii, nhiều tổ hợp keo lai nhân tạo và lai tự nhiên như Aa34Am2, BV16Am7,
BV16Am2, BV33Am7, BV10 và BV16, các xuất xứ thuộc loài Bạch đàn như E.
urophylla, E. tereticornic, E. camandulensis (Lê Đình Khả, 2001) [10].
Các biện pháp làm đất
Tùy vào điều kiện đất, loài cây trồng và phương thức trồng rừng mà đất có thể
được xử lý bằng nhiều phương pháp khác nhau.Thơng thường sau khi xử lý thực bì,
đất được đào thành hố theo kích thước và mật độ thiết kế. Tuy nhiên trong một số
điều kiện nhất định, đất được xử lý bằng cách cày tồn diện hoặc lên líp trước khi
đào hố.
Nghiên cứu biện pháp làm đất trồng 2 loài keo (keo lá tràm và keo lưỡi liềm)
bằng cách lên líp ở vùng đất cát nội đồng tại Quảng Trị cho thấy sự sai khác rõ rệt
về sinh trưởng (Nguyễn Thị Liệu, 2004) [19].
Việc áp dụng cơ giới trong làm đất trồng rừng cũng cho thấy ảnh hưởng tiêu
cực đến sinh trưởng của rừng keo lai. Nguyên nhân là do việc áp dụng biện pháp
cày toàn diện đã dẫn đến sự xói mịn và rửa trơi làm suy giảm sức sản xuất của đất
(Phạm Thế Dũng, 2005) [24].


14

Các biện pháp xử lý thực bì
Biện pháp xử lý thực bì trước khi trồng thường là phát trắng và đốt. Sau khi
trồng, rừng được chăm sóc bằng cách phát dọn thực bì trong 3 năm đầu. Việc sử
dụng chất diệt cỏ để khống chế thảm tươi cây bụi cũng được áp dụng ở một số địa
phương. Kết quả nghiên cứu cho thấy việc áp dụng biện pháp kiểm soát thảm thực
bì bằng thuốc diệt cỏ đã tác động đến việc quản lý dinh dưỡng đất và do đó đã tạo ra
tác động tích cực đến sinh trưởng của rừng trồng keo (Phạm Thế Dũng và cs 2005)
[24].
Về các kỹ thuật bón phân

Bón phân cho cây rừng là một trong những biện pháp kỹ thuật thâm canh quan
trọng nhằm làm ổn định, tăng năng suất rừng trồng. Trên thực tế cho thấy, bón phân
nhằm bổ sung dinh dưỡng cho đất và hỗ trợ cho cây trồng sinh trưởng nhanh chóng
trong giai đoạn đầu, làm tăng sức đề kháng của cây đối với các điều kiện bất lợi của
môi trường. Ở các nước có nền Lâm nghiệp phát triển cao đều áp dụng bón phân
cho rừng trồng và đạt được chỉ số sử dụng phân bón cao, từ 40 - 50% đối với phân
đạm và khoảng 30% đối với phân lân (Ngơ Đình Quế, 2004) [17].
Nhằm nâng cao năng suất rừng trồng, từ những năm 1990, phân bón được sử
dụng phổ biến trong trồng rừng tại Việt Nam. Do điều kiện khí hậu và đất đai khác
nhau giữa các vùng nên tùy vào loài cây trồng và đặc điểm của đất mà phân bón
được sử dụng với liều lượng và chủng loại khác nhau. Các loại phân thông thường
hiện đang được sử dụng là phân NPK, đạm, lân, vôi bột, phân chuồng, và phân vi
sinh. điển hình có cơng trình nghiên cứu bón phân cho Keo lai ở Cẩm Quỳ (Ba Vì Hà Tây cũ) của Lê Đình Khả, Hồ Quang Vinh (1998) [12]. Các thí nghiệm được
thực hiện trên đất feralit phát triển trên đá mẹ Sa thạch có tầng đất mỏng (30 50cm), tầng đá ong nơng có nơi chỉ cách mặt đất 30cm, pHKcl = 3,5 - 4,7, nghèo
đạm (0,12 - 0,18%), thiếu lân và can xi. Thí nghiệm được tiến hành với biện pháp
thâm canh cày đất tồn diện và bón phân với 8 cơng thức bón phân khác nhau. Kết
quả là cơng thức bón phân phối hợp 2kg phân chuồng với 100gam phân
Themophotphat cho 1 gốc cây thì cho sinh trưởng tốt nhất, tiếp theo là công thức


15

bón 1 kg phân chuồng với 100 gam Themophotphat cho 1 gốc cây. Sinh trưởng của
Keo lai ở 2 công thức này sau 3 năm trồng có thể tích vượt trội so với công thức đối
chứng là 78,7 - 45,3%. Trong một nghiên cứu khác với 14 ô tiêu chuẩn của rừng
trồng Keo lai từ 1,5 - 5,5 năm tuổi ở 5 tỉnh khác nhau, Nguyễn Đức Minh và cộng
sự (2004) [18] đã chỉ ra rằng rừng trồng được bón phân tốt hơn rừng trồng khơng
được bón phân mặc dù Keo lai là cây cố định đạm. Tuy nhiên, ở giai đoạn rừng non
cũng cần bón một lượng phân nhất định để thúc đẩy q trình sinh trưởng. Ngồi ra,
tác giả cịn cho thấy rừng trồng Keo lai được bón lót 100g NPK/cây và bón thúc

100g NPK/cây vào năm thứ 2 cho lượng tăng trưởng cao hơn rừng chỉ bón lót khi
trồng.
Nghiên cứu ảnh hưởng của các cơng thức bón lót tới sinh trưởng rừng keo lai
cho thấy liều lượng và chất lượng phân bón khác nhau có ảnh hưởng rõ rệt đến năng
suất rừng trồng. (Nguyễn Huy Sơn và cs., 2006) [22].
Phạm Thế Dũng và cs. (2005) [24] tiến hành so sánh sinh trưởng của keo lai
trồng trên đất phù sa cổ tại Bình Phước được bón lót các loại phân khác nhau cho
các dòng keo lai TB03, TB05, TB06 và TB12 cho thấy: Chiều cao và trữ lượng lâm
phần của các dòng keo lai đều ảnh hưởng bởi phân bón lót.
Hồng Xn Tý (1985) [5] ghi nhận rằng bón lót hỗn hợp 100g NPK 25g N,
50g P, 25 K và 100g phân vi sinh cho sinh trưởng tốt nhất đối với keo lai tại Bình
Phước.
Đối với keo lá tràm sinh trưởng tốt nhất được xác định tại công thức bón hỗn
hợp 150g NPK (24g N, 10,48g P và 9,96g K) và 300g phân vi sinh (Phạm Thế
Dũng và cs., 2005) [24].
Đối với bón thúc trong trồng rừng được áp dụng phổ biến tại Việt Nam nhằm
bổ sung nguồn dinh dưỡng cho cây trồng, đặc biệt ở những nơi đất xấu. Thơng
thường bón thúc được tiến hành trong q trình chăm sóc rừng ở 2-3 năm đầu.
Phạm Thế Dũng và cs. (2005) [24] đã tiến hành thí nghiệm bón thúc cho các
dòng keo lai TB05 và TB12 và kết luận rằng việc bón thúc khơng gây ảnh hưởng rõ
rệt đến sinh trưởng đường kính và chiều cao. Tuy nhiên, tỷ lệ sống và tỷ lệ cây đa


×