Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

PLDC. tội phạm là gì

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.94 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC
BỘ MƠN KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN MÔN
PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG

Tên đề tài: Tội phạm là gì? Phân tích cấu thành tội phạm.

Họ và tên

:

Mã sinh viên :
Lớp

:

Hà Nội, ngày 24 tháng 06 năm 2021

1


2


A.MỞ ĐẦU
Ngày nay, khi xã hội đang ngày càng phát triển giúp nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của người dân, giúp cho xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Song hàn cùng với
những mặt lợi từ việc xã hội phát triển là những mặt tiêu cực đi kèm như thất
nghiệp, lạm phát, đặc biệt là vấn đề tội phạm trong xã hội ngày càng gia tăng. Tội
phạm là thành phần hết sức nguy hiêm, mang lại nhwunxg tác động tiêu cực đến sự


phát triển của đất nước, ,thậm chí những tội phạm nguy hiểm cịn đe dọa đến tài sản
và tính mạng của người dân. Chính vì điều nay, nhà nước đã ban hành bộ luật nhằm
quy định những hành vi nào là tội phạm, và đưa ra những hình phạt đối với người
nào thực hiện hành vi đó. Qua đó cũng phản ánh tầm quan trọng của nhà nước đối
với sự phát triển ổn định của đất nước. Vì vậy, việc nghiên cứu về vấn đề tội phạm
và cấu thành tội phạm là yêu cầu hết sức cần thiết. Nhận thấy tầm quan trọng của
vấ đề nên em chọn “Tội phạm là gì? Phân tích cấu thành tội phạm.” làm đề tài
nghiên cứu của mình.

3


B. NỘI DUNG
1. Khái niệm Tội phạm.
Khái niệm tội phạm được định nghĩa cụ thể tại điều 8, bộ luật hình sự 2015: "Tội
phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do
người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một
cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phịng, an
ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền
con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác
của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử
lý hình sự.
Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội
khơng đáng kể thì khơng phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác.
Như vậy, có thể thấy rằng khái niệm tội phạm đã trải qua nhiều năm lập pháp
nhưng nội hàm của khái niệm này vẫn khơng có những thay đổi về bản chất nó vẫn
được coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội và chỉ bị xử lý khi hành vi đó được quy
định cụ thể trong luật hình sự.
Ví dụ về tội phạm

Ví dụ 1: Ông Nguyễn Văn X đã giết người, dù là cố ý hay là vơ tình thì đều được
xếp vào loại tội phạm hình sự đặc biệt nghiêm trọng.
Ví dụ 2: Bà Trần Thị X đã cướp giật của Ông A và bị bắt, như vậy bà X cũng sẽ bị
xếp vào loại tội phạm nghiêm trọng. Như vậy là bà X có thể bị phạt hành chính
hoặc bị phạt tù theo thời gian của hành động.
Ví dụ 3: Gia đình A đã trồng cây lên mảnh đất của gia đình B sẽ bị quy vào loại tội
phạm ít nghiêm trọng theo bộ luật hình sự Việt Nam.
Xung quanh cuộc sống của chúng ta đều có rất nhiều loại tội phạm khác nhau,
những tội phạm thường xuyên gặp như cướp của, trộm cắp, đánh nhau… những tội
phạm ít gặp hơn như hiếp dâm, giết người… và những loại tội phạm hiếm gặp như
buôn bán phụ nữ, buôn bán vũ khí, bn bán ma túy… Tùy thuộc vào từng loại tội
phạm sẽ có những loại hình phạt khác nhau. Có thể cùng là một loại tội phạm
nhưng hình phạt cũng khác nhau, ví dụ như cùng giết người nhưng có người bị phạt
4


nặng hơn vì cịn xét vào động cơ giết người, hành vi của người đó là vơ tình hay cố
ý, hành vi có kiểm sốt hay khơng kiểm sốt…
Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được
quy định trong Bộ luật Hình sự, tội phạm được phân thành 04 loại sau đây:
Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
khơng lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối
với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm;
Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối với tội
ấy là từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù;
Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối
với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù;
Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho

xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự quy
định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
Tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện được phân loại căn cứ vào tính chất
và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội theo quy định tại khoản
1 Điều 9 Bộ luật Hình sự và quy định tương ứng đối với các tội phạm được quy
định tại Điều 76 Bộ luật Hình sự.

2. Dấu hiệu nhận biết Tơi phạm.
2.1 Tính nguy hiểm cho xã hội
Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là dấu hiệu đầu tiên để xác định được
hành vi đó có phải là tội phạm hay khơng. Tính nguy hiểm cho xã hội thể hiện ở
việc gây thiệt hại hoặc tạo ra nguy cơ gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội. Trong
đó các quan hệ xã hội là đối tượng bảo vệ của luật hình sự. Tính nguy hiểm cho xã
5


hội là một thuộc tính quan trọng và cơ bản nhất, có ý nghĩa quyết định các dấu hiệu
và được thể hiện thông qua hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Theo quy định tại điều 123 luật hình sư 2015 sửa đổ bổ sung năm 2017 về tội giết
người là hành vi nguy hiểm xâm hại trực tiếp đến tính mạng con người. Người bị
giết là người cịn sống, vì tội giết người là tội xâm phạm đến tính mạng con người,
gây nguy hiểm cho xã hội.
2.2 Tính có lỗi
Lỗi là thái độ tâm lý chủ quan của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội
mà họ thực hiện và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra. Lỗi thể hiện dưới dạng cố
ý hoặc vô ý, là một dấu hiệu rất quan trọng trong cấu thành tội phạm. Mục đích của
áp dụng hình phạt là trừng phạt người có lỗi chứ khơng phải trừng phạt hành vi.
Trong bộ luật hình sự Việt Nam thì nguyên tắc có lỗi được coi là nguyên tắc cơ
bản. Người chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam khơng phải chỉ
đơn thuần vì người này có hành vi khách quan gây thiệt hại cho xã hội mà cịn vì đã

có lỗi trong thực hiện hành vi khách quan đó. Có thể chia hành vi phạm tội thành
lỗi cố ý và lỗi vơ ý.
Ví dụ: Điều 123 Luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 quy định về tội giết
người thì có thể thấy tội phạm cố ý giết người. Tội phạm thực hiện hành vi tước
đoạt tính mạng người khác, người phạm tội nhận thức rõ hành động của mình tất
yếu hoặc có thể gây cho nạn nhân chết và mong muốn hoặc bỏ mặc cho nạn nhân
chết. Biểu hiện ý thức này ra bên ngoài thường được biểu hiện bằng những hành vi
như: chuẩn bị hung khí (phương tiện), điều tra theo dõi mọi hoạt động của người
định giết, chuẩn bị những điều kiện, thủ đoạn để che giấu tội phạm,…
2.3 Tính trái pháp luật
Căn cứ theo điều 2 Bộ luật hình sự 2017 quy định về trách nhiệm hình sự như
Thứ nhất: Tính nguy hiểm cho xã hội
Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là dấu hiệu đầu tiên để xác định được
hành vi đó có phải là tội phạm hay khơng. Tính nguy hiểm cho xã hội thể hiện ở
việc gây thiệt hại hoặc tạo ra nguy cơ gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội. Trong
đó các quan hệ xã hội là đối tượng bảo vệ của luật hình sự. Tính nguy hiểm cho xã
6


hội là một thuộc tính quan trọng và cơ bản nhất, có ý nghĩa quyết định các dấu hiệu
và được thể hiện thông qua hành vi nguy hiểm cho xã hội.

Theo quy định tại điều 123 luật hình sư 2015 sửa đổ bổ sung năm 2017 về tội giết
người là hành vi nguy hiểm xâm hại trực tiếp đến tính mạng con người. Người bị
giết là người cịn sống, vì tội giết người là tội xâm phạm đến tính mạng con người,
gây nguy hiểm cho xã hội.
Thứ hai: Tính có lỗi
Lỗi là thái độ tâm lý chủ quan của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội
mà họ thực hiện và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra. Lỗi thể hiện dưới dạng cố
ý hoặc vô ý, là một dấu hiệu rất quan trọng trong cấu thành tội phạm. Mục đích của

áp dụng hình phạt là trừng phạt người có lỗi chứ khơng phải trừng phạt hành vi.
Trong bộ luật hình sự Việt Nam thì ngun tắc có lỗi được coi là ngun tắc cơ
bản. Người chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam khơng phải chỉ
đơn thuần vì người này có hành vi khách quan gây thiệt hại cho xã hội mà cịn vì đã
có lỗi trong thực hiện hành vi khách quan đó. Có thể chia hành vi phạm tội thành
lỗi cố ý và lỗi vơ ý.

Ví dụ: Điều 123 Luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 quy định về tội giết
người thì có thể thấy tội phạm cố ý giết người. Tội phạm thực hiện hành vi tước
đoạt tính mạng người khác, người phạm tội nhận thức rõ hành động của mình tất
yếu hoặc có thể gây cho nạn nhân chết và mong muốn hoặc bỏ mặc cho nạn nhân
chết. Biểu hiện ý thức này ra bên ngoài thường được biểu hiện bằng những hành vi
như: chuẩn bị hung khí (phương tiện), điều tra theo dõi mọi hoạt động của người
định giết, chuẩn bị những điều kiện, thủ đoạn để che giấu tội phạm,…
Thứ ba: Tính trái pháp luật
Căn cứ theo điều 2 Bộ luật hình sự 2017 quy định về trách nhiệm hình sự như sau:
“ Điều 2. Cơ sở của trách nhiệm hình sự
7


1. Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật Hình sự quy định mới phải chịu
trách nhiệm hình sự.
2. Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của
Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự”.
Như vậy bất cứ hành vi nào không được quy định là một tội trong bộ luật Hình sự
thì việc thực hiện hành vi đó đều khơng phải là tội phạm.
Ví dụ: Dù pháp luật quy định rất rõ ràng và cấm chủ thể, pháp nhân thực hiên các
hành vi vi phạm pháp luật nhưng chủ thể vẫn thực hiện hành vi vi phạm pháp luật
của mình. Khi pháp luật đã quy đinh cấm giết người tại điều 123 luật hình sự sửa
đổi bổ sung 2017 nhưng chủ thể vẫn thực hiện hành vi giết người và trái pháp luật.

Thứ tư: Tính phải chịu hình phạt
Tính phải chịu hình phạt là dấu hiệu kèm theo của dấu hiệu tính nguy hiểm cho xã
hội và tính trái pháp luật hình sự. Chỉ những hành vi phạm tội mới phải chịu hình
phạt, hình phạt được coi là cơ chế răn đe, giáo dục đối với tội phạm. Tùy theo từng
loại tội khác nhau có yếu tố tăng nặng hay giảm nhẹ mà người phạm tội đều phải
chịu hình phạt trước tội của mình gây ra,
Ví dụ theo khoản 1 điều 123 thì người nào giết người thuộc một trong các trường
hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Pháp
luật có quy định rất rõ ràng về mức hình phạt mà người phạm tội cần chịu khi vi
phạm.Như vậy bất cứ hành vi nào không được quy định là một tội trong bộ luật
Hình sự thì việc thực hiện hành vi đó đều khơng phải là tội phạm.
Ví dụ: Dù pháp luật quy định rất rõ ràng và cấm chủ thể, pháp nhân thực hiên các
hành vi vi phạm pháp luật nhưng chủ thể vẫn thực hiện hành vi vi phạm pháp luật
của mình. Khi pháp luật đã quy đinh cấm giết người tại điều 123 luật hình sự sửa
đổi bổ sung 2017 nhưng chủ thể vẫn thực hiện hành vi giết người và trái pháp luật.
Thứ tư: Tính phải chịu hình phạt
Tính phải chịu hình phạt là dấu hiệu kèm theo của dấu hiệu tính nguy hiểm cho xã
hội và tính trái pháp luật hình sự. Chỉ những hành vi phạm tội mới phải chịu hình
8


phạt, hình phạt được coi là cơ chế răn đe, giáo dục đối với tội phạm. Tùy theo từng
loại tội khác nhau có yếu tố tăng nặng hay giảm nhẹ mà người phạm tội đều phải
chịu hình phạt trước tội của mình gây ra,
Ví dụ theo khoản 1 điều 123 thì người nào giết người thuộc một trong các trường
hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Pháp
luật có quy định rất rõ ràng về mức hình phạt mà người phạm tội cần chịu khi vi
phạm.

3. Phân tích cấu thành Tội phạm.

3.1 Khái niệm
Mỗi trường hợp phạm tội cụ thể của tội phạm nhất định như tội giết người, tội cưởp
tài sản đều có những nội dung biểu hiện riêng biệt ở cả bốn yếu tố. Ví dụ. Cũng là
tội giết người nhưng những nội dung biểu hiện cụ thể của bốn yếu tố của tội phạm
ttong từng trường hợp giết người đều có những nét riêng biệt, khơng trường hợp
nạo giống hoàn toàn trường hợp nào.
Tuy khác nhau như vậy nhưng tất cả các trường hợp phạm tội của tội phạm nhất
định đều có những nội dung biểu hiện giống nhau ở cả bốn yếu tố. Những biểu hiện
giống nhau đó được coi là những dấu hiệu chung có tính đặc trưng của tội phạm
nhất định. Khi quy định tội phạm trong luật, nhà làm luật phải sử dụng các dấu hiệu
này để mô tả tội phạm. Trong khoa học luật hình sự, sự mơ tả này được gọi là
CTTP.
Như vậy, Cấu thành tội phạm là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính đặc trưng
cho tội phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự.

3.2 Đặc điểm
Các dấu hiệu trong CTTP đều do luật định. Chỉ Nhà nước mới có quyền quy định
một hành vi nào là tội phạm bằng cách là mô tả những dấu hiệu đó và quy định
chúng trong BLHS. Cơ quan giải thích và áp dụng pháp luật chỉ được phép giải
thích nội dung những dấu hiệu đã được quy định trong BLHS. Việc thêm hoặc bớt
bất kỳ một dấu hiệu nào đó của CTTP đều có thể dẫn đến tình trạng định tội sai
hoặc bỏ lọt tội hoặc làm oan người vô tội.
9


Các dấu hiệu trong CTTP của một loại tội được quy định trong phần chung của
BLHS như: tuổi, tình trạng năng lực trách nhiệm hình sự, lỗi; và chúng được quy
định trong phần các tội phạm của BLHS như dấu hiệu: hành vi khách quan, hậu quả
của tội phạm, quan hệ xã hội bị xâm hại...


Các dấu hiệu của CTTP mang tính đặc trưng điển hình. Một loại tội phạm chỉ được
đặc trưng bởi một CTTP và một CTTP chỉ đặc trưng cho một loại tội phạm, đó là
dấu hiệu đặc trưng. Dấu hiệu đặc trưng của CTTP còn thể hiện ở chỗ chỉ các dấu
hiệu nào nói lên bản chất đặc trưng của loại tội đó để phân biệt tội phạm đó với tội
phạm khác mới được ghi nhận trong CTTP.

Một dấu hiệu có thể được phản ánh trong nhiều cấu thành tội phạm nhưng giũa các
cấu thành tội phạm khác nhau phải có ít nhất một dấu hiệu khác nhau Đó là dấu
hiệu điển hình.

Hoặc ví dụ về CTTP trộm cắp với CTTP lừa đảo có rất nhiều dấu hiệu chung giống
nhau như: quan hệ sở hữu bị xâm hại, độ tuổi, năng lực TNHS, hành vi chiếm đoạt
tài sản, lỗi cố ý trực tiếp. Nhưng giữa 2 CTTP này có 2 dấu hiệu mang tính điển
hình cho mỗi CTTP đó là: hành vi lén lút trong tội trộm cắp tài sản và hành vi gian
dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Như vậy, giữa 2 CTTP khác nhau phải
khác nhau ít nhất một dấu hiệu, đó chính là dấu hiệu điển hình.

Các dấu hiệu của cấu thành tội phạm có tính bắt buộc. Một hành vi chỉ bị coi là tội
phạm khi nó thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm. Nếu thiếu
hoặc thừa bất kỳ một dấu hiệu nào đó thì nó có thể khơng phải là tội phạm hoặc tội
phạm khác. Nghĩa là tất cả dấu hiệu của cấu thành tội phạm đều là điều kiện cần và
đủ để định tội danh.

Các dấu hiệu của CTTP là các dấu hiệu bắt buộc được quy định ở phần chung hoặc
phần các tội phạm cụ thể của BLHS.
10


3.3 Các yếu tố cấu thành tội phạm
3.3.1. Mặt khách quan của tội phạm

Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại
bên ngoài thế giới khách quan. Những dấu hiệu thuộc về khách quan của tội phạm
gồm những hành vi nguy hiểm cho xã hội : tính trái pháp luật của hành vi, hậu quả
nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ của tội phạm cịn có các dâu hiệu khác nhau
như: phương tiện, công cụ tội phạm, phương pháp thủ đoạn, thời gian, địa điểm,
thực hiện phạm tội.
3.3.2. Mặt chủ quan của tội phạm
Mặt chủ quan của tội phạm là những diễn biến tâm lý bên trong của tội phạm bao
gồm : lỗi, mục đích, va động cơ phạm tội. Bất cư tội phạm cụ thể nào cũng phải là
hành vi được thực hiện một cách có lỗi. Lỗi có hai loại lỗi : lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý
phạm tội.
Cố ý phạm tội là cố ý trong các trường hợp sau:
Người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là gây nguy hại cho xã hội, thấy
được hậu quả của hành vi đó và mong muốn hành vi đó sẽ xảy ra.
Người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là nguy hiềm cho xã hội, thấy
trước hậu quả của hành vi đó, tuy khơng mong muốn những vẫn có ý thức để mặc
nó xảy ra.
Vơ ý phạm tội bao gồm các trường hợp sau:
Người phạm tội tuy thấy trước được hành vi của mình có thể gây nguy hại cho xã
hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ khơng xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.
Người phạm tội không thấy được hành vi của mình có thể gây ra nguy hại cho xã
hội, mặc dù có thể thấy trước và có thể thấy hậu quả đó.
3.3.3. Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm
gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại ở mức độ đáng kể.
11


Khách thể của tội phạm là một trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm và được hiểu là
đối tượng bị tội phạm xâm hại. Luật hình sự coi đối tượng bị tội phạm xâm hại là

quan hệ xã hội. Bất cứ tội phạm nào cũng đều xâm hại một hoặc một số quan hệ xã
hội nhất định được Luật hình sự bảo vệ.
Ví dụ: Tội giết người xâm phạm quan hệ nhân thân, tội trộm cắp tài sản xâm hại
quan hệ sở hữu... Quan hệ nhân thân hay quan hệ sở hữu trong những trường hợp
này là khách thể của tội phạm.
Trong mối tương quan với tội phạm nói chung, nhóm tội phạm và tội phạm cụ thể
có khách thể chung, khách thể loại và khách thể trực tiếp. Trong đó, khách thể
chung của tội phạm được hiểu là tổng hợp những quan hệ xã hội được Luật hình sự
bảo vệ và có thể bị tội phạm xâm hại. Những quan hệ xã hội được Luật hình sự Việt
Nam bảo vệ là những quan hệ xã hội được xác định trong Bộ luật hình sự như độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc,... chế độ chính trị, chế độ
kinh tế, nền văn hố, quốc phịng, an nỉnh, trật tự, an toàn xã hội, các quyền nhân
thân, quyền sở hữu... Khách thể loại của tội phạm được hiểu là nhóm các quan hệ
xã hội cùng hoặc gần tính chất được nhóm các quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ
và bị nhóm các tội phạm xâm hại. Theo Luật hình sự Việt Nam hiện hành có 14
nhóm quan hệ xã hội như vậy.
Ví dụ: Nhóm quan hệ sở hữu, nhóm an ninh quốc gia, nhóm quan hệ hơn nhân, gia
đình... Khách thể trực tiếp của tội phạm được hiểu là quan hệ xã hội cụ thể được
quy phạm pháp luật hình sự cụ thể bảo VỆ và bị tội phạm cụ thể xâm hại (và sự
xâm hại này thể hiện được đầy đủ nhất bản chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm
cụ thể đó). Một tội phạm có thể xâm hại nhiều quan hệ xã hội khác nhau nhưng
trong đó chỉ có một hoặc một số quan hệ xã hội bị xâm hại có tính chất của khách
thể trực tiếp.

3.3.4. Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm là con người cụ thể đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội được luật hình sự quy định là tội phạm, có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt
độ tuổi theo quy định của luật hình sự

12



Trong đó, năng lực trách nhiệm hình sự là khả năng nhận thức và điều khiển hành
vi của người phạm tội. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự : Người từ 14 tuổi đến 16 tuổi
thì phải chịu trách nhiệm hình sự với những tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội
đặc biệt nghiêm trọng, người từ 16 tuổi trở lên chịu trách nhiệm hình sự với mọi
loại tội phạm.

3.4 Phân loại cấu thành tội phạm
3.4.1. Cấu thành tội phạm hình thức
Cấu thành tội phạm hình thức là cấu thành tội phạm có duy nhất một yếu tố bắt
buộc về mặt khách quan của tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi gây thiệt hại cho xã hội hoặc hành vi tạo
ra khả năng gây ra các thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và
được thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động. Hành động phạm tội là
làm một việc mà pháp luật hình sự cấm khơng được làm. Ví dụ: hành động giết
người (Điều 93 Bộ luật hình sự); cướp tài sản (Điều 133 Bộ luật hình sự)…..
Cịn hành vi phạm tội được thực hiện dưới dạng không hành động là trường hợp
không làm một việc mà pháp luật bắt buộc phải làm, như các hành vi: không cứu
giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng (Điều 102 Bộ luật
hình sự); khơng tố giác tội phạm (Điều 314 Bộ luật hình sự) (2). Các tội pham có
cấu thành hình thức là những tội phạm được quy định tại khoản 1 các Điều 78 – 84,
86-91, 133, 134… Bộ luật hình sự.
Tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức được coi là hồn thành từ thời điểm thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được mô tả trong điều luật phần các tội phạm
Bộ luật hình sự.
3.4.2. Cấu thành tội phạm vật chất
Cấu thành tội phạm vật chất là cấu thành tội phạm mà các dấu hiệu bắt buộc thuộc
mặt khách quan của tội phạm bao gồm: hành vi phạm tội, hậu quả do hành vi phạm
tội gây ra; và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả do hành vi phạm tội

gây ra, trong đó:
13


Hành vi phạm tội là hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm chế độ chính trị, chế
độ kinh tế, nền văn hố, quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyền, lợi ích
hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do,
tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực
khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa; được quy định ở các điều luật cụ thể
thuộc phần các tội phạm của Bộ luật hình sự.
Hậu quả do hành vi phạm tội gây ra là thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản
hoặc hậu quả phi vật chất. Căn cứ vào mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra,
thì có thể chia hậu quả do hành vi phạm tội gây ra thành bốn mức sau: hậu quả ít
nghiêm trọng; hậu quả nghiêm trọng; hậu quả rất nghiêm trọng; và hậu quả đặc biệt
nghiêm trọng, trong đó: Hậu quả ít nghiêm trọng là thiệt hại do hành vi phạm tội
gây ra ở mức không lớn cho xã hội. Hậu quả nghiêm trọng là thiệt hại lớn cho xã
hội về tính mạng, sức khoẻ, tài sản và thiệt hại phi vật chất khác.
Hậu quả rất nghiêm trọng là thiệt hại rất lớn cho xã hội về tính mạng, sức khoẻ, tài
sản và thiệt hại phi vật chất khác. Hậu quả đặc biệt nghiêm trọng là thiệt hại đặc
biệt lớn cho xã hội về tính mạng, sức khoẻ, tài sản và thiệt hại phi vật chất khác.
Với tư cách là một yếu tố bắt buộc của cấu thành tội phạm vật chất, thì chỉ những
hành vi gây ra một trong các loại thiệt hại sau đây mới bị coi là tội phạm: hậu quả
nghiêm trọng; hậu quả rất nghiêm trọng; và hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, hậu quả
nghiêm trọng; hậu quả rất nghiêm trọng; và hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
Cịn hành vi khơng gây ra hậu quả ít nghiêm trọng chỉ bị coi là phạm tội khi đi kèm
các dấu hiệu khác (chúng tơi sẽ trình bày ở cuối bài viết này). Nghiên cứu các tội
phạm có cấu thành vật chất, thấy “hậu quả nghiêm trọng, hậu quả rất nghiêm trọng,
hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”được thể hiện bởi nhiều dạng khác nhau.
Có những tội dùng trực tiếp thuật ngữ gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng,
đặc biệt nghiêm trọng” như tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng; tội ngược đãi

hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có cơng ni dưỡng
mình; tội xâm phạm quyền sở hữu cơng nghiệp; tội vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thơng đường bộ…Và cũng có tội gây ra nghiêm trọng, rất nghiêm
trọng, đặc biệt nghiêm trọng được thể hiện dưới dạng các mức độ thiệt hại cụ thể
như: tính mạng, % sức khỏe bị thiệt hại, giá trị tài sản bị hành vi phạm tội xâm
phạm. Đó là các tội: giết người, cố ý gây thương tích, trộm cắp tài sản…
14


-Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả do hành vi phạm tội gây ra là dấu
hiệu bắt buộc thuộc mặt khách quan của tội phạm có cấu thành vật chất. Theo quy
định của pháp luật, thì chỉ được coi là giữa hành vi khách quan và hậu quả có quan
hệ nhân quả khi:
Hành vi trái pháp luật phải xảy ra trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội về mặt thời
gian. Đây là căn cứ đầu tiên cần thiết cho việc kiểm tra sự tồn tại của quan hệ nhân
quả và trên thực tế khi kiểm tra căn cứ này thì trong vụ án cụ thể, nếu khơng thoả
mãn căn cứ thì khơng có khả năng tồn tại quan hệ nhân quả giữa giữa hành vi và
hậu quả.
Hành vi trái pháp luật phải chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả nguy
hiểm cho xã hội và hậu quả nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra phải là sự hiện thực
hoá khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả của chính hành vi trái pháp luật. Hành
vi trực tiếp gây ra hậu quả và hậu quả chính là hệ quả trực tiếp của hành vi. Cũng
cần lưu ý rằng, trong quan hệ nhân quả, hành vi trái pháp luật được coi là nguyên
nhân, tuy giữ vai trò quyết định đối với sự phát sinh hậu quả nguy hiểm cho xã hội,
nhưng hậu quả đó xảy ra hay khơng và xảy ra như thế nào còn phụ thuộc vào
những “điều kiện” nhất định như khắc phục, cứu chữa kịp thời…
Tội phạm có cấu thành tội phạm vật chất được coi là hoàn thành từ thời điểm có
thiệt hại xảy ra.
3.4.3. Cấu thành tội phạm hỗn hợp
Cấu thành tội phạm hỗn hợp là loại cấu thành tội phạm mà các dấu hiệu thuộc mặt

khách quan của cấu thành tội phạm vừa có yếu tố của cấu thành tội phạm hình thức,
vừa có yếu tố của cấu thành tội phạm vật chất.
Cấu thành tội phạm hỗn hợp có yếu tố của cấu thành tội phạm vật chất. Cấu thành
tội phạm hỗn hợp có yếu tố của cấu thành tội phạm vật chất là loại cấu thành tội
phạm đặc trưng mới được quy định trong Bộ luật hình sự từ sau lần sửa đổi bổi
sung năm 1997. Trong Bộ luật hình sự năm 1999 loại cấu thành tội phạm này được
quy định tại một số tội xâm phạm sở hữu, tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, tội
phạm về chức vụ….Theo đó các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của cấu thành tội
phạm bao gồm hành vi vi phạm, thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra, mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi và hậu quả.
15


Hành vi khách quan là hành vi vi phạm bởi vì nếu chỉ xét hành vi thì hành vi đó
chưa đến mức bị coi là phạm tội do đối tượng tác động của tội phạm chưa đến mức
khởi điểm để truy cứu trách nhiệm hình sự như: cơng nhiên chiếm đoạt tài sản có
giá trị dưới năm trăm ngàn đồng; sản xuất, buôn bán hàng giả tương đương với số
lượng của hàng thật có giá trị dưới ba mươi triệu đồng; nhận hối lộ dưới năm trăm
ngàn đồng… nhưng người thực hiện hành vi vi phạm vẫn bị coi là phạm tội vì gây
ra hậu quả nghiêm trọng.
3.5 Ý nghĩa của cấu thành tội phạm
Cấu thành tội phạm là một trong những điều kiện quan trọng nhất để định tội danh
chính xác. Nếu hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể nào khơng có đầy đủ các dấu
hiệu cấu thành tội phạm được quy định trong pháp luật hình sự thì khơng thể đặt ra
vấn đề định tội danh.
Cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lý cần và đủ để truy cứu trách nhiệm người phạm
tội. Các cơ quan tư pháp hình sự khi có đầy đủ cơ sở pháp lý để truy cứu trách
nhiệm hình sự người phạm tội. Việc xác định đã có tội phạm được thực hiện chỉ có
ý nghĩa khi hành vi nguy hiểm cho xã hội của chủ thể có đầy đủ các dấu hiệu của
một cấu thành tội phạm tương ứng.

Cấu thành tội phạm là căn cứ để người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng
lựa chọn đúng loại và mức hình phạt đối với người thực hiện hành vi phạm tội.
Cấu thành tội phạm là yếu tố để đảm bảo cho các quyền con người và tự do của
cơng dân trong lĩnh vực tư pháp hình sự đồng thời hỗ trợ việc tuân thủ pháp luật và
củng cố trật tự pháp luật trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Việt Nam
hiện nay.

16


C.KẾT LUẬN
Cấu thành tội phạm và tội phạm là mảnh ghép vơ cùng quan trọng trong việc hồn
thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam. Những quy định ban hành về tội phạm và
cấu thành tội phạm đã phần nào làm cho xã hội được an toàn, trật tự hơn rất nhiều,
loại bỏ, trừng phạt những phần tử gây ảnh hưởng đến đất nước. Mỗi khi cần bổ
sung thêm một tội phạm mới, các nhà làm luật đều phải dựa trên các lý luận về cấu
thành tội phạm để phù hợp với từng tội danh cụ thể, đảm bảo xử lý đúng người
đúng tội. Mỗi bội luật được ban hành đều thể hiện rõ sự sáng suốt và nhân đạo dưới
sự lãnh đạo của Đảng.

17


D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu học tập môn “ Pháp luật đại cương”
2.Bài viết “Tội phạm là gì? Phân loại tội phạm theo Bộ luật Hình sự”
3.Bài viết “ Phân loại cấu thành tội phạm ? Ý nghĩa của cấu thành tội phạm ?”
Nông Thị Thùy Linh
4. Bài viết “ Cấu thành tội phạm là gì ? Cho ví dụ về cấu thành tội phạm ?” Bùi
Thị Ngọc Ánh

5. />6. />
18



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×