Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

đề tài ncuu khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.78 KB, 48 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Tư tưởng và quan điểm của Người về nhà nước của dân, do dân, vì dân vơ cùng
sâu sắc và là hạt nhân cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh. Nó chứa đựng những giá trị
to lớn về cả phương diện lý luận và thực tiễn đối với cách mạng Việt Nam; là cẩm
nang để thực hiện sự nghiệp đổi mới - với trọng tâm là xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa và mở rộng quan hệ quốc tế đi tới thành cơng.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân khơng
những có ý nghĩa lịch sử mà cịn cung cấp cho chúng ta những kinh nghiệm quý báu
để tiến hành cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng đội ngũ cán bộ cơng chức thực sự là
cơng bộc của dân, hồn thiện hệ thống pháp luật, đấu tranh loại bỏ những thói hư, tật
xấu trong bộ máy nhà nước, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ có hiệu quả
các quyền và lợi ích của nhân dân, đảm bảo cho nhà nước luôn giữ được bản chất
cách mạng, phục vụ đắc lực cho công cuộc đổi mới.
Xây dựng nhà nước pháp quyền là xu hướng tất yếu khách quan, nhưng đối với
chúng ta đây là nhiệm vụ hết sức mới mẻ. Trên thế giới cũng chưa có quốc gia, dân
tộc nào khẳng định đã xây dựng thành công nhà nước pháp quyền, mà chỉ đạt được
một số thành tựu nhất định. Mặt khác, khơng có một nhà nước pháp quyền với tư cách
là khuôn mẫu chung cho tất cả các quốc gia, dân tộc. Do vậy, cùng với việc tiếp thu
những giá trị có tính chất phổ biến về nhà nước pháp quyền mà nhân loại đã đạt được,
chúng ta cần nghiên cứu, kế thừa và vận dụng những giá trị tư tưởng Hồ chí Minh về
nhà nước và pháp luật để từng bước xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam có nhữngđặc trưng riêng, phù hợp với trìnhđộ phát triển kinh tế - xã hội ,
truyền thống văn hoá và bản sắc dân tộc Việt Nam.
Trong ý nghĩađó, việc thực hiệnđề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
của dân, do dân, vì dân và sự vận dụng của Đảng ta trong quá trình xây dựng


Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay ”có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn đối với quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:


Mục tiêu tổng quáct của đề tài là nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về
nhà nước của dân, do dân, vì dân, từ đó vận dụng vào quá trình xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Để đạt được mục tiêu tổng quát
nêu trên, đề tài tập trung giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau đây:
Một là, tổng quan tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Hai là, sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân
của Đảng ta trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay.
3.Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu:
Đề tài được thực hiện trên cơ sở các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và nhà nước ta về nhà nước của dân, do
dân, vì dân. Những quan điểm chỉ đạo, kết luận của Đảng ta từ quá trình tổng kết lý
luận và thực tiễn của 20 năm đổi mới đất nước.
Tác giả của đề tài sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau, bao gồm:
phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp hệ thống,
phương pháp quy nạp và diễn dịch, phương pháp so sánh và phương pháp xã hội học.
4. Kết cấu của đề tài :
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài
gồm 2 chương:
Chương 1: Tổng quan tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì
dân.
Chương 2: Đảng ta vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do
dân, vì dân trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay.


Chương 1: TỔNG QUANTƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC
CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN
1.1 CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


1.1.1Chủ nghĩa yêu nước
Việt Nam là quốc gia có ngàn năm văn hiến. Q trình dựng nước và giữ nước
đã hun đúc và phát triển ngày càng sâu sắc ý thức dân tộc về độc lập tự do. Tinh thần
yêu nước, ý thức tự tôn dân tộc trở thành động lực, sức mạnh truyền thống, đạo lý làm
người, niềm tự hào và là nhân tố hàng đầu trong hệ giá trị tinh thần Việt Nam. Chủ
nghĩa yêu nước của dân tộc có đặc điểm nổi bật là Tinh thần độc lập, tự chủ được
hình thành sớm và Tư tưởng gần dân, thân dân, nước gắn liền với nhà- làng- xã, nước
gắn liền với dân đậm nét. Giữ làng- giữ nước cũng là dựng làng - dựng nước. Dòng
chủ lưu này là sợi chỉ đỏ xuyên suốt các thời kỳ lịch sử.
Từ thế kỷ thứ II trước Công nguyên, Việt Nam bị các triều đại phong kiến
phương Bắc thay nhau đô hộ, sự tồn vong của một dân tộc bị thử thách suốt hơn nghìn
năm đã sản sinh ra tinh thần bất khuất, kiên cường, bền bỉ đấu tranh bảo tồn cuộc
sống, giữ gìn và phát huy tinh hoa văn hoá, quyết giành lại độc lập cho dân tộc. Chiến
thắng Bạch Đằng năm 938 mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử Việt Nam – kỷ nguyên
phát triển quốc gia phong kiến độc lập, thời kỳ xây dựng và bảo vệ nền độc lập dân
tộc. Dưới các triều Ngô (939-965), Đinh (968- 979), Tiền Lê (980 - 1009) Nhà nước
trung ương tập quyền được thiết lập. Tiếp đó, Việt Nam bước vào thời kỳ phục hưng
và phát triển (với quốc hiệu Đại Việt) dưới thời Lý -Trần -Lê sơ được biết đến như
một quốc gia thịnh vượng ở Châu Á. Thăng Long (nay là Hà Nội) cũng được chính
thức cơng nhận là Kinh đơ của Đại Việt với Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn vào năm
1010.
“Nhờ có ý chí độc lập và lịng khát khao tự do hơn là nhờ quân đông sức
mạnh, nước Nam đã thắng các đội xâm lược phong kiến hùng mạnh trong lịch sử”.


Song động lực của chủ nghĩa dân tộc vĩ đại đó khơng phải bất cứ lúc nào cũng có thể
khơi dậy và phát động mạnh mẽ được.
Bước sang đầu thế kỷ XIX, các nước tư bản phương Tây đã chuyển sang giai
đoạn đế quốc chủ nghĩa, càng ráo riết tìm kiếm thị trường, xâm chiếm thuộc địa.
Trong hoàn cảnh này, trước mưu đồ đế quốc Pháp thơn tính nước ta, nhiều trí sĩ Việt

Nam đã nhận thức được yêu cầu bảo vệ độc lập phải gắn liền với cải cách, đưa đất
nước thốt khỏi tình trạnh trì trệ của phương Đông nhưng bị triều Nguyễn khước từ,
đẩy đất nước vào tình trạng lạc hậu, bế tắc, từ đó Việt Nam đã trở thành một nửa
thuộc địa nửa phong kiến gần 100 năm (1958- 1945).
Trước cảnh nước mắt nhà tan đau thương của dân tộc, Nguyễn ái Quốc nhận lấy
trách nhiệm của lịch sử, ra đi tìm đường cứu nước. Sau này, Người viết:“Lúc đầu,
chính chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo
Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”.
Có thể nói rằng, chủ nghĩa yêu nước truyền thống dân tộc và sự bế tắc về tư
tưởng, đường lối cứu nước của các phong trào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX đã
thơi thúc Nguyễn ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân, cũng có nghĩa là thơi
thúc Người ra đi tìm một mơ hình Nhà nước, một mơ hình xã hội mới cho sự phát
triển của dân tộc Việt Nam, phù hợp với xu thế thời đại và có thể phúc đáp được lợi
ích của cả dân tộc.Sự tìm kiếm ấy là bước khởi đầu cho quá tình hình thành và phát
triển tư tưởng về một Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam.
Kế thừa truyền thống của dân tộc, Hồ Chí Minh đã phát triển chủ nghĩa yêu nước
truyền thống lên một tầm cao mới trên nền tảng của chủ nghĩa Mác Lênin, làm nên
triết lý của Người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới.
1.1.2Tinh hoa văn hoa văn hố nhân loại
1.1.2.1Tinh hoa văn hố phương Đơng
Trên hành trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tiếp xúc, thâu thái và tổng
hợp nhiều yếu tố văn hố của phương Đơng và phương Tây, tiếp xúc, thâu lược những
tinh hoa văn hoá của dân tộc và thời đại.


- Khổng Tử dạy “dân là gốc của xã hội”. Mạnh Tử cho rằng, trong nước dân là
quý nhất, tiếp theo là xã tắc, vua là nhẹ, nên ai được lịng dân thì được làm thiên tử:
“Dân vi q, xã tắc thứ chi, quân vi khinh. Thị cố đắc hồ khưu vi dân nhi Thiên Tử”
Hồ Chí Minh kế thừa và khai thác những yếu tố tích cực, hợp lý trong tư tưởng
chính trị của Nho gia, như triết lý nhân sinh lấy tu thân làm gốc, lấy hành động để lập

thân và có ý tưởng về một xã hội thái bình thịnh trị, thế giới đại đồng, đề cao văn hoá
và truyền thống hiếu học trong xã hội. Nhận thức giá trị tiến bộ của tư tưởng chính trị
Nho gia, Người đã sớm chỉ cho chúng ta thấy sức mạnh của lực lượng nhân dân trong
xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân “Gốc có vững cây mới vững bền, xây lầu
thắng lợi trên nền nhân dân”. Không chỉ thấy sức mạnh nhân dân như người xưa,
phát triển hơn, Người còn nhận thấy nhân dân là người chủ của quyền cai trị -quyền
lực thuộc về nhân dân.
-Tư tưởng chính trị của Mặc gia cũng được Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển.
Mặc gia chủ trương chính sách kiêm ái trong công cuộc cai trị, nhà cầm quyền
phải thương yêu nhân dân, tận tuỵ với nhân dân. Thuyết Kiêm ái hạn chế ở tính duy
tâm và phi giai cấp. Loại bỏ những hạn chế đó, tiếp thu tinh thần yêu thương nhân dân
của Mặc Gia, Người nói: “Chúng ta phải biết rằng cơ quan chính phủ, từ tồn quốc
cho đến các làng xã đều là cơng bộc của dân”, có nghĩa vừa là người lãnh đạo vừa là
người đầy tớ của nhân dân.
Hồ Chí Minh cũng kế thừa, tiếp thu những yếu tố tích cực của Phật giáo như tư
tưởng Từ bi bác ái, thương người như thể thương thân, khuyến thiện, trừ ác, tinh thần
bình đẳng, dân chủ, chống lại mọi sự phân biệt đẳng cấp, đề cao lao động, chống luời
biếng. Nguời viết: “Không được báo thù báo oán. Đối với những kẻ đi lầm đường lạc
lối, đồng bào ta cần phải chính sách khoan hồng ”
Về cách mạng Tân Hợi và Tư tưởng Tôn Trung Sơn:
Người đã tìm thấy trong chủ nghĩa Tam dân của Tơn Trung Sơn“Những điều
kiện thích hợp với điều kiện nước ta’’ đó là dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh


hạnh phúc, mà sau này, Người đã đưa vào đó nội dung xã hội chủ nghĩa thành tiêu chí
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc.
Những tinh hoa Nho giáo của Khổng tử, Thuận theo tự nhiên của Lão tử, Từ bi
bác ái của Phật giáo,…đã góp phần tích gộp, hình thành trong tư tưởng Hồ Chí Minh
về một Nhà nước vì con người, giải phóng con người. Nhà nước ra đời từ trong lòng
nhân dân, phục vụ và bảo vệ nhân dân, vì ấm no hạnh phúc của nhân dân.

1.1.2.2 Tinh hoa văn hố Phương Tây
Hồ Chí Minh tiếp nhận những giá trị văn hoá Pháp, văn hoá phương Tây qua
lăng kính đồn kết với các dân tộc thuộc địa và giải phóng. Xuất phát từ lợi ích dân
tộc, Nguyễn Ái Quốc dần dần mở rộng tầm nhìn về thế giới, về tiếp biến văn hoá, văn
minh tư sản. Người tìm thấy điểm chung trong các dịng văn hố đó là sự mưu cầu
hạnh phúc cho lồi người, mưu cầu phúc lợi cho xã hội. Người chắt lọc tư tưởng, học
thuyết đã có sắn theo phương thức kế thừa cái tốt, cái hợp lý và phát triển sáng tạo,
hiện thực hoá lên một tầm cao hơn về chất trong thực tiễn.
Nhà nước tư sản ra đời thay thế Nhà nước phong kiến độc đoán, chuyên quyền,
khẳng định mạnh mẽ những tư tưởng nhân đạo, các nguyên tắc tự do và bình đẳng của
cơng dân, thừa nhận những ngun tắc quyền con người khơng thể bị tước đoạt, tìm
tịi cơ cấu, hình thức, cơng cụ chống lại một cách khơng khoan nhượng sự tiếm quyền
và tình trạng vơ trách nhiệm của quyền lực đối với cá nhân và xã hội.
Hồ Chí Minh khơng xa lạ với học thuyết pháp quyền tư sản, đại diện là những
nhà tư tưỡng vĩ đại như: Nhà triết học khai sáng Pháp Montecquieu (1689- 1755), tác
giả của “Tinh thần pháp luật” (1748)- khi đưa ra quan điểm Tam quyền phân lập đã
luận giải về sự phân chia quyền lực Nhà nước, ở đó, mơ hình tối ưu là mỗi nhà nước
đều có ba quyền: Lập pháp - Hành pháp -Tư pháp. Người cũng đã trực tiếp tiếp xúc
với những Nhà nước tư sản Anh, Pháp, Mỹ. Đây chính là nguồn để Người nghiên cứu,
chắt lọc thành những tư tưởng tích gộp văn hố độc đáo của mình về nhà nước pháp
quyền với điều kiện Việt Nam.


Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ ngày 4 -7 - 1776 quan niệm cơ bản quyền con
người của cá nhân. Quan niệm về quyền cá nhân này, sau được gọi là quyền con
người và được Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ thể hiện một cách sinh động: “Mọi
người sinh ra đều có quyền bình đẳng và trong số những quyền khơng thể tước đoạt
đó có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Vận dụng tư tưởng Tuyên ngôn của Mỹ và Pháp, trong áng hùng văn “Tuyên
ngôn Độc lập” khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ, Hồ Chí Minh đã trích

dẫn hai câu nổi tiếng trong Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ và Tuyên ngôn dân quyền và
nhân quyền của Pháp, trước hết là để khẳng định cơ sở pháp lý và chính nghĩa của
Tun ngơn độc lập Việt Nam, nhân quyền về dân quyền, những tư tưởng lớn của thời
đại, cao đẹp, là vấn đề chung của con người, của loài người, và dân quyền cùng nhân
quyền của Việt Nam cũng khơng nằm ngồi vấn đề chung đó. Từ đó, quyền bình
đẳng, quyền sống, quyền sung sướng, và quyền tự do của Việt Nam và các dân tộc
trên thế giới phải được tôn trọng, thừa nhận và bảo vệ.
Sự chắt lọc và phát triển sáng tạo có thể thấy chế định Chủ tịch nước trong Hiến
pháp 1946 có một số điểm giống chế định Tổng thống trong Hiến Pháp Mỹ. Khẩu
hiệu: “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” mà Hồ Chí Minh đề ra năm 1945 là đỉnh cao
của sự chung đúc từ khát vọng muôn đời của dân tộc, cũng là sự phát triển những tư
tưởng “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” của cách mạng tư sản Pháp, tuyên ngôn Độc lập
Mỹ, tư tưởng Tam dân của Tơn Trung Sơn lên một trình độ mới mang tính giai cấp,
tính dân tộc và tính nhân dân trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh
đạo của Đảng tiên phong của giai cấp công nhân.
1.1.3 Lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin
“Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin khi sáng tạo và phát triển học
thuyết của mình, đã ln ln chỉ ra rằng học thuyết của các ông không phải là giáo
điều mà là sự chỉ đạo hành động”. Xuất phát từ nguyên tắc đó- nguyên tắc làm cho
chủ nghĩa Mác – Lênin khác với tất cả các học thuyết trước - sự cần thiết phảiphát
triển học thuyết Mác – Lênin ( trong đó có triết học). Trong bài: “Cương lĩnh của


chúng ta”, Lênin viết: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như một cái gì đã
xong xi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền
móng cho mơn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn
nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”.
“Chủ nghĩa Mác được Hồ Chí Minh tiếp biến với tính cách là tinh hoa văn hoá
nhân loại” làm phong phú thêm kho tàng của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Người tiếp cận
“Phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin là phép biện chứng duy vật kết quả tổng hợp và là linh hồn sống của lý luận trong của nghĩa Mác - Lênin (với các

nguyên tắc: thực tế, lịch sử - cụ thể, khách quan, chỉnh thể và phát triển), sử dụng
chúng làm công cụ để nhận thức, cải biến thế giới khách quan thông qua hoạt động
thực tiễn theo phương châm: quan điểm về đời sồng, về thực tiễn, phải là quan điểm
thứ nhất và cơ bản của lý luận nhận thức”, “Người dùng các phạm trù chủ nghĩa Mác,
chủ nghĩa Lênin, để chỉ trào lưu chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất
trong các trào lưu tư tưởng mácxít trên thế giới; đồng thời để thông qua các phạm trù
đó, Người chỉ ra tính vận động và tính liên tục, không liên tục của nội dung và
phương pháp tiếp cận đối với các quan điểm, học thuyết của chủ nghĩa Mác, để không
mắc phải bệnh giáo điều vốn thường nẩy sinh trong các loại chủ nghĩa, tư tưởng. Và
chính nhờ thế, Người cũng tiếp cận, tiếp biến nó trong mối liên hệ với tinh hoa văn
hố Đơng – Tây”.
Minh triết và sáng tạo, về mơ hình xây dựng Nhà nước, Hồ Chí Minh đã tiếp
biến và tổng hợp chính sách “ Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” của chủ nghĩa Tam dân
của Tôn Trung Sơn và Tư tuởng “tự do, bình đẳng, bác ái” của cách mạng tư sản
Pháp, Mỹ, đặc biệt tiếp biến tư tưởng chính quyền cơng nơng của dân, do dân và vì
dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản của Chủ nghĩa Lênin, để xây dựng nền dân
chủ, cộng hoà ở Việt Nam.
1.1.4 Nhân tố chủ quan
Trước hết, đó là minh triết trí tuệ và trái tim quảng đại tình u thương con người
của một nhà yêu nước vĩ đại, một chiến sỹ cộng sản kiên cường, một đại nhân- đại trí-


đại dũng Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới, đã
cống hiến trọn đời cho Tổ quốc – nhân dân – nhân loại cần lao vì Độc lập - Tự do –
Hanh phúc.
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã nhận lấy trách nhiệm lịch sử suy tìm một giải
pháp về con đường cứu nước giải phóng dân tộc, về hình thức Nhà nước phù hợp với
điều kiện lịch sử của dân tộc và xu thế phát triển tiến bộ của nhân loại. Nghiên cứu,
tiếp biến và phát triển biện chứng giá trị tư tưởng văn hố truyền thống trong đó cốt
lõi là chủ nghĩa dân tộc, ý chí độc lập và khát vọng tự do của tổ tiên, tinh hoa văn hoá

phương Đông, phương Tây, đặc biệt là học thuyết cách mạng của Mác và Lênin,
Người đã để lại di sản hệ thống quan điểm toàn diện, sâu sắcvà sáng tạo về học
thuyết cách mạng giải phóng dân tộc, vì độc lập tự do của Hồ Chí Minh.
1.2 Q TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

1.2.1Từ 1890 -1911: tiếp nhận chủ nghĩa yêu nước và hình thành ý chí yêu
nước
Đây là giai đoạn Nguyễn Sinh Cung được tiếp nhận các giá trị truyền thống tốt
đẹp của dân tộc là chủ nghĩa yêu nước – nhân văn Việt Nam trong mơi trường gia
đình, q hương. Người cũng được tiếp nhận tinh hoa văn hóa phương đơng qua nền
giáo dục Nho giáo Việt Nam và bắt đầu tiếp xúc với văn hóa phương Tây. Được giáo
dục chủ nghĩa yêu nước, nhưng phải chứng kiến sự khổ đau của một dân tộc nô lệ, sự
bất công của áp bức giai cấp cùng những cuộc đấu tranh bất khuất của cha ơng, đã
hình thành nên ý chí cứu nước, cứu dân của Nguyễn Tất Thành. Bằng trí tuệ và sự
mẫn cảm, Nguyễn Tất Thành đã quyết định đi theo con đường mới, tìm mẫu hình mới
cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và con người Việt Nam.
1.2.2 Thời kỳ 1911-1920: Đi tìm đường cứu nước
Đây là giai đoạn Nguyễn Tất Thành đi sang phương Tây, đến các châu lục khảo
sát, tìm hiểu một cách toàn diện mọi mặt đời sống của các dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hóa của nhân loại và nghiên cứu về các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới,
đặc biệt là cách mạng ở Anh, Pháp và Mỹ. Người đã rút ra những kết luận quan trọng


về nguồn gốc của áp bức dân tộc và giai cấp, đã nhận thấy tính khơng triệt để của
cách mạng dân chủ và các cuộc cách mạng này đã trở nên lạc hậu đối với lịch sử phát
triển của nhân loại.
Trên cơ sở cội nguồn văn hóa dân tộc và tinh hoa văn nhân loại, qua trải nghiệm
qua hoạt động thực tiễn, Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác-Lênin sau khi
Người tiếp xúc với Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, tìm ra con
đường của cách mạng Việt Nam là con đường cách mạng vô sản. Người đã biểu quyết

tán thành Quốc tế III, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành người cộng
sản.
1.2.3 Thời kỳ1920-1930: tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành
Đây là giai đoạn hình thành Người tham gia hoạt động thực tiễn trong phong
trào cộng sản quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới và bắt đầu tiến hành
tổ chức truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin. Đây là giai đoạn Hồ Chí Minh – thơng qua
các tác phẩm như Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Đường cách mệnh (1927),
Chính cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình vắn tắt
của Đảng cộng sản Việt Nam (1930) – đã khẳng định những luận điểm cơ bản về cách
mạng giải phóng dân tộc và cách mạng Việt Nam trong thời đại mới. Đó là những
quan điểm về cách mạng vơ sản đối với cơng cuộc giải phóng dân tộc, giai cấp, con
người trong thời đại mới đó là: “Chỉ có giải phóng giai cấp vơ sản thì mới giải phóng
được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng
sản và của cách mạng thế giới”; về phạm trù cách mạng giải phóng dân tộc, mối quan
hệ tương hỗ giữa cách mạng này với cách mạng vơ sản ở chính quốc và tính khơng
phụ thuộc của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa; về xây dựng Đảng theo chủ
nghĩa Mác-Lênin và đội ngũ cán bộ của Đảng; về tập hợp và xây dựng lực lượng cách
mạng; về đường lối cơ bản, mục tiêu, phương pháp, bước đi và quan hệ quốc tế của
cách mạng Việt Nam...
1.2.3 Thời kỳ 1930-1969: tư tưởng Hồ Chí Minh được thực hiện và phát
triển ở Việt Nam


1.2.3.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh gặp khó khăn thử thách (1930-1940)
Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối cách mạng vô sản qua các văn
kiện đầu tiên là Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình vắn tắt và Điều
lệ vắn tắt của Đảng là sự sáng tạo của Hồ Chí Minh khi vận dụng chủ nghĩa MácLênin và hoàn cảnh cụ thể Việt Nam. Tuy nhiên, do chưa nắm bắt được tình hình thực
tiễn và bị chi phối bởi các quan điểm tả khuynh của Quốc tế Cộng sản, Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ nhất (tháng 10-1930) đã chỉ trích, phê phán các
văn kiện trên xung quanh các vấn đề về mối quan hệ dân tộc – giai cấp, vấn đề mặt

trận thống nhất, tên Đảng và ra nghị quyết thủ tiêu các văn kiện này, đồng thời quyết
định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đơng Dương.
Nguyễn Ái Quốc vẫn kiên trì quan điểm của mình. Chỉ sau khi Đại hội VII Quốc
tế Cộng Sản ( 7-1935) phê phán khuynh hướng tả khuynh, biệt phái trong trào cộng
sản quốc tế và từ thực tiễn cách mạng nước ta, Đảng ta từng bước điều chỉnh và đề ra
những chủ trương theo quan điểm đúng đắn của Nguyễn Ái Quốc. Tháng 9-1939,
Quốc tế Cộng sản đã đồng ý để Nguyễn Ái Quốc về công tác ở Đông Dương. Ngày
28-1-1941, Người về đến Việt Nam và từ đây trực tiếp lãnh đạo cách mạng nước ta.
1.2.3.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh được thực hiện đúng đắn ở Việt Nam
Tháng 5-1941, Hồ Chí Minh triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương Đảng lần
thứ tám. Tại Hội nghị này, những quan điểm của Hồ Chí Minh về đường lối cách
mạng Việt Nam, chủ yếu là vấn đề giải quyết mối quan hệ dân tộc – giai cấp, đặt
quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy, đồn kết toàn dân trong xây dựng lực
lượng cách mạng, xây dựng mặt trận đoàn kết dân tộc và phương pháp cách mạng Hồ
Chí Minh được khẳng định. Với những quan điểm đúng đắn đó, Mặt trận Việt Minh
được Đảng ta tổ chức đã phát triển mạnh mẽ thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc
trên cả nước, đồng thời tạo ra cơ sở chính trị vững chắc cho sự ra đời của lực lượng
vũ trang nhân dân. Đó là những nhân tố căn bản đưa tới thành công của Cách mạng
Tháng Tám năm 1945.
1.2.3.3 Tư tưởng Hồ Chí Minh phát triển trong điều kiện mới


Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời,
nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập và chủ nghĩa xã hội, tư tưởng Hồ Chí Minh được
phát triển đáp ứng tình hình, nhiệm vụ cách mạng mới. Đó là những quan điểm của
Người về xây dựng Nhà nước dân chủ mới ở nước ta; về những vấn đề chính trị đối
nội, đối ngoại; về xây dựng nền kinh tế, văn hóa, con người mới... để bảo vệ thành
quả của Cách mạng Tháng Tám. Đó là những quan điểm vừa kháng chiến, vừa kiến
quốc, thực hiện toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến trường kỳ chống thực
dân Pháp xâm lược.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng là sự phát triển của tư tưởng Hồ
Chí Minh trong xây dựng Đảng ta qua Cương lĩnh, Điều lệ, tên mới của Đảng là Đảng
Lao động Việt Nam và về đường lối cách mạng Việt Nam từ cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đường lối đúng đắn đó
đã dẫn dắt nhân dân ta tới chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, giải phóng một nửa
đất nước và mở đầu q trình sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới.
Sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954, đất nước ta bị chia làm hai miền với hai
nhiệm vụ khác nhau. Tư tưởng Hồ Chí Minh được phát triển đáp ứng tình hình, nhiệm
vụ mới với việc hình thành đường lối vừa thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc vừa tiếp tục hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam
được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (1960). Những
quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh cách
mạng ở miền Nam đã dẫn dắt nhân dân ta giành thắng lợi trong sự nghiệp chống Mỹ,
cứu nước. Trước khi qua đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã để lại cho toàn
Đảng, toàn dân ta bản Di chúc thiêng liêng chỉ rõ sự tất thắng của sự nghiệp chống
Mỹ, cứu nước; tổng kết những bài học của cách mạng Việt Nam đã chỉ ra những
phương hướng lớn để xây dựng đất nước sau chiến tranh nhằm thực hiện cho được
mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạng, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới. Đó là di sản tư tưởng
vô cùng quý báu của Đảng và nhân dân ta. Thực hiện Di chúc của Người, Đảng ta đã


lãnh đạo nhân dân hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, thống
nhất Tổ quốc đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành và phát triển đáp ứng đòi hỏi của lịch
sử dân tộc và nhân loại trong thời đại mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, thắng lợi của
cách mạng Việt Nam và của cách mạng thế giới đã khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh
là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt
Nam. Đây cũng chính là tài sản tinh thần vô cùng quý giá của dân tộc ta và nhân loại.
1.3 NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC

CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN

Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ do Hồ Chí Minh khai sinh ngày 2/9/1945
chính là Nhà nước tiến bộ chưa từng có trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt
Nam, bởi vì nhà nước đó là nhà nước của dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Tư tưởng Nhà nước là của Nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân của Hồ Chí Minh
được xác lập và đề lên thành nguyên tắc Hiến định, thể hiện xuyên suốt trong các
Hiến pháp 1946, 1959, và Hiến pháp 1980, 1992 ( hiện nay).
1.3.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân
Nhà nước của dânlà: Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, về khối đại đoàn
kết toàn dân, nhân dân nắm mọi quyền bính.
Tư tưởng nhất quán của Hồ Chí Minh là tất cả mọi quyền lực trong Nhà nước và
trong xã hội làcủa dân,( không của một ai) và Nhà nước của nhân dân là một nhà
nước không thể tách rời với Nhà nước do dân.
Tư tưởng Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân được xác lập và đề lên thành
nguyên tắc Hiến định– Bộ luật cao nhất của Nhà nước, thể hiện xuyên suốt trong các
văn bản Hiến Pháp do Người soạn thảo : Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959 (và được
Đảng, Nhà nước ta tiếp tục thực hiện trong Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992 hiện
nay được bảo đảm thi hành bằng pháp luật.
Nguyên tắc Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, như vậy, trở thành một hình
thức tổ chức thiết chế chính trị, bao gồm thiết chế bộ máy nhà nước và xã hội, trong


đó, thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của mọi quyền bình đẳng, thơng qua một hệ
thống bầu cử tự do và các quy định về dân chủ và chuyên chính của Nhà nước.
Hiến pháp năm 1946 nêu rõ: “Nước Việt Nam là nước Dân chủ Cộng hoà. Tất cả
quyền bính trong nước là của tồn thể nhân dân Việt Nam, khơng phân biệt nịi
giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” ( Điều 1). “Tất cả các công dân Việt
Nam đều ngang quyền về mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hoá” ( Điều 6, Hiến
Pháp 1946) .

Hồ Chí Minh dùng khái niệm “uỷ thác” để nói đến việc Nhà nước là công cụ của
nhân dân và nhân dân sử dụng “cơng cụ” của mình bằng cách trao quyền lực của mình
cho Nhà nước. Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân - được thực hiện bằng phương
thức “uỷ thác” cho Nhà nước. Theo đó, quyền lực của Nhà nước từ Trung ương đến
địa phương, từ Chủ tịch nước đến cán bộ xã đều do nhân dân “uỷ thác” cho Nhà nước
bằng hình thức bầu cử trực tiếp và đại diện.
Tư tưởng Nhà nước của dân, tiếp tục được quy định tại Điều 4 Hiến pháp năm
1959: “Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đều thuộc về nhân
dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thơng qua Quốc hội và Hội đồng nhân
dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”.
Nhà nước của nhân dân, được thể hiện ở hai nội dung sau:
- Thứ nhất là,nhân dân thực hiện quyền làm chủ tập thể của mình – trước hết là
làm chủ chính trị và kinh tế, văn hoá, xã hội, xây dựng và bảo vệ đất nước: “Tất cả
cơng dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyềnvà
cơng cuộc kiến thiết tuỳ theo tài năng và đức hạnh của mình ( Điều 6 Hiến Pháp
1946). Điều 32 của Hiến Pháp 1946 cũng quy định: “Những việc quan hệ đến vận
mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phán quyết”.
Theo Hồ Chí Minh là vì: “Nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu quyền hạn đều của
dân”, “Chế độ ta là chế độ dân chủ”. Từ bản chấtcủa Nhà nước dân chủ mới – như
chính tên quốc hiệu của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nhân dân thực hiện


vị thế chủ nhân “ơng” của mình: là chủ và làm chủ, nhân dân thực hiện quyền bính
của mình.
Dân là chủ có nghĩa là xác định vị thế của dân: “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa
là Nhà nước do dân làm chủ, cịn dân làm chủ có nghĩa xác định vị thế, quyền và
nghĩa vụ công dân.Trong nhà nước dân chủ, với ý nghĩa đó, người dân được hưởng
mọi quyền là chủ và làm chủ của nhà nước mà họ là chủ nhân.
Vì những lý do trên, để thực hiện nguyên tắc Nhà nước là của nhân dân, một
ngày sau Tun ngơn độc lập, Hồ Chí Minh đã đề nghị Chính phủ tiến hành tổ chức

càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu”. Người nhấn
mạnh : Tổng tuyển cử là dịp để cho tồn dân tự do lựa chọn người có tài có đức để
gánh vác cơng việc nước nhà. Trong cuộc Tổng tuyển cử, hễ là người muốn lo việc
nước thì đều có quyền ra ứng cử, hễ là cơng dân thì đều có quyền bầu cử. Do tổng
tuyển cử mà bầu ra Quốc hội”. Nhân dân tham gia chính quyền bằng việc bầu cử
Quốc hội (dân chủ đại diện ), từ đó Quốc hội bầu ra Chính phủ.
Đối với Hồ Chí Minh, sự thành lập Quốc hội trong chính thể cộng hồ dân chủ
nhân dân ở Việt Nam khơng phải để hạn chế hay chia sẽ quyền lực với bất kỳ thế lực
nào, mà nhằm mục đích thống nhất ý chí dân tộc, phát huy khối đại đồn kết tồn dân
để giành và giữ nền độc lập dân tộc. Bởi nền độc lập là cơ sở và tiền đề để có nhà
nước của nhân dân, để nhân dân thực hiện quyền làm chủ nhà nước và làm chủ xã hội.
Tính đại diện nhân dân của Quốc hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh cũng cần được
hiểu là Quốc hội đại diện cho quyền lực của nhân dân. Từ tư tưởng và tính đại diện
của Quốc hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh phát triển đến tư tưởng và tính quyền lực nhà
nước tối cao của Quốc hội. Hiến pháp 1946 quy định: “Nghị viện nhân dân là cơ quan
cơ quyền lực cao nhất của Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà”. “Quyền lực tối cao”
hay “Quyền cao nhất của Quốc hội chính là Quyền lực nhà nước cao nhất” . Điều này
cũng được khẳng định trong Hiến pháp 1959: “Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà”.Trong các Hiến pháp 1980,
1990 cũng tái khẳng định vị trí quyền lực Nhà nước tối cao của Quốc hội.


Hồ Chí Minh tuyên bố trước Quốc hội rằng: Chính phủ này tỏ rõ cái tinh thần
liên hiệp, là một Chính phủ trọng thực tế và sẽ nỗ lực làm việc để tranh thủ quyền độc
lập và thống nhất lãnh thổ cùng xây dựng một Nước Việt Nam mới .Chính phủ này là
Chính phủ tồn quốc, có đủ nhân tài Trung, Nam,Bắc tham gia”.
Thứ hai là,Tư tưởng Hồ Chí Minh vềNhà nướccủa dân là dân phải kiểm sốt
nhà nước.
Vì Quốc hội cũng như Hội đồng nhân dân các cấp do dân bầu ra để hoạt động
chức nghiệp và công vụ, nên nhân dân phải kiểm sát, giám sát.

Cơ chế dân chủ này nhằm làm cho Quốc hội và Hội đồng nhân dân luôn luôn
được trong sạch, giữ được phẩm chất, năng lực hoạt động. Hồ Chí Minh nêu rõ: Nhân
dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những
đại biểu ấy tỏ ra khơng xứng đáng với sự tín nhiệm trước nhân dân. Các đại biểu phải
luôn luôn chứng tỏ được năng lực trước dân, nếu khơng họ sẽ bị mất tín nhiệm ở
nhiệm kỳ sau và ở nhiệm kỳ đó, họ vẫn bị sự giám sát, điều chỉnh bởi các quy chế
công vụ và luật pháp - do nhân dân giám sát,kiểm tra việc thực hiện.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhắc nhở Chính phủ và thành viên Chính phủ và bộ
máy cơng vụ:“Chính phủ ta là Chính phủ của nhân dân. Chính phủ rất mong đồng bào
giúp đỡ, đơn đốc, kiểm sốt và phê bình để làm trịn nhiệm vụ của mình là người đầy
tớ trung thành, tận tuỵ của nhân dân”.Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền kiểm sốt của
nhân dân trở thành nguyên tắc hoạt động đối với Bộ máy nhà nước, được quy định ở
Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959 và tiếp tục được Đảng, Nhà nước thể hiện tại Hiến
pháp 1980, 1992 và trong một chỉnh thể bao quát rộng khắp ở các bộ luật và Luật
công chức, các quy chế, quy định của tổ chức chính trị – xã hội. Điều 8 Hiến pháp
1992 quy định: “Các cơ quan Nhà nước, cán bộ, nhân viên phải tôn trọng nhân dân,
tận tuỵ phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân; lắng nghe ý kiến và chịu sự
giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống mọi sự quan liêu, hách dịch, cửa
quyền, tham nhũng ”.


Nhà nước, bằng thiết chế dân chủ và quyền lực nhà nưóc, có quyền và trách
nhiệm bảo đảm quyền làm chủ của dân, để cho nhân dân thực thi quyền làm chủ của
mình trong hệ thống quyền lực của xã hội. Quyền lực của người dân được đặt ở vị trí
tối thượng. Điều này có ý nghĩa thực tế nhắc nhỏ những người lãnh đạo, những đại
biểu của nhân dân làm đúng chức trách và vị thế của mình, khơng phải vì được giao
thẩm quyền lực cơng mà“cậy thế” với dân, không phải đứng trên dân mà “coi khinh”
dân, mà “quên rằng dân bầu mình ra để làm việc cho dân”.
1.3.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước do dân
Nhà nướcdo nhân dân: Là Nhà nước do nhân dân lập nên, giúp đỡ, ủng hộ và

đóng thuế. Quyền lực Nhà nước do nhân dân gắn liền với quyền lực nhà nước của
nhân dân.
Hồ Chí Minh nói :“Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là
chủ; Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân; Chính quyền từ xã đến
Chính phủ đều do dân cử ra; Đoàn thể từ trung ương đến xã đều do dân tổ chức nên”.
Có thể thấy rõ hơn quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ với một sự lý giải cô
động: “Công việc đổi mới, xây dưng là trách nhiệm của dân, quyền hành và lực lượng
đều ở nơi dân”.
Quan niệm trên đây của Hồ Chí Minh cho thấy nội dung Nhà nước được lập nên
là do nhân dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu của mình. Nhà nước do nhân dân ủng
hộ, giúp đõ tiền, tài, sức nhân dân, ủng hộ, đóng thuế và Nhà nước do nhân dân phê
bình, xây dựng, giúp đỡ.Thực tiễn cũng như lý luận cho thấy, để có thể làm chủ, nhân
dân không những phải tổ chức ra nhà nước - công cụ quyền lực của nhân dân thực
hiện đường lối, chính sách của một giai cấp, của đảng cầm quyền – mà nhân dân còn
phải xây dựng Nhà nước.
Hồ Chí Minh quan niệm rằng: Sự tồn tại của Nhà nước là để thực thi vai trò của
người cầm lái, là người dẫn đường, điều hành và quản lý xã hội chứ không phải là
người chèo thuyền. Nghĩa là Nhà nước đảm bảo cơ chế, chính sách và luật pháp để


các quyền và lợi ích cơng dân được đảm bảo trong xã hội, còn “người chèo thuyền”
hay lực lượng xây dựng xã hội là dân, thông qua sức dân, tiền dân, tài dân.
Vì vậy, Người yêu cầu: “Tất cả cơ quan Nhà nước phải dựa vào nhân dân,
liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm sốt của nhân dân”. “
Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”, nghĩa là khi các cơ
quan đó khơng đáp ứng được lợi ích và nguyện vọng chính đángcủa nhân dân thì nhân
dân có quyền bãi miễn nó.
Tư tưởng của Người khẳng định sự nghiệp cách mạng là của quần chúng: “Nhà
nước do dân bầu ra, nhưng nếu khơng có nhân dân thì chính phủ khơng đủ lực lượng,
ngược lại, nếu khơng có Chính phủ thì nhân dân khơng có ai dẫn đường”.

“Từ Chủ tịch Chính phủ cho đến nguời chạy giấy, người quét dọn trong một cơ
quan nhỏ, đều là những người ăn lương của dân, làm việc cho dân, phải được dân tin
cậy”. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh nhiệm vụ của những người cách
mạng là phải làm cho nhân dân tin, giác ngộ, nâng cao ý thức làm chủ, trách nhiệm
xây dựng nhà nước của mình.
Hồ Chí Minh khẳng định: “Việc nước là việc chung, mỗi người đều phải có trách
nhiệm ghé vai gánh vác một phần”. “Quyền lợi, quyền hạn bao giờ cũng đi đôi với
trách nhiệm, nghĩa vụ”.Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước mới Việt
Nam, nhân dân có đủ điều kiện, cả về pháp luật và thực tế để tham gia quản lý nhà
nước. Người nêu rõ quyền của dân, của nhà nước do dân lập ra và tham gia quản lý là
ở chỗ: Mọi công việc của bộ máy nhà nước trong việc quản lý xã hội đều thực hiện ý
chí của dân, vì cách mạng là sự nghiệp của quần chúng.
Mặt khác, để phát huy vai trò Nhà nước “do nhân dân” mà ra, cần xây dựng con
người mới – con người xã hội chủ nghĩa. Muốn xây dựng phải giải thích, thuyết phục,
giáo dục, vận động và tổ chức để nhân dân nhận thức được vai trò, quyền lợi và nghĩa
vụ cơng dân của mình “Đồng tình, đồng sức, đồng lịng, đồng minh” phát huy sức
mạnh mình trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế, văn hố, xã hội. Hồ Chí
Minh viết: “Trước hết là phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi người dân hiểu rằng:


Việc đó là lợi ích cho họ và là nhiệm vụ của họ, họ phải bàn bạc hăng hái làm cho kỳ
được”.
1.3.3 Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước vì dân
Thế nào là Nhà nước vì nhân dân
- Nhà nước vì nhândân: Là nhà nước phục vụ nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh, nhà nước vì dân là một nhà nước từ dân mà ra, vì tự do và
hạnh phúc của nhân dân và phục vụ. Nhà nước khơng có mục đích tự thân, khơng
phục vụ cho lợi ích của riêng bất cứ giai cấp, tầng lớp nào trong xã hội, mà đó là nhà
nước ra đời và hoạt động vì quyền lợi và lợi ích của tồn thể dân tộc Việt Nam, khơng
làm được điều đó thì khơng có lý do để Nhà nước tồn tại. Người viết: “Chúng ta giành

được tư do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rết, thì tự do,độc lập cũng khơng có
nghĩa lý gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc
đủ”.
Chúng ta cần thực hiện ngay:
Làm cho dân có ăn
Làm cho dân có mặc
Làm cho dân có chỗ ở
Làm cho dân có học hành
Cái mục đích chúng ta đi đến là 4 điều đó. Đi đến để dân nước ta xứng đáng với
tự do độc lập và giúp sức cho tự do độc lập.
Nhà nước ta là một Nhà nước dân chủ trên nền tảng tư tưởng Chủ nghĩa Mác Lênin trong thực tế và trong hành động. Ngay sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành
cơng, Hồ Chí Minh đã nêu bật sự khác biệt về bản chất và mục đích của Nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hồ với các loại hình nhà nước trước đó: “Chúng ta phải
hiểu rằng, các cơ quan Chính phủ từ tồn quốc gia cho đến các làng, đều là công bộc
của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như
trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật.
Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm.


Việc gì hại cho dân, ta phải hết sức tránh”.
Theo Hồ Chí Minh việc đáp ưng và thoả mãn nhu cầu, lợi ích của nhân dân là
tiêu chí số một để đánh giá hiệu quả, năng lực hoạt động của Nhà nước.
Muốn đạt được mục đích đó, thì nhà nước phải thực sự liêm khiết, trong sạch và
vững mạnh. Nên ngay từ những ngày đầu thành lập Nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà, Người đã chỉ ra nguy cơ các căn bệnh của một Đảng cầm quyền và của những
cán bộ, đảng viên, cơng chức có quyền trong bộ máy nhà nước, đó là: Trái phép, cậy
thế, hủ hố; tư túng; chia rẽ; kiêu ngạo. Người nhìn trước nguy cơ và vạch ra những tệ
nạn tham ơ, lãng phí, quan liêu và đặc biệt là cảnh cáo cán bộ: “tham ô, lãng phí, quan
liêu là kẻ thù của nhân dân, của bộ đội và của Chính phủ. Nó là kẻ thù nguy hiểm. Vì
nó khơng mang gươm, mang súng, nó nẳm trong tổ chức của ta để làm hỏng công

việc của ta”. Người xem đó là“giặc nội xâm”nguy hiểm và gây hậu quả nghiêm trọng,
khơng chỉ làm thất thốt tài sản, tiền của nhà nước, của nhân dân mà còn suy yếu tính
chiến đầu của Đảng, làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước và chế
độ ta.
Vì vậy, chống đặc quyền, đặc lợi, cải cách hành chính, khắc phục những tiêu cực
trong bộ máy nhà nước là yêu cầu và nhiệm vụ thường xuyên, đảm bảo cho cán bộ,
đảng viên, công chức nhà nước thực sự là công bộc của dân. Nếu nhận thức và làm
đúng tư cách đó thì mỗi cán bộ, cơng chức có thể phịng tránh, ngăn ngừa , khơng
phạm phải những lỗi lầm kể trên. Còn nếu “Ai đã phạm những lỗi lầm trên này, thì
phải hết sức sửa chữa, nếu khơng tự giác sửa chữa thì Chính phủ sẽ khơng khoan
dung”.
Từ mục tiêu đó, Hồ Chí Minh nhấn mạnh mọi đường lối, chính sách cơng đều
phải nhằm đưa lại quyền lợi cho nhân dân, “việc gì có lợi cho dân dù nhỏ cũng cố
gắng làm, việc gì có hại do dân dù nhỏ cũng cố gắng tránh”.
Cả cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng
ngời về một lòng trọn vẹn tận trung với nước, tận hiếu với dân, không ham muốn
quyền cao chức trọng, cơng danh lợi lộc cho riêng mình. Người nói:“Tơi chỉ có một


ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn được độc lập, dân ta
hoàn toàn được tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
“ Khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xơng pha sự hiểm nghèo là vì mục đích đó. Đến lúc nhờ quốc dân đồn kết, tranh được chính quyền, uỷ thác
cho tơi gánh việc Chính phủ, tôi lo lắng đêm ngày, nhẫn nhục cố gắng - cũng vì mục
đích đó”.
Ngay như chức vụ Chủ tịch nước của mình, Hồ Chí Minh cũng quan niệm là do
dân uỷ thác cho và như vậy phải phục vụ nhân dân, tức là làm đầy tớ cho nhân dân.
Người nói: “Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào. Bây giờ
phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào uỷ thác thì tơi phải gắng sức làm, cũng như
một người lính vân mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho
tôi lui, thì rất rất vui lịng lui. Riêng phân tơi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non

xanh, nước biếc để câu cá, trông hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ
chăn trâu, không dính líu gì với vịng danh lợi”.
Trong tư tưởng của Người, nhà nước là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân,
nhân dân làm chủ nên hoạt động của Nhà nước là vì quyền và lợi ích của nhân dân,
ngồi mục đích đó Nhà nước khơng có mục đích nào khác. Như vậy, Nhà nước trong
tư tưởng Hồ Chí Minh mang tính nhân văn sâu sắc.
Nhà nước vì dân là Nhà nước phục vụ quyền lợi của nhân dân.
Nhận thức và cảnh báo của Hồ Chí Minh về các nguy cơ, căn bệnh phát sinh
trong quá trình hoạt động của Bộ máy nhà nước và cách phòng tránh, khắc phục
chúng ngày nay cịn ngun giá trị và có tính thời sự, soi đường chỉ lối cho cuộc đấu
tranh chống tham nhũng, đảm bảo nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả và thực
sự phục vụ quyền lợi của dân, trở thành công bộc đầy tớ của dân.


Chương 2
ĐẢNG TA VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC
CỦA DÂN, DO DÂN, VÌDÂN TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Gắn liền với sự ra đời của nhà nước, nhà nước pháp quyền có từ thời cổ đại. Nhà
nước tư sản ra đời nhằm thay thế Nhà nước phong kiến độc đoán, chuyên quyền,
khẳng định mạnh mẽ những tư tưởng nhân đạo, các nguyên tắc tự do, bình đẳng của
cá nhân, thừa nhận những nguyên tắc quyền con người không thể bị tước đoạt. Từ sau
chiến tranh thế giới II đến nay, ván đề nhà nước pháp quyền được nghiên cứu ở nhiều
nước phương Tây, nguyên nhân chủ yếu là từ bài học lịch sử – khi Nhà nước phát xít
Đức, Nhật, Italy từ bỏ những nguyên tắc sơ đẳng của nhà nước pháp quyền, đã đưa
nhân loại vào cuộc chiến tranh tàn khốc nhất trong lịch sử. Việc nghiên cứu về nhà
nước pháp quyền ở các nước tư bản hiện nay là nhằm cải cách và hiện đại hố nhà

nước hiện có “theo tinh thần kinh doanh”. Giai cấp tư sản muốn một nhà nước mà ở
đó người dân nhiều lắm cũng chỉ được “chèo”, chứ khơng được “lái”. Điều đó chứng
tỏ sự tái ngộ của triết học phương Tây đối với vấn đề nhà nước pháp quyền đáp ứng
sự thay đổi nhanh chóng của thời đại ở cuói thế kỷ XX và trở thành vấn đề cơ bản của
phát triển triết học – chính trị hiện đại.
Mặc dù dưới những góc nhìn và quan niệm hết sức đa dạng, nhưng những nội
dung và chung nhất của nhà nước pháp quyền nói chung là: Nhà nước pháp quyền
( không phải là một chính thể nhà nước), mà là một hình thức tổ chức Nhà nước,
được thiết kế, hoạt động trên cơ sở pháp luật - mà thượng tôn là Hiến pháp, bản thân
Nhà nước cũng phải đặt mình trong khn khổ pháp luật; quyền lực nhà nước là sự
kết hợp giữa các quyền Lập pháp – Hành pháp – Tư pháp, có cơ chế kiểm soát quyền


lực, nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, pháp luật có tính khách quan, nhân đạo,
cơng bằng, tất cả vì lợi ích chính đáng của con người.
Tun ngơn độc lập 2-9-1945 và bản Hiến pháp 1946 – Bản Hiến pháp đầu tiên
trong lịch sử lập quốc Việt Nam đã thể hiện những căn cứ chính trị- pháp lý, nhân tố
biện chứng lịch sử và cụ thể sâu sắc, phản ánh những nhân tố Nhà nước pháp quyền
trong cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, nhằm xây dựng một Nhà nước hợp
pháp hợp hiến, một chính quyền mạnh mẽ, sáng suốt của nhân dân.
Tiêu chuẩn về một chính quyền mạnh, một chính quyền sáng suốt, một chính
quyền của nhân dân, do nhân dân thành lập và hoạt động vì nhân dân là một tư tưởng
nhất quán và liên tục, một quan niệm cốt lõi của nhà nước pháp quyền Việt Nam Dân
chủ Cộng hồ. Điều đó được thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất,Tổng tuyển cử tự do, hình thành một Nhà nước hợp pháp, một Nhà
nước của nhân dân Việt Nam, một Quốc hội đại đoàn kết, một Chính phủ liên hiệp
Ngày 3-9-1945, một ngày sau khi đọc Tun ngơn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã họp Chính phủ nêu rõ những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà, gồm 6 điểm, trong đó có việc: “Đề nghị Chính phủ tổ chức càng
sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thơng đầu phiềuđể có một Chính

phủ của nhân dân, do nhân dân thành lập”.
Chính sách bầu cử, ứng cử, vấn đề cốt tử của tính hợp hiến về hình thành Bộ
máy nhà nước, tự do hay hạn chế bình đẳng hay phân biệt, giả hay thật, áp đặt hay tự
do lựa chọn là những chuẩn mực của việc xem xét một bộ máy chính quyền thực sự
của nhân dân, do nhân thành lập hay không. Trong bài viết về ý nghĩa của Tổng tuyển,
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Tổng tuyển cử là dịp cho toàn thể quốc dân tự do
lựa chọn những người có tài, có đức để gánh cơng việc nước nhà.Trong cuộc tổng
tuyển cử, hễ là những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử, hễ là cơng
dân thì đều có quyền đi bầu cửdo Tổng tuyển cử mà tồn dân bầu ra Quốc hội, Quốc
hội sẽ cử Chính phủ. Chính phủ đó thật là Chính phủ của tồn dân”.


Với một Quốc hội được thành lập qua Tổng tuyển của, một Nhà nước hợp hiến
ra đời sẽ làm Nhà nuớc hợp pháp và quản lý hiệu lực, hiệu quả hơn, thay vì là một
Chính phủ lâm thời. Được sự uỷ nhiệm của Quốc hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trình
bày trước Quốc hội về sự thành lập Chính phủ: “Theo ý Quốc hội: Chính phủ mới
phải tỏ rõ tinh thần đại đồn kết, khơng phân biệt đảng phái, sau khi Quốc hội uỷ
nhiệm cho tổ chức Chính phủ, tơi đã thăm dị ý kiến của nhiều bậc lão thành đại biểu
các đoàn thể cùng nhiều nhân sĩ các giới. Tơi có thể tun bố trước Quốc hội rằng,
Chính phủ này tỏ rõ tinh thần quốc dân liên hiệp, Chính phủ này là một Chính phủ
tồn quốc, có đủ nhân tài Trung, Nam, Bắc tham gia”.
Sự thành lập bộ máy Nhà nước do dân cử bằng phổ thông đầu phiếu là một sự
kiện đầu tiên trong lịch sử Nhà nước của dân tộc ta.
Thứ hai,Quốc hội (từ năm 1946- 1959), gọi là Nghị viện nhân dân, được xác
định là một cơ quan cao nhất của đất nước ( Hiến pháp 1946)
Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, quyết định những vấn đề quan
trọng của quốc gia như ban hành Hiến pháp, xây dựng pháp luật, pháp lệnh, biểu
quyết ngân sách, chuẩn y các Hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngồi, bầu Chủ
tịch, Phó chủ tịch nước, biểu quyết danh sách Thủ tướng và các Bộ trưởng...
Hiến pháp quy định mối quan hệ giữa Quốc hội với Chính phủ như một cơ chế

phối hợp và kiểm sốt thơng qua các thể chế về quyền chất vấn của Quốc hội đối với
Chính phủ, quyền tín nhiệm hay khơng tín nhệm của Chủ tịch Chính phủ trước pháp
luật cũng như trách nhiệm của Thủ tướng về con đường chính trị của đất nước.
Thứ ba,Chính phủ (theo Hiến pháp 1946) là cơ quan Hành chính Nhà nước cao
nhất của quốc gia.
Chính phủ gồm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch và Nội các. Nội các có Thủ tuớng,
Bộ trưởng, Thứ trưởng và có thể có Phó thủ tướng. Chủ tịch nước có vai trị lớn trong
hoạt động lập pháp. Chủ tịch có quyền yêu cầu Nghị viện thảo luận lại các đạo luật đã
được Nghị viện biểu quyết; Chủ tịch nước chỉ đạo trực tiếp mọi hoạt động của Chính
phủ, thay mặt cho Quốc gia trong hoạt động đối ngoại, ký các hiệp ước... Chủ tịch


nước quy định cách thức tổ chức các toà án, bổ nhiệm thẩm phán; Chủ tịch nước điều
hành toàn bộ hệ thống Hành chính thơng qua Chính phủ, chủ yếu là thơng qua Nội các
của Chính phủ
Sau kháng chiến chống Pháp thắng lợi, miền Bắc được giải phóng, bằng Hiến
pháp1959, thiết chế Chủ tịch nước có một số thay đổi. Chủ tịch nước khơng đứng đầu
Chính phủ, nhưng khi nào cần thiết vẫn có thẩm quyền chủ toạ các phiên họp của
Chính phủ, việc điều hành trực tiếp Chính phủ là do Thủ tướng.
Thứ tư,Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu cơ quan Hành chính cao nhất
của đất nước, người nắm tập trung quyền hành pháp trong Bộ máy nhà nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa là Chủ tịch Chính phủ, vừa là Thủ tướng. Nói riêng
về chức danh Thủ tướng, thì trong giai đoạn đầu Thủ tuớng nằm trong Chính phủ, là
người đứng đầu Nội các (1946- 1959); trong giai đoạn sau 1959, Thủ tướng đứng đầu
Chính phủ, khơng có thiết chế Nội các nằm trong Chính phủ (1960 –1980).
Thiết chế đó cho tháy lịch sử nền hành chính Việt Nam có một vấn đề đáng
nghiên cứu là Chính phủ ln ln là cơ quan hành chính cao nhất của Nhà nước,
Chính phủ hoạt dộng trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật, là trung tâm lãnh đạo và điều
hành mọi hoạt động quản lý của các cơ quan nhà nước. Các Bộ trưởng là thành viên
của Chính phủ.

Thứ năm,Về tổ chức chính quyền địa phương, hình ảnh rõ nét nhất trong các
định chế lịch sử là Hội đồng nhân dân được xem như một cơ quan “tự quản” của
nhân dân, một cơ quan quyết định về những vấn đề có tính địa phương, do nhân dân
địa phương bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương.
Nguyên tắc về quyền hạn của Hội đồng nhân dân quyết định tất cả những vấn đề
có tính địa phương được ghi nhận trong Hiến pháp và nhiều Sắc lệnh.
Quyền hạn của Nhà nước Trung ương là thống nhất ( quản lý từ Trung ương đến
địa phương), Trung ương đưa ra một danh mục công việc bắt buộc Hội đồng nhân dân
xin phép Trung ương nếu chính quyền địa phương muốn thực hiện. Ngồi danh mục
đó, chính quyền địa phương tự quyết định mọi việc.


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×