Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Cắt vòi trứng cơ hội có phòng ngừa ung thư buồng trứng được không

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.03 KB, 6 trang )

Tổng Quan

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018

CẮT VỊI TRỨNG CƠ HỘI CĨ PHỊNG NGỪA
UNG THƯ BUỒNG TRỨNG ĐƯỢC KHƠNG?
Bùi Chí Thương*

TỔNG QUAN
Một khái niệm mới về vai trò của vòi trứng
trong ung thư buồng trứng
Buồng trứng là vị trí thường gặp nhất của
chẩn đoán khối ung thư vùng chậu, điều này
cùng với bằng chứng dịch tễ học cho rằng sinh
đẻ nhiều làm giảm đáng kể nguy cơ ung thư
buồng trứng, vì vậy mới có giả thuyết rụng
trứng “khơng ngừng” là ngun nhân của ung
thư buồng trứng và tập trung vào những thể vùi
vùng vỏ loại Muller (Mullerian-type cortical
inclusion cysts - Mullerian-CICs) nằm bên trong
buồng trứng như là nguồn gốc tiềm ẩn của bệnh.
Mullerian-CICs được giả thuyết xuất phát từ
chuyển sản của biểu mô bề mặt buồng trứng
(Ovarian surface epithelium - OSE) bị mắc kẹt
bên trong buồng trứng sau khi đã rụng trứng.
Mối liên quan của vòi trứng đến ung thư buồng
trứng đã được đề cập từ năm 1896 trong báo cáo
ca bệnh ung thư vịi trứng ngun phát có đặc
tính bệnh học rất giống ung thư buồng trứng.
Gần đây, khi phân tích giải phẫu bệnh vòi trứng,
trường hợp cắt 2 phần phụ dự phòng để giảm


nguy cơ ung thư buồng trứng (riskreducingbilateral
salpingo-oophorectomy
RRBSO) của những phụ nữ có đột biến gen
BRCA1/ BRCA2 cho thấy ung thư tiềm ẩn ở
đoạn xa (loa vòi) lên đến 5 – 15% và ung thư
trong biểu mơ vịi trứng dạng thanh dịch (Serous
tubal intraepithelial cancers- STICs) trong 1 – 6%
phụ nữ. Ngược lại, chỉ có 1 bài báo nghiên cứu
về buồng trứng cho thấy có 1 ca (1 của 28 phụ nữ
(3,5 %)) có thay đổi biểu mơ tiền ác tính(9,13).
Một nghiên cứu (Sectioning and Extensive
Examining of the Fimbria - SEE-FIM) mục đích
làm tối đa hóa phát hiện tiền tố gây ung thư
buồng trứng hay ung thư vòi trứng sớm bằng
* Đại học Y Dược TP.HCM
Tác giả liên lạc: TS.BS. Bùi Chí Thương

14

cách cắt và phân tích giải phẫu bệnh loa vòi.
Nghiên cứu này cho thấy vòi trứng liên quan
đến 70% phụ nữ ngẫu nhiên được chẩn đoán
ung thư buồng trứng hay ung thư thanh dịch
grade cao phúc mạc ngun phát HGSC (có hoặc
khơng có BRCA 1/2), bao gồm sự hiện diện của
STICs loa vòi trong 40 – 60% những bệnh nhân
này - cho thấy có một tỷ lệ gia tăng bệnh này khi
xem xét vịi trứng tồn diện hơn. Điều quan
trọng là không thấy trường hợp STICs nào ở
những bệnh nhân nữ bệnh lành tính hay bệnh lý

khơng phải phụ khoa. Từ cơ sở đó, người ta giả
thuyết rằng tân sinh vòi trứng là sang thương
nguyên phát trong HGSC và các sang thương
này lan đến buồng trứng và phúc mạc. Có giả
thuyết cho rằng STICs là các sang thương tiền tố
đối với HGSC là dấu hiệu của đột biến TP53
trong STICs và các ung thư buồng trứng và hoặc
phúc mạc đi kèm. Người ta cho rằng thậm chí
sang thương vịi trứng sớm cịn đi trước STICs
trong vịi trứng. Những nghiên cứu nổi bật nhất
về các tiền tố này là “dấu ấn p53”, được định
nghĩa như một sự tập trung ≥ 12 tế bào có hình
thái học bình thường, chủ yếu định vị tại đầu loa
vịi nhưng có tín hiệu miễn dịch p53 mạnh. Trên
90% STICs có dấu ấn p53; đã có báo cáo cho thấy
dấu ấn p53 liên quan trực tiếp hay gián tiếp với
STICs và dấu ấn p53 chia sẻ đột biến TP53 đồng
dạng với cả hai STICs và ung thư xâm lấn, tất cả
các điều trên cho thấy có mối liên hệ đơn dịng
của các mô này. Các dữ liệu này cùng với kết
quả từ nghiên cứu SEE-FIM, cho thấy vòi trứng
là một mục tiêu dự phòng rõ ràng nhất.
Các khuyến cáo hiện tại
Ở những người mang gen đột biến
BRCA1/2, RRBSO cho thấy có khả năng giảm
nguy cơ ung thư buồng trứng đến 80% và
giảm tỷ lệ tử vong toàn bộ 60% và khuyến cáo

ĐT: 0913124604


Email:


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018
thực hiện RRBSO để ngăn ngừa ung thư
buồng trứng trong dân số này(4). Phần lớn phụ
nữ nguy cơ cao cảm thấy có sức khỏe tốt về
thể chất và tinh thần sau RRBSO do giảm lo
lắng đáng kể về mối nguy cơ ung thư. Tuy
nhiên, không khuyến cáo RRBSO cho dân số
chung vì cắt buồng trứng làm tăng tử suất
chung, tăng bệnh mạch vành, đột quỵ, loãng
xương và ung thư đại trực tràng. Mặc dù
RRBSO cho thấy giảm tử suất chung ở dân số
nguy cơ cao, tuy nhiên nghiên cứu tiền cứu
với thời gian theo dõi ngắn (6 năm,
Domchek)(3) và nên theo dõi thời gian dài để
biết hiệu quả của phương pháp này. Cắt vịi
trứng 2 bên có tác dụng bảo vệ ngăn ngừa ung
thư buồng trứng trong dân số chung và có thể
cả trong dân số nguy cơ cao, trong khi tránh
được các nguy cơ cho các bệnh tật trên.
Những hiểu biết mới về vai trò của vòi trứng
trong bệnh sinh ung thư buồng trứng và nguy
cơ bệnh tật của RRBSO làm cho RRBSO không
phải là lựa chọn cho dân số chung mà chỉ
khuyến cáo thực hiện cắt vịi trứng trong phẫu
thuật phụ khoa thơng thường. Tháng 9/2010,
nhóm Ovarian Cancer Research team
(OVCARE) khuyến cáo đến tồn thể phẫu

thuật viên phụ khoa trong tỉnh British
Columbia (BC) Canada, khi mổ cho phụ nữ
trong dân số chung, họ nên xem xét: 1) cắt vòi
trứng 2 bên lúc cắt tử cung (kể cả khi giữ lại 2
buồng trứng), 2) nên cắt 2 vòi trứng lúc triệt
sản - gọi là cắt vòi trứng cơ hội (opportunistic
salpingectomy-OS). Hiệp hội ung thư phụ
khoa Canada năm 2011, đưa ra khuyến cáo
“bác sĩ nên bàn luận với bệnh nhân về lợi ích
và nguy cơ của cắt 2 vòi trứng lúc cắt tử cung
hay triệt sản”(15). Hai năm sau đó, Hiệp hội
ung thư phụ khoa Mỹ cũng có khuyến cáo
tương tự(14). Gần đây nhất ACOG đưa ra thơng
cáo báo chí ủng hộ khuyến cáo rằng “phẫu
thuật viên và bệnh nhân nên bàn luận về lợi
ích tiềm năng của cắt 2 vòi trứng lúc cắt tử
cung ở dân số có nguy cơ ung thư buồng
trứng nhưng khơng có cắt buồng trứng” và

Tổng Quan
“khi tư vấn về triệt sản qua nội soi, nhà lâm
sàng có thể thơng tin rằng cắt 2 vịi trứng có
thể được xem như là phương pháp ngừa thai
hiệu quả”. Các khuyến cáo này được thiết lập
bởi vì “cắt 2 vịi trứng dự phịng có thể giúp
cho nhà lâm sàng có cơ hội ngăn chặn ung thư
buồng trứng cho bệnh nhân của mình”.
Số lượng cắt tử cung và triệt sản ở Bắc Mỹ
Khoảng 430.000 ca cắt tử cung ở Mỹ và
41,000 ca ở Canada hàng năm. Ở Mỹ có khoảng

50 - 55% phụ nữ khi cắt tử cung có cắt ln 2
phần phụ, và số này là 45% ở Canada. Điều này
có nghĩa rằng xấp xỉ 240,000 phụ nữ có nguy cơ
ung thư buồng trứng chung phải cắt tử cung có
đủ tiêu chuẩn cắt 2 vịi trứng cơ hội để ngăn
chặn ung thư buồng trứng. Khoảng 350,000 và
25,000 ca triệt sản ở Mỹ và Canada hàng năm.
Một nữa ca triệt sản này xảy ra sau sinh, chủ yếu
lúc mổ lấy thai hay trong vòng 24 giờ sau sinh
ngả âm đạo. Cắt vòi trứng chưa được xem là
phương pháp triệt sản hàng đầu cho đến những
năm gần đây. Tuy nhiên cắt 2 vịi trứng là
phương pháp thích hợp đối với những người
triệt sản thất bại.
Những phụ nữ nguy cơ cao ung thư buồng
trứng (có đột biến gen BRCA1 và BRCA1) được
khuyên nên thực hiện RRBSO dự phòng một khi
họ đã có đủ con, dựa trên dữ liệu ngắn hạn cho
thấy có cải thiện tử suất trong dân số này(4). Tuy
nhiên, ảnh hưởng lâu dài của mãn kinh sớm trên
bệnh suất và tử suất của dân số này chưa được
thấu đáo. Vì lý do này mà có tranh luận về khởi
đầu cắt 2 vòi trứng tùy theo giai đoạn khi đã đủ
con, sau đó cắt 2 buồng trứng ở thời điểm gần
sát tuổi mãn kinh tự nhiên(2).
Cắt hai vòi trứng cơ hội trong dân số chung

Hiểu biết về OS
OS được nghiên cứu sâu tại nơi khởi đầu
British Columbia sau đó được chấp nhận và

nhân rộng ở Canada. Tỷ lệ cắt tử cung kèm với
OS tăng từ 8% năm 2008 đến 33% vào năm 2011
và tỷ lệ triệt sản bằng cách cắt 2 vòi trứng tăng từ
0,5% đến 33% ở cùng thời điểm. Đến năm 2013,

15


Tổng Quan
75% cắt tử cung và 2 vòi trứng và 48% triệt sản
cắt cả 2 vòi trứng, trong khi phần cịn lại của
Canada tăng ít hơn. Khái niệm OS ít được biết và
chỉ một tỷ lệ nhỏ OS được thực hiện tại Mỹ, tỷ lệ
này sẽ tăng lên khi khuyến cáo ACOG 2015 ra
đời(1). Một số thăm dò đánh giá hành vi của thầy
thuốc về OS. Một nghiên cứu với các bác sĩ nội
trú sản phụ khoa Mỹ cho thấy 54% họ thực hiện
OS khi cắt tử cung, và 46% cịn lại họ khơng tin
rằng có bất kỳ lợi ích nào. Trong khi 58% bác sĩ
gia đình cho rằng OS là phương pháp triệt sản
hiệu quả nhất đối với phụ nữ sau 35 tuổi có triệt
sản trước đó thất bại hay có bệnh lý của vịi
trứng(7). Cuối cùng có một nghiên cứu ở Ailen
cho thấy 90% bác sĩ sản phụ khoa xem xét OS lúc
cắt tử cung ngả bụng và 73% OS lúc triệt sản(8).

An toàn
Tại British Columbia cho thấy nếu OS lúc cắt
tử cung và OS lúc triệt sản sẽ làm tăng thời gian
mổ tương ứng là 16 và 10 phút, khảo sát ở đây

cho thấy khơng có tăng nguy cơ của OS khi xét
về số ngày nằm viện hoặc tái nhập viện hay
truyền máu. Nghiên cứu trên cũng cho thấy OS
có thể thực hiện bằng mổ mở, nội soi hay ngả âm
đạo. OS qua cắt tử cung ngả âm đạo có thời gian
nằm viện ngắn hơn và nguy cơ tái nhập viện
thấp hơn so với mổ mở (OR = 0,51, 95% CI 0,37,
0,70)(12). OS cũng loại bỏ nguy cơ ứ dịch vòi trứng
ở trường hợp triệt sản hay bị thai ngoài tử cung đây là một ưu điểm so với triệt sản truyền thống
như cắt vòi trứng một phần, thắt hay đốt vòi
trứng. Ứ dịch vòi trứng là biến chứng thường
gặp nhất (35,5%) sau cắt tử cung không kèm OS
và 7,8% phải mổ lại vì lý do này. Những biến
chứng khác sau cắt tử cung mà không kèm OS
bao gồm PID, viêm vòi trứng, u vòi trứng hay sa
vòi trứng - điều trị triệt để cho những trường
hợp này là cắt vịi trứng và có thể tránh bằng
cách OS tại thời điểm cắt tử cung và triệt sản.
Mối quan tâm khác về OS lúc triệt sản thì khơng
thể phục hồi vịi trứng nếu sau đó bệnh nhân
muốn có thêm con. Những khuyến cáo nối vòi

16

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018
trứng sau triệt sản so với IVF thay đổi nhiều tùy
theo bảo hiểm và y tế cơng cộng ở đó và cũng
tùy thuộc vào khả năng của phẫu thuật viên nối
vòi trứng vi phẫu. Chi phí cho nối vịi trứng có
thể tương đương IVF nhưng khi nối vịi trứng

thành cơng cũng phải cần nhiều bước mới có thể
thụ thai so với chu kỳ đơn của IVF. Ở những
quốc gia bảo hiểm chi trả hay hỗ trợ IVF hoặc
phụ nữ có các yếu tố đi kèm làm khó có thai như
dự trũ buồng trứng kém, tinh trùng yếu, thì IVF
là lựa chọn đầu tay, vì vậy ý tưởng cho bệnh
nhân khác hơn đối với phụ nữ thực hiện OS. Khi
cắt vòi trứng được thực hiện đúng sẽ không làm
giảm cung cấp máu ni buồng trứng, do đó
khơng gây ảnh hưởng trên chức năng buồng
trứng (sản xuất nội tiết, rụng trứng, tuổi mãn
kinh…). Một nghiên cứu tiền cứu cho thấy cắt tử
cung có giảm chức năng buồng trứng và mãn
kinh sớm hơn. Một nghiên cứu 160 phụ nữ tiền
mãn kinh được nội soi cắt tử cung tồn phần có
hoặc khơng kèm cắt 2 vịi trứng cho thấy có sự
khác biệt nhỏ về hình ảnh siêu âm buồng trứng
và các chỉ số nội tiết so với mức cơ bản ở cả 2
nhóm chứ khơng có sự khác biệt giữa 2 nhóm.
Mức độ Anti-Mullerian hormone (AMH) hơi
thấp hơn ở cả 2 nhóm (giống trong nghiên cứu
giảm chức năng buồng trứng sau cắt tử cung)
nhưng khi có OS thì khơng ảnh hưởng xấu thêm.
Khơng có sự khác biệt về nội tiết giữa các nhóm
trong một nghiên cứu RCT gần đây về ảnh
hưởng ngắn hạn của cắt vòi trứng lúc nội soi cắt
tử cung trên dự trữ buồng trứng ở 30 phụ nữ
tiền mãn kinh, nghiên cứu này cũng cho kết quả
về AMH sau mổ tương tự như nghiên cứu trên(6).
Các ảnh hưởng lâu dài như thời điểm mãn kinh,

chưa được phân tích một cách hệ thống sau cắt
tử cung có kèm OS hay triệt sản bằng OS. Cần
nhiều nghiên cứu hơn nữa trả lời câu hỏi này,
bởi vì nếu OS làm giảm tuổi mãn kinh, phải cân
nhắc xem lợi ích từ giảm tử suất do ung thư
buồng trứng có bù đắp lại việc tăng tử suất do


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018
tất cả nguyên nhân do mãn kinh sớm hơn hay
không, mặc dù các dữ liệu ngắn hạn cho thấy
khơng có sự khác biệt về nội tiết giữa cắt tử cung
có kèm hay khơng kèm OS.
Hiệu quả
Từ lâu chúng ta đã có bằng chứng dịch tễ
học ủng hộ tầm quan trọng của vòi trứng trong
sinh bệnh học của ung thư buồng trứng thơng
qua việc cột vịi trứng làm giảm nguy cơ ung thư
này đến 29% nhưng có sự thay đổi về mức độ
khác nhau tùy theo mô học, trong đó giảm cao
nhất đối với ENOC (52%), tiếp theo là CCOC
(48%), và 20% cho HGSC. Có dữ liệu khích lệ về
triệt sản bằng cách cắt vịi trứng tồn phần, một
phần hay cắt loa vòi. Các tác giả từ Rochester cho
thấy triệt sản cắt vòi trứng làm giảm 60% nguy
cơ ung thư buồng trứng so với nhóm khơng triệt
sản hay triệt sản khơng cắt 2 vịi trứng (OR =
0,36, 95 % CI 0,13, 1,02)(10). Các nhà nghiên cứu
Đan Mạch cho thấy cắt 2 vòi trứng làm giảm
nguy cơ ung thư buồng trứng 42% (OR = 0,58, 95

% CI 0,36, 0,95)(11). Một nghiên cứu hồi cứu lớn
nhất và gần đây nhất tại Thụy Điển trên 5,5 triệu
phụ nữ và 30.000 ca ung thư buồng trứng(5) cho
thấy cắt tử cung và 2 phần phụ gần như chấm
dứt nguy cơ ung thư buồng trứng (HR = 0,06,
95% CI 0,03 – 0,12). Cắt vòi trứng 1 bên làm giảm
nguy cơ 29% (HR = 0,71, 95 % CI 0,56 – 0,91), cắt
2 vòi trứng làm giảm 65 % nguy cơ (HR = 0,35, 95
% CI 0,17- 0,73). Các tác giả này cho rằng cắt tử
cung đơn thuần cũng giảm nguy cơ ung thư
buồng trứng (HR = 0,79, 95% CI 0,70 – 0,89)(2).
Nghiên cứu đoàn hệ những phụ nữ được cắt 2
vịi trứng có cỡ mẫu nhỏ (n = 3051) vì lúc đó cắt 2
vịi trứng là phẫu thuật khơng phổ biến và
khơng vì mục đích dự phịng. Cắt vịi trứng lúc
đó chủ yếu vì ứ dịch vịi trứng, nhiễm trùng (chủ
yếu PID), thai ngồi tử cung và lạc nội mạc tử
cung- tất cả các bệnh lý này gây ra phản ứng
viêm đáng kể. Chúng ta biết rằng PID và lạc nội
mạc tử cung là các yếu tố nguy cơ gây ung thư
buồng trứng, điều đó cho thấy những phụ nữ
được cắt 2 vòi trứng trong nghiên cứu hồi cứu
này sẵn có nguy cơ ung thư buồng trứng. Cũng

Tổng Quan
có thể việc cắt 2 vịi trứng vì mục đích dự phịng
có thể được thảo luận kỹ hơn là cắt do chỉ định
khác vì lúc đó phẫu thuật viên sẽ cắt cẩn thận
toàn bộ đoạn xa của vịi trứng. Vì cả 2 lý do này,
OS có vai trò bảo vệ chống lại ung thư buồng

trứng hơn là kết quả cắt 2 vòi trứng được
Falconer đề nghị. Họ cũng cho thấy cắt 2 vòi
trứng làm giảm nguy cơ so với những phụ nữ
khơng có bất kỳ phẫu thuật phụ khoa nào. Bởi vì
những khuyến cáo cho thấy OS với cắt tử cung
hay triệt sản bằng cách cắt 2 vòi trứng và cắt tử
cung đơn thuần kèm cột 2 vòi trứng, cả 2 đều
giảm nguy cơ ung thư buồng trứng.
Khả thi
Có 590,000 phụ nữ cắt tử cung đơn thuần và
triệt sản hàng năm ở Mỹ và Canada cho thấy OS
có tính khả thi. Đáng lẽ phải hiểu chính xác về
hiệu quả của OS trong dự phòng ung thư buồng
trứng cũng như dữ liệu lâu dài của OS trên nguy
cơ bệnh tật, tuy nhiên hiện nay dữ liệu này chưa
có, vì vậy chúng ta dùng mơ hình
decisionanalytic model để ước lượng tính khả thi
của OS để ngăn ngừa ung thư buồng trứng trong
dân số chung. Mỗi OS, BSO, cắt tử cung và triệt
sản lần lượt giúp giảm nguy cơ ung thư buồng
trứng 50%, 90%, 20%, và 30%, vì vậy OS có tính
khả thi tốt. Mơ hình phân tích này cho thấy cắt
tử cung kèm OS có tính khả thi thấp hơn cắt tử
cung đơn thuần hoặc kèm với BSO
(bilateralsalpingo-oophorectomy) và triệt sản
bằng OS khả thi hơn cột 2 vòi trứng. Mơ hình
phân tích cho thấy số ca cắt tử cung với OS cần
để ngăn ngừa 1 ung thư buồng trứng là 273 và
NNT để triệt sản bằng cách cắt 2 vòi trứng là 366,
tương đương với trường hợp cần tiêm vaccine

HPV để ngừa 1 ca ung thư cổ tử cung là 324(3).

KẾT LUẬN
Hiểu biết của chúng ta về bệnh sinh ung thư
buồng trứng đã cải thiện đáng kể từ giả thuyết
HGSC có thể bắt nguồn từ vịi trứng, kết quả là
cách tiếp cận ngăn ngừa ung thư buồng trứng đã
thay đổi căn bản cho phụ nữ trong dân số chung
và có thách thức đối với những phụ nữ nguy cơ

17


Tổng Quan
cao. Đối với phụ nữ nguy cơ ung thư buồng
trứng, OS cho thấy là một tiếp cận đầy hứa hẹn
để giảm tần suất và tử suất của ung thư buồng
trứng và khuyến cáo lồng ghép OS trong thực
hành lâm sàng hàng ngày. Trong khi tính hiệu
quả và an tồn rất hứa hẹn, bên cạnh cịn có câu
hỏi chưa được trả lời, đó là OS có ảnh hưởng
trên chức năng buồng trứng và có làm tiến
nhanh đến mãn kinh hay khơng. Ngồi ra, sự
tương tác của OS với các yếu tố giảm nguy cơ
khác như thuốc viên ngừa thai phối hợp cũng
cần được xác định. OS còn là một chiến lược
ngăn ngừa ung thư buồng trứng cho những phụ
nữ trong dân số chung có phẫu thuật phụ khoa
thường quy và ngày càng được thực hiện qua
ngả âm đạo, nội soi và robot. Tuy nhiên, chúng

ta không nên can thiệp ngoại khoa hay thay đổi
đướng mổ chỉ vì mục đích cắt vòi trứng. Nên tư
vấn RRBSO từ 35 tuổi đối với phụ nữ có đột biến
gen BRCA 1/2, để hạn chế tác dụng gây hại của
mãn kinh sớm, họ có thể chỉ cắt 2 vòi trứng đơn
thuần hoặc tiếp cận theo từng giai đoạn: cắt 2 vịi
trứng ban đầu, sau đó cắt 2 buồng trứng sát thời
điểm mãn kinh tự nhiên. Mặc dù phần lớn ung
thư buồng trứng phối hợp BRCA có thể bắt
nguồn từ vịi trứng, có 4 lý do tại sao nên cắt 2
buồng trứng cùng lúc cắt 2 vịi trứng hoặc cắt
muộn sau đó: (1) một số ung thư buồng trứng có
vẻ bắt nguồn từ buồng trứng, (2) cắt buồng
trứng trước mãn kinh làm giảm 50% nguy cơ
ung thư vú ở dân số nguy cơ cao, (3) thậm chí có
tăng bệnh suất do mãn kinh phẫu thuật, vẫn cịn
lợi ích do giảm tử suất với tất cả các bệnh phối
hợp với RRBSO ở phụ nữ nguy cơ cao, (4) cắt 2
vịi trứng có thể giảm nguy cơ ung thư buồng
trứng, nhưng mức độ bảo vệ chưa được biết. Vì
lý do này, chúng ta khơng nên khun cắt 2 vòi
trứng đơn thuần hay tiếp cận theo giai đoạn thời
gian cho phụ nữ nguy cơ cao còn trẻ (BRCA1/ 2),
mà cắt 2 phần phụ khi bệnh nhân đủ con vẫn
được xem là chuẩn mực đối với dân số nguy cao
này. Tuy nhiên cắt 2 vịi trứng vẫn tốt hơn là
khơng can thiệp gì đối với những phụ nữ được

18


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018
tư vấn tốt và chưa có kế hoạch cắt 2 buồng trứng.
Trước khi cắt 2 vòi trứng kèm hoặc khơng kèm
cắt 2 buồng trứng sau đó cho phụ nữ nguy cơ
cao, chúng ta cần hiểu rằng phương pháp này
hiệu quả và khơng loại bỏ vai trị và lợi ích đã
được chứng minh của RRBSO. Điều này đòi hỏi
một nỗ lực quốc tế trong nhiều năm để thu đủ
mẫu số lượng lớn, chủ yếu thông qua dữ liệu
đăng ký khám chữa bệnh chứ không thể thông
qua các RCT để so sánh kết cục giữa cắt 2 vịi
trứng và RRBSO. Tóm lại OS là một can thiệp an
toàn trong ngắn hạn, được thực hiện cùng lúc
với cắt tử cung hoặc triệt sản. OS có khả năng
giảm tỷ lệ và tử suất do ung thư buồng trứng,
OS cũng có vai trị quan trọng ở phụ nữ có đột
biến BRCA, nhưng họ khơng muốn phẫu thuật
giảm thiểu nguy cơ theo quy chuẩn (cắt phần
phụ 2 bên) lúc trẻ tuổi. Chúng ta vẫn cần phải
đánh giá tính an tồn và hiệu quả dài hạn để ủng
hộ tiếp tục quan điểm can thiệp này trong dân số
chung cũng như ở phụ nữ nguy cơ cao.
CÁC CHỮ VIẾT TẮT
HGSC High Grade Serous ovarian Ung thư thanh dịch
cancer
grade cao
LGSC Low Grade Serous ovarian Ung thư thanh dịch
cancer
grade thấp
ENOC

Endometrioid ovarian
Ung thư dạng lạc nội
cancer
mạc tử cung
CCOC
Clear cell ovarian cancer Ung thư tế bào sáng
BC
British Columbia
RRBSO
Risk Reducing bilateral
Cắt 2 phần phụ dự
salpingo-oophorectomy
phòng
OS
Opportunistic
Cắt vòi trứng cơ hội
Salpingectomy
BSO
Bilateral salpingoCắt 2 phần phụ
oophorectomy
STICs Serous tubal intraepithelial Ung thư trong biểu
cancers
mơ vịi trứng dạng
thanh dịch

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.


3.

American College of Obstetrics & Gynecology (2015).
Committee opinion no. 620: salpingectomy for ovarian cancer
prevention. Obstet Gynecol; 125(1): 279–81.
Anderson CK, Wallace S, Guiahi M, Sheeder J, Behbakht K,
Spillman MA (2013). Riskreducing salpingectomy as
preventative strategy for pelvic serous cancer. Int J Gynecol
Cancer; 23(3): 417–21.
Brisson M, Van de Velde N, De Wals P, Boily MC (2007).
Estimating the number needed to vaccinate to prevent diseases


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018
and death related to human papillomavirus infection. CMAJ;
177(5): 464–8.
4. Domchek SM, Friebel TM, Singer CF, Evans DG, Lynch HT,
Isaacs C et al (2010). Association of risk-reducing surgery in
BRCA1 or BRCA2 mutation carriers with cancer risk and
mortality. JAMA; 304(9): 967–75.
5. Falconer H, Yin L, Gronberg H, Altman D (2015). Ovarian
cancer risk after salpingectomy: a nationwide population-based
study. J Natl Cancer Inst. DOI: 10.1093/jnci/dju410.
6. Findley AD, Siedhoff MT, Hobbs KA, Steege JF, Carey ET,
McCall CA et al (2013). Shortterm effects of salpingectomy
during laparoscopic hysterectomy on ovarian reserve: a pilot
randomized controlled trial. Fertil Steril. 100(6): 1704–8.
7. Gill SE, Mills BB (2013). Physician opinions regarding elective
bilateral salpingectomy with hysterectomy and for sterilization. J
Minim Invasive Gynecol; 20(4): 517–21.

8. Kamran MW, Vaughan D, Crosby D, Wahab NA, Saadeh FA,
Gleeson N (2013). Opportunistic and interventional
salpingectomy in women at risk: a strategy for preventing pelvic
serous cancer (PSC). Eur J Obstet Gynecol Reprod Biol. 170(1): 251–4.
9. Leeper K, Garcia R, Swisher E, Goff B, Greer B, Paley P (2002).
Pathologic findings in prophylactic oophorectomy specimens in
high-risk women. Gynecol Oncol; 87(1): 52–6.
10. Lessard-Anderson CR, Handlogten KS, Molitor RJ, Dowdy SC,
Cliby WA, Weaver AL et al (2014). Effect of tubal sterilization
technique on risk of serous epithelial ovarian and primary
peritoneal carcinoma. Gynecol Oncol; 135(3): 423–7.

Tổng Quan
11. Madsen C, Baandrup L, Dehlendorff C, Kjaer SK (2015). Tubal
ligation and salpingectomy and the risk of epithelial ovarian
cancer and borderline ovarian tumors: a nationwide case–
control study. Acta Obstet Gynecol Scand. 94(1): 86–94.
12. McAlpine JN, Hanley GE, Woo MM, Tone AA, Rozenberg N,
Swenerton KD et al (2014). Opportunistic salpingectomy:
uptake, risks, and complications of a regional initiative for ovarian
cancer prevention. Am J Obstet Gynecol; 210(5): 471 e1–11.
13. Powell CB, Chen LM, McLennan J, Crawford B, Zaloudek C,
Rabban JT et al (2011). Risk-reducing salpingo-oophorectomy
(RRSO) in BRCA mutation carriers: experience with a
consecutive series of 111 patients using a standardized surgicalpathological protocol. Int J Gynecol Cancer; 21(5): 846–51.
14. Society of Gynecologic Oncology (2013). SGO Clinical Practice
Statement: Salpingectomy for Ovarian Cancer.
15. The Society of Gynecologic Oncology of Canada (2011). GOC
Statement regarding salpingectomy and ovarian cancer
prevention.

/>_final_en.pdf.

Ngày nhận bài báo:

24/05/2018

Ngày bài báo được đăng:

10/10/2018

19



×