Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Đổi mới đề thi môn Ngữ văn tuyển sinh vào trường trung học phổ thông tại thành phố Hồ Chí Minh theo hướng đánh giá năng lực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (762.85 KB, 13 trang )

ThS. TRẦN TIẾN
THÀNH

ThS. NGUYỄN
PHƢỚC BẢO
KHÔI

- Sở Giáo dục và Đào tạo
TP. Hồ Chí Minh
Điện thoại: 0909799184
Email:

m
- Khoa Ngữ văn, Trƣờng
Đại học Sƣ phạm TP. Hồ
Chí Minh
Điện thoại: 0903629314
Email:


ĐỔI MỚI ĐỀ THI
MÔN NGỮ VĂN
TUYỂN SINH VÀO
TRƢỜNG TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG
TẠI THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH
THEO
HƢỚNG
ĐÁNH GIÁ NĂNG
LỰC



TĨM TẮT
Tính chất quan trọng của kì thi tuyển sinh vào các trƣờng Trung học phổ thông
cùng với yêu cầu đổi mới toàn diện giáo dục sau năm 2015 đặt ra vấn đề phải có những
biến chuyển phù hợp ngay từ thời điểm hiện tại. Xác định đổi mới thi cử là khâu quan
trọng, mang tính đột phá nhằm tác động mạnh mẽ và tích cực đến hoạt động dạy học ở
bậc phổ thông, bài viết đề xuất cách kiểm tra đánh giá môn Ngữ Văn tuyển sinh lớp 10
tại Thành phố Hồ Chí Minh theo định hƣớng đánh giá năng lực của học sinh.
Từ khóa: thi tuyển sinh, trung học phổ thông, kiểm tra, Ngữ văn, thành phố Hồ
Chí Minh
ABSTRACT
The innovation of Literature and Language arts test in high school entrance
examination in Ho Chi Minh City according to the capability assessment
The importance of high school entrance examination and the requirements for
comprehensive innovation in education after 2015 bring into question the demand of
appropriate changes. Determining that innovation in examination is an important step
and a breakthrough aimed at strong and positive influence on teaching, the article
proposes the method of evaluation of Literature and Language arts test in high school
entrance examination in Ho Chi Minh City according to the students‟ capability
assessment.

848


Từ khóa: entrance examination, high school, testing, Literature and Language
arts, Ho Chi Minh City

1. Cấu trúc đề thi môn Ngữ Văn tuyển sinh lớp 10 tại thành phố Hồ Chí Minh
hiện nay
Mục tiêu của môn Ngữ văn là giúp học sinh (HS) có những kiến thức phổ thơng,

cơ bản, hiện đại, hệ thống về văn học và tiếng Việt. Từ đó bắt đầu hình thành cho HS
năng lực tiếp nhận và tạo lập các kiểu văn bản ở cấp trung học cơ sở (THCS) và nhằm
nâng cao năng lực đọc – hiểu văn bản và làm văn ở cấp trung học phổ thơng (THPT).
Đặc biệt ở cấp THPT phải hình thành và phát triển các năng lực ngữ văn với yêu cầu
cao hơn cấp THCS: năng lực sử dụng tiếng Việt thể hiện ở bốn kĩ năng cơ bản (nghe,
nói, đọc, viết), năng lực tiếp nhận văn học, cảm thụ thẩm mĩ, năng lực tự học và năng
lực thực hành ứng dụng.
Thế nhƣng trên thực tế đề tuyển sinh lớp 10 mơn Ngữ văn tại thành phố Hồ Chí
Minh nói riêng và đa số các tỉnh thành khác nói chung vẫn chủ yếu tập trung kiểm tra
kiến thức, sự hiểu biết về các văn bản HS đƣợc học trong sách giáo khoa, ít gắn với thực
tế cuộc sống.
Bảng 1: Cấu trúc đề thi môn Ngữ Văn tuyển sinh lớp 10 tại thành phố Hồ Chí Minh
hiện nay
Cấu trúc

Mục đích

Hình thức

Điểm

HS trả lời câu hỏi Đánh giá khả năng ghi nhớ, nhận biết,
ngắn về tác gia, tác thông hiểu của HS.
phẩm văn học Việt
Nam đã đƣợc học.

1

Đánh giá khả năng sử dụng các kiến
thức, khái niệm cơ bản về tiếng Việt

để giải quyết một vấn đề quen thuộc
đã học hoặc tƣơng tự.

1

Câu 3: Viết bài văn Tạo lập một văn bản - Đánh giá khả năng nhận thức về các
nghị luận xã hội NLXH ngắn (khoảng vấn đề thuộc về tƣ tƣởng đạo lí và hiện

3

Câu 1: Kiểm tra
kiến thức văn học:
tác gia, tác phẩm
văn học Việt Nam

Câu 2: Bài tập tiếng Giải bài tập tiếng
Việt theo yêu cầu;
Việt
ngữ liệu chủ yếu ở
sách giáo khoa Ngữ
văn 9.

849


(NLXH).

1 trang giấy thi) theo tƣợng xã hội gần gũi, quen thuộc với
nội dung, chủ đề cụ HS;
thể đƣợc yêu cầu.

- Đánh giá khả năng vận dụng những
kiến thức về đặc trƣng thể loại, kết
hợp các thao tác nghị luận và phƣơng
thức biểu đạt để viết bài NLXH.

Câu 4: Viết bài văn Tạo lập một văn bản
nghị luận văn học NLVH: cảm nhận,
phân tích đoạn thơ
(NLVH).
bài thơ, nhân vật văn
học đã đƣợc học.

Đánh giá khả năng vận dụng những
kiến thức về tác giả, tác phẩm, về đặc
trƣng thể loại, kết hợp các thao tác
nghị luận và phƣơng thức biểu đạt để
viết bài nghị luận.

Theo cấu trúc trên, đề thi chƣa thể hiện một qui trình đánh giá khoa học, ngƣời
ra đề chủ yếu ra đề theo hiểu biết cá nhân, kinh nghiệm. Đề thi thƣờng định sẵn hƣớng
trả lời câu hỏi, nếu HS trả lời chệch hƣớng đáp án sẽ bị coi là lạc đề. Hơn thế, hƣớng
dẫn chấm thƣờng đơn giản, xi chiều, ít cho HS thể hiện quan điểm cá nhân và phát
huy đƣợc cá tính sáng tạo của các em. Nhƣ vậy đề thi sẽ mang tính may rủi cao, làm nảy
sinh tình trạng học tủ, học vẹt và việc luyện thi tràn lan. Đáng nói hơn chính là ở việc đề
thi chƣa đa dạng về hình thức, chƣa đánh giá sâu sát, toàn diện về các cấp độ tƣ duy và
năng lực học sinh. Với quan niệm “thi gì học nấy” nhƣ hiện nay thì đề thi khơng thể
thúc đẩy q trình đổi mới phƣơng pháp dạy học và không đáp ứng đƣợc yêu cầu tuyển
chọn những học sinh đủ năng lực để học tiếp bậc THPT.
2. Đổi mới đề thi theo hƣớng đánh giá năng lực
Hƣớng đổi mới môn Ngữ văn sau năm 2015 đƣợc đề ra trong hội thảo khoa học

quốc gia về dạy học Ngữ văn ở nhà trƣờng phổ thông là đẩy mạnh đổi mới phƣơng pháp
và hình thức tổ chức giáo dục nhằm phát triển năng lực HS. Quan điểm mới về đánh giá
kết quả giáo dục theo hƣớng đánh giá năng lực giờ đây nhằm mục đích cung cấp thơng
tin chính xác, khách quan để điều chỉnh hoạt động dạy và học nâng cao dần năng lực
cho học sinh; xác định năng lực của học sinh dựa theo chuẩn cấp học, chuẩn môn học.
Để đánh giá đúng năng lực học sinh ở mỗi lớp học và sau cấp học cần phải thực hiện đa
dạng các hình thức, phƣơng pháp nhƣ quan sát, vấn đáp, kiểm tra trên giấy, trình diễn,
dự án học tập, hồ sơ học sinh,…; phối hợp chặt chẽ nhiều hình thức nhƣ đánh giá chẩn
đốn, q trình và tổng kết, đánh giá của giáo viên và tự đánh giá của học sinh, đánh giá
của nhà trƣờng, gia đình, cộng đồng và xã hội. Do vậy, phải đa dạng hóa hình thức kiểm
tra đánh, cơng cụ đánh giá nhƣ câu hỏi phát vấn, đề kiểm tra, bài luận, bài tập lớn, báo
850

5


cáo thực hành, dự án học tập, mẫu biểu quan sát, tự đánh giá,… mới đảm bảo đƣợc việc
đo lƣờng phổ năng lực từ thấp đến cao trong tình huống thực tiễn.
Vì vậy việc đổi mới đề thi tuyển sinh vào lớp 10 là rất cần thiết trong bối cảnh
dạy và học hiện nay. Xác định đổi mới thi cử là khâu quan trọng, mang tính đột phá
nhằm tác động mạnh mẽ và tích cực đến hoạt động dạy học ở bậc phổ thông, chúng tôi
xin đề xuất việc cấu trúc lại đề thi môn Ngữ Văn tuyển sinh lớp 10 tại Thành phố Hồ
Chí Minh theo định hƣớng đánh giá năng lực của học sinh.
Thực tế giáo dục cho biết có ba loại thi chính [2, tr.11 – 12], trong đó kì thi
tuyển sinh ở bất kì cấp học nào do tính chất đặc thù nên đề thi phải đƣợc cấu trúc với
mục đích đánh giá năng lực theo đúng các tiêu chí tuyển chọn dự kiến. Việc đổi mới
cách thức kiểm tra đánh giá đặt ra yêu cầu thay thế dần đánh giá thuộc kiến thức (hiểu,
biết, vận dụng) nhƣ hiện nay bằng đánh giá năng lực nhận thức, thay đổi đánh giá mang
tính số lƣợng bởi đánh giá mang tính chất lƣợng.
Trong nội dung đề xuất các nhóm năng lực chung của học sinh trong chƣơng

trình giáo dục phổ thông sau năm 2015, Bộ giáo dục và đào tạo đã đƣa ra ba nhóm năng
lực chung gồm: nhóm năng lực về làm chủ và phát triển bản thân, nhóm năng lực về
quan hệ xã hội và nhóm năng lực công cụ [1, tr.161 – 166]. Đối chiếu những nội dung
trên với mục tiêu cụ thể của phân môn, chúng tôi nhận ra những năng lực cụ thể mà việc
dạy, học, kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn hƣớng đến thuộc nhóm năng lực cơng cụ, chủ
yếu tập trung vào năng lực sử dụng ngôn ngữ với những yêu cầu sau:
(1) Sử dụng tiếng phổ thông hiệu quả:
 Thành thạo các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết: khi tiếp xúc, trao đổi, chia sẻ
thông tin HS hiểu đƣợc từ ngữ; tóm tắt đƣợc văn bản; ghi chép đƣợc ý
chính; sử dụng, thay đổi ngơn ngữ, phù hợp với các mục đích, ngữ cảnh
khác nhau.
 Tƣơng tác, giao lƣu hiệu quả: khi tiếp xúc, trao đổi, chia sẻ thông tin HS
biết lắng nghe, hiểu thông tin, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, hoạt động ở
trên lớp cũng nhƣ khi thảo luận; giải thích và phân tích, trao đổi, chia sẻ,
diễn đạt về vấn đề đang quan tâm một cách dễ hiểu; đƣa ra đƣợc chính
kiến hay kết luận, nhận định, phù hợp.
 Hỗ trợ cho tƣ duy: biết sử dụng ngơn ngữ để biểu đạt rõ ràng, chính xác,
dễ hiểu về tƣ duy, suy nghĩ, ý tƣởng của mình.
(2) Thấu hiểu văn bản, thông tin:
 Đọc hiểu đƣợc văn bản, thông tin (với các kênh khác nhau nhƣ âm thanh,
hình ảnh, văn bản, văn bản kĩ thuật số,…): hiểu thơng tin cần thiết; hiểu,
tóm tắt, ghi đƣợc ý chính khi tiếp cận thông tin, văn bản.
851




Tạo lập đƣợc những văn bản, thông tin đáp ứng nhu cầu cá nhân: biết thu
thập, tổ chức, quản lí thông tin nhằm tạo đƣợc các loại văn bản, thông tin
đúng ngữ pháp, ngữ nghĩa, đáp ứng đƣợc nhu cầu, mục đích.

(3) Đánh giá đƣợc văn bản, thơng tin:
 Phân tích, tổng hợp và đánh giá, nhận định đƣợc: Qua phân tích và tổng
hợp, trình bày đƣợc những nội dung đã lĩnh hội; lập đƣợc đề cƣơng cho
một chủ đề học tập hay nghiên cứu; đánh giá đƣợc giá trị và sử dụng hợp
lí, hiệu quả thơng tin, văn bản để giải quyết vấn đề thuộc nhận thức hay
thực tiễn.
 Có hiểu biết về văn hóa: Qua sử dụng tiếng phổ thông (hoặc ngôn ngữ,
tiếng của vùng, của khu vực) hiểu biết thêm về đất nƣớc, con ngƣời và
nền văn hóa bản ngữ.
Thế nhƣng, trong giai đoạn “quá độ” của giáo dục và đào tạo hiện nay, cũng nhƣ
yêu cầu cụ thể của một kì thi tuyển sinh nhƣ đã nói trên; chúng tơi hiểu rằng trƣớc khi
có thể kiểm tra đánh giá với mục tiêu vì hoạt động học tập và nhƣ hoạt động học tập vẫn
cần phải sử dụng kiểm tra đánh giá kết quả học tập làm chính với sự điểu chỉnh sao cho
hợp lí, đa dạng hơn. Trên cơ sở cân nhắc sự kết hợp hai quan điểm đánh giá truyền
thống và đổi mới [1, tr.127; 2, tr.40], chúng tơi định hình phƣơng hƣớng cấu trúc đề thi
tuyển sinh vào lớp 10 nhƣ sau:


Bài thi vẫn đƣợc thực hiện trên giấy với thời lƣợng 120 phút vào cuối năm
học lớp 9.
 Đề thi và đáp án trong những năm sắp đến vẫn theo qui định của hệ thống,
chƣa thể giao hoàn toàn cho ngƣời dạy và ngƣời học chủ động.
 Việc lựa chọn câu hỏi và tiêu chí đánh giá đƣợc nêu rõ từ trƣớc.
 Tập trung vào năng lực thực tế là chính, bên cạnh đó vẫn có những nội dung
cụ thể dựa vào kiến thức sách vở.
Từ phƣơng hƣớng trên, chúng tôi xác định các năng lực cụ thể cần đánh giá sẽ là:
 Năng lực tái hiện và vận dụng kiến thức.
 Năng lực đọc – hiểu, giải mã văn bản.
 Năng lực sáng tạo.
 Năng lực tạo lập văn bản.


Hƣớng đổi mới đề thi theo Bảng 2 và Bảng 3 sau:
Bảng 2: Nội dung đổi mới đề thi môn Ngữ Văn tuyển sinh lớp 10 theo hƣớng đánh
giá năng lự
852


Năng lực
cần đánh
giá

Hình thức

Mục đích

Điểm

Năng lực tái
hiện và vận
dụng kiến
thức

Trả lời các câu hỏi trắc
nghiệm khách quan hoặc câu
hỏi tự luận ngắn về văn học và
tiếng Việt đã học.

Đánh giá khả năng ghi nhớ,
nhận biết, tái hiện và vận
dụng các đơn vị kiến thức cơ

bản, cần thiết, nền tảng đã
học về văn học và tiếng Việt.

20

Năng
lực - Viết đoạn văn tự sự, miêu tả,
nghị luận với phƣơng pháp, kĩ
sáng tạo
năng, cách đọc hiểu và vận
dụng kiến thức mới lạ, độc
đáo về văn học và tiếng Việt.

- Đánh giá năng lực tƣ duy
sáng tạo, tƣ duy phản biện.
Khả năng thể hiện quan điểm
cá nhân và năng lực bản thân.

10

Năng
lực
đọc – hiểu,
giải mã văn
bản

Trả lời các câu trắc nghiệm
khách quan hoặc câu hỏi tự
luận ngắn về các văn bản hƣ
cấu và phi hƣ cấu đã học trong

sách giáo khoa hoặc văn bản
ngoài sách giáo khoa có chủ
đề tƣơng tự, phù hợp.

- Đánh giá khả năng vận
dụng kiến thức, kĩ năng,
phƣơng pháp để đọc hiểu,
tiếp nhận văn bản với các thể
loại khác nhau.

Năng
lực - Viết bài NLXH ngắn về một
tạo lập văn tƣ tƣởng đạo lí hoặc hiện
tƣợng đời sống gần gũi, phù
bản
hợp lứa tuổi HS.

- Đánh giá năng lực cảm thụ
thẩm mĩ; năng lực sử dụng
tiếng Việt để bộc lộ, biểu đạt
tƣ tƣởng, tình cảm.

- Viết bài NLVH ngắn về đoạn
thơ, câu thơ; một ý hay trong
một bài thơ, một tác phẩm tự
sự trong hoặc ngoài sách giáo
khoa.

- Đánh giá khả năng thu thập,
xử lí thơng tin và khả năng

vận dụng tổng hợp kiến thức,
kĩ năng để giải quyết một vấn
đề trong cuộc sống.

- Đánh giá khả năng vận
dụng tổng hợp các kiến thức,
- Sáng tác câu thơ, bài thơ.
kĩ năng từ nhiều lĩnh vực,
- Đặt một nhan đề mới; hồn
mơn học.
thành văn bản với một kết
thúc mới.

853

30

- Đánh giá năng lực tƣ duy
hình tƣợng và tƣ duy logic.
40


- Triển khai một luận điểm - Đánh giá khả năng nhận
cho sẵn về một vấn đề xã hội thức, khám phá bản thân và
thế giới xung quanh; khả
hoặc văn học.
năng thấu hiểu các giá trị
nhân văn.
Tổng cộng
Thang

đánh giá

100





Mức độ cao (80 điểm đến 100 điểm)
Mức độ khá (66 điểm đến 79 điểm)
Mức độ trung bình (50 điểm đến 65 điểm)
Mức độ thấp (< 50 điểm)

Với cấu trúc nhƣ vậy, đề thi sẽ bao gồm các nội dung cụ thể sau:
Bảng 3: Cấu trúc đề thi môn Ngữ Văn tuyển sinh lớp 10 theo hƣớng đổi mới
CÂU

NỘI DUNG

SỐ CÂU CỤ THỂ

ĐIỂM

1

Kiểm tra kiến thức văn học đã học

1.1 đến 1.2

10


2

Kiểm tra kiến thức Tiếng Việt đã học

2.1 đến 2.2

10

3

Đọc hiểu văn bản phi hƣ cấu

3.1 đến 3.5

10

4

Đọc hiểu văn bản hƣ cấu theo thể loại trữ
tình

4.1 đến 4.5

10

5

Đọc hiểu văn bản hƣ cấu theo thể loại tự sự


5.1 đến 5.5

10

6

Sáng tạo một bộ phận văn bản

10

7

Tạo lập văn bản nghị luận xã hội

20

8

Tạo lập văn bản nghị luận văn học

20

3. Đề minh họa
Câu 1(10 điểm)
1.1. (5,0 điểm): Hình ảnh sau gợi cho em nghĩ đến tác phẩm nào đã học trong
chƣơng trình Ngữ văn 9 ? Hãy cho biết tác giả và xuất xứ của tác phẩm ấy.
854


a. Mẹ hiền dạy con, Ôn Nhƣ Văn Ngọc và Trần Lê Nhân dịch từ Liệt nữ truyện

của Trung Quốc
b. Chuyện ngƣời con gái Nam Xƣơng của Nguyễn Dữ, trong Truyền kì mạn lục
c. Nói với con của Y Phƣơng, trong Thơ Việt Nam 1945 – 1985
d. Bếp lửa của Bằng Việt, trong Hƣơng cây – Bếp lửa
1.2 (5,0 điểm): Hãy chép chính xác hai câu cuối trong Bài thơ về tiểu đội xe
khơng kính của Phạm Tiến Duật. Hai câu thơ ấy cho em biết phẩm chất gì của ngƣời
lính lái xe trên tuyến đƣờng Trƣờng Sơn ?

a. Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trƣớc/ Chỉ cần trong xe có một trái tim. Phẩm
chất của ngƣời lính lái xe: u nƣớc.
b. Khơng có kính khơng phải vì xe khơng có kính/ Bom giật, bom rung, kính vỡ
đi rồi. Phẩm chất của ngƣời lính lái xe: dũng cảm, gan dạ.
c. Ung dung buồng lái ta ngồi/ Nhìn đất, nhìn trời,nhìn thẳng. Phẩm chất của
ngƣời lính lái xe: lạc quan, yêu đời.
d. Gặp bè bạn suốt dọc đƣờng đi tới/ Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi. Phẩm chất
của ngƣời lính lái xe: vui tƣơi, đồn kết.
Câu 2 (10 điểm)
2.1. (5,0 điểm) Hãy kể tên một phƣơng châm hội thoại đã học. Ghi lại một câu ca
dao, tục ngữ liên quan đến phƣơng châm hội thoại ấy.
2.2. (5,0 điểm) Tìm thành phần phụ chú trong đoạn trích sau và cho biết chúng bổ
sung điều gì.
Bƣớc vào thế kỉ mới, muốn “sánh vai cùng các cƣờng quốc năm châu” thì
chúng ta sẽ phải lấp đầy hành trang bằng những điểm mạnh, vứt bỏ những điểm yếu.
Muốn vậy thì khâu đầu tiên, có ý nghĩa quyết định là hãy làm cho lớp trẻ – những ngƣời

855


chủ thật sự của đất nƣớc trong thế kỉ tới – nhận ra điều đó, quen dần với những thói
quen tốt đẹp ngay từ những việc nhỏ nhất.

(Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới –Vũ Khoan)
Câu 3 (10 điểm) Đọc văn bản sau và hoàn thành các yêu cầu bên dƣới

(…) “Đốt” thời gian trên “phây”
Vừa ra chơi, nhiều nhóm học sinh (HS) trƣờng THPT X (TP.HCM) cùng tụm đầu
vào những chiếc điện thoại cài ứng dụng “phây” (Facebook) để "tám" về một trạng
thái nào đó đƣợc chia sẻ mà nhiều HS quan tâm. Họ cùng bàn luận, phân tích những
nội dung, hình ảnh hay những comment (bình luận) mới vừa đƣợc đƣa lên. Có bạn cịn
tranh thủ ln giờ nghỉ giải lao chỉ vài phút để đƣa lên những trạng thái mới hoặc gửi
đi phản hồi nào đó ngay trên điện thoại của mình. (…) Ngọc Tuyết cho biết, hơm nào
lớp hoặc nhóm có hoạt động, sự kiện chung gì đổ lên Facebook thì nhiều bạn trong lớp
đều thức rất khuya để cập nhật, phản hồi liên tục. “Nhiều hơm em nhắc mình đúng 12
giờ là đi ngủ nhƣng lại ráng thêm chút, gửi đi gửi lại thì đã đến 1 - 2 giờ sáng. Lên
“phây” là cách “giết” thời gian hiệu nghiệm nhất, mỗi ngày em mất 3 - 4 giờ cho nó”,
Tuyết bộc bạch. Khơng ít HS xem Facebook là nhật ký hàng ngày của mình nên mọi
hoạt động ăn chơi, ngủ nghỉ đều cập nhật liên tục. Có em cịn dành nhiều thời gian
chăm sóc, tỉa tót, chú trọng đến từng bức ảnh, từng nét trang trí… để gây sự chú ý. Phó
hiệu trƣởng một trƣờng phổ thông ở Q.3, TPHCM cho hay, nếu cách đây vài năm có
một bộ phận học trị đến lớp với tinh thần mệt mỏi, lờ đờ, nằm rạp trên bàn vì nghiện
game online thì bây giờ bộ phận này có thêm các em nghiện Facebook, kể cả HS giỏi.
Dùng Facebook có thể khơng nguy hiểm nhƣ game online nhƣng các em tham gia thiếu
kiểm sốt thì tốn rất nhiều thời gian, ảnh hƣởng đến việc học và cũng không thích thú
với các hoạt động xã hội.
Phải biết làm chủ bản thân
Nhiều phụ huynh đau đầu khi nhìn con mê mẩn “đốt” thời gian với Facebook. Có
ngƣời phải dùng đến biện pháp mạnh nhƣ cắt tiền tiêu của con, cắt internet hay tìm đến
các phần mềm ngăn chặn con vào Facebook. Bà Lê Minh Hoa (chuyên viên đài 1080)
cho hay bản thân bà gặp rất nhiều câu hỏi từ các bạn trẻ cho rằng nghiện Facebook là
điều không đáng lo ngại nhƣng các bạn chƣa biết cách làm chủ bản thân. Thƣờng thì
khi vào Facebook rồi các bạn dễ bị lôi cuốn theo và quên luôn thời gian nên cần trƣớc

hết phải chủ động cài báo thức, hoặc nhờ ngƣời thân nhắc nhở mình. Khơng phủ nhận
những tiện ích của Facebook trong việc chia sẻ, kết nối nhƣng ThS. Nguyễn Hoàng
Khắc Hiếu (ĐH Sƣ phạm TPHCM) cho rằng Facebook là một "mê cung" có sức mê
hoặc rất lớn mà nếu thiếu kiểm sốt thì rất dễ bị lơi cuốn bởi những giá trị ảo. Khi
ngƣời dùng thiếu tự chủ thì Facebook trở thành “kẻ cắp” thời gian, sức khỏe. Bởi thế,
mỗi ngƣời phải biết đặt ra những quy tắc nhƣ mỗi ngày chỉ vào 1 hay 2 giờ đồng hồ
856


trong khoảng thời gian nào đó nhất định để tạo thành một thói quen. Đối với phụ
huynh, theo các chuyên gia, việc cấm cản kịch liệt con dùng Facebook chƣa phải là
biện pháp phù hợp mà cần giúp con sử dụng đúng cách, đúng mức vì chúng có những
tiện ích khơng thể phủ nhận. Phụ huynh cần có những quy ƣớc với con trẻ nhƣ vào
Facebook trong thời gian bao lâu, tránh những phát ngôn về chửi bới, nhục mạ hay bêu
xấu ngƣời khác, biết chọn lọc những điều hay trên mạng xã hội… Nếu con vi phạm thì
áp dụng những cách xử lý hay hình phạt nào để trẻ biết giới hạn của mình. Đồng thời
cha mẹ phải cùng con xây dựng những mục tiêu, công việc cụ thể trong học tập và cuộc
sống thì khi đó dù có ham vui nhƣng trẻ vẫn hiểu trách nhiệm với bản thân và cả mọi
ngƣời xung quanh.
(Theo Hoài Nam – Báo Mực Tím online)
3.1. Văn bản trên chủ yếu đề cập đến vấn đề gì ?
3.2. Hãy chỉ ra một lí do lên facebook của các bạn trẻ trong văn bản trên.
3.3. Theo bài viết, việc “nghiện” facebook đã gây ra những hậu quả gì ?
3.4. Giải pháp phù hợp mà cha mẹ nên có để giúp con mình khơng “nghiện”
facebook là gì ?
3.5. Em học tập đƣợc gì sau khi đọc văn bản trên ?
Câu 4 (10 điểm) Đọc văn bản sau và hoàn thành các yêu cầu bên dƣới
“Trong sóng có ngƣời gọi con:
"Bọn tớ ca hát từ sáng sớm cho đến hồng hơn. Bọn tớ ngao du nơi này nơi nọ
mà không biết từng đến nơi nao".

Con hỏi: "Nhƣng làm thế nào mình ra ngồi đó đƣợc ?".
Họ nói: "Hãy đến rìa biển cả, nhắm nghiền mắt lại, cậu sẽ đƣợc làn sóng nâng
đi".
Con bảo: “Buổi chiều mẹ ln muốn mình ở nhà, làm sao có thể rời mẹ mà đi
đƣợc?”

Thế là họ mỉm cƣời, nhảy múa lƣớt qua.
Nhƣng con biết trị chơi khác hay hơn.
Con là sóng và mẹ sẽ là bến bờ kì lạ,
Con lăn, lăn, lăn mãi rồi sẽ cƣời vang vỡ tan vào lòng mẹ.
Và không ai trên thế gian này biết mẹ con ta ở chốn nào”.
(Mây và sóng, R.Ta-go, SGK Ngữ Văn 9, tập hai, tr. 87)
857


4.1. Chỉ ra một nét đặc sắc về nghệ thuật của đoạn thơ trên.
4.2. Nêu nội dung của đoạn thơ trên.
4.3. Kể tên một tác phẩm đã học trong chƣơng trình lớp 9 có cùng chủ đề với
đoạn thơ trên.
4.4. Chỉ ra sự khác nhau giữa cuộc vui của những ngƣời ở “trong sóng” và trị
chơi do em bé tạo ra.
4.5. Vì sao em bé trong bài thơ cho rằng trị chơi của mình hay hơn cả cuộc vui
của những ngƣời ở “trong sóng” ?
Câu 5 (10 điểm) Đọc văn bản sau và hoàn thành các yêu cầu bên dƣới.
“Cháu giới thiệu với bác ông kĩ sƣ ở vƣờn rau dƣới Sa Pa ! Ngày này sang ngày
khác ông ngồi im trong vƣờn su hào, rình xem cách ong lấy phấn, thụ phấn cho hoa su
hào. Rồi, để đƣợc theo ý mình, tự ơng cầm một chiếc que, mỗi ngày chín mƣời giờ sáng,
lúc hoa tung cánh, đi từng cây su hào làm thay cho ong. Hàng vạn cây nhƣ vậy. Để củ
su hào nhân dân toàn miền Bắc nƣớc ta ăn đƣợc to hơn, ngọt hơn trƣớc. Ông kĩ sƣ làm
cháu thấy cuộc đời đẹp quá. (…) Hay là, đồng chí nghiên cứu khoa học ở cơ quan cháu

ở dƣới ấy đấy. Có thể nói đồng chí ấy trong tƣ thế sẵn sàng suốt ngày chờ sét. Nửa đêm
mƣa gió rét buốt, mặc, cứ nghe sét là đồng chí chống chồng chạy ra. Nhƣ thế mƣời
một năm. Mƣời một năm không một ngày xa cơ quan. Không đi đến đâu mà tìm vợ.
Đồng chí cứ sợ nhỡ có sét lại vắng mặt mình. Đồng chí đang làm một cái bản đồ sét
riêng cho nƣớc ta. Có cái bản đồ ấy thì lắm của lắm bác ạ. Của chìm nơng, của chìm
sâu trong lịng đất đều có thể biết, q giá lắm. Trán đồng chí cứ hói dần đi. Nhƣng cái
bản đồ sét thì sắp xong rồi.”
(trích “Lặng lẽ Sa Pa” – Nguyễn Thành Long, Ngữ văn 9, tập một, tr.186)
5.1. Đây là lời nhân vật anh thanh niên nói với ai, trong tình huống nào ?
5.2. Ngƣời kể chuyện trong văn bản tự sự trên là ai ?
5.3. Phƣơng thức trần thuật nào đƣợc sử dụng trong đoạn văn trên ?
5.4. Trong đoạn văn trên, nhân vật anh thanh niên bày tỏ thái độ xót xa, cảm thơng
sâu sắc cho hoàn cảnh của ai ?
5.5. Đoạn văn trên chủ yếu thể hiện phẩm chất gì của nhân vật anh thanh niên ?
Câu 6 (10 điểm) Hãy đặt nhan đề cho văn bản sau:
858


Hai đứa trẻ nọ có một ngƣời cha nghèo khổ, thất học. Ơng ấy chỉ biết bắt con
mình làm việc vất vả mỗi ngày mà không nghĩ đến việc trao cho chúng cơ hội học hành
để thoát khỏi cảnh sống hiện tại. Năm tháng qua đi, hai cậu đã lớn và mỗi ngƣời có một
cuộc sống của riêng mình.
Một nhà tâm lý học đi tìm thực tế cho bài nghiên cứu "Tác động của hồn cảnh
đến con ngƣời" đã tìm đến hai ngƣời. Một ngƣời giờ đây đã trở thành phiên bản mới
của cha cậu ngày xƣa: thất học, đói rách, bắt con cái làm việc quần quật. Còn ngƣời
kia lại là một trong những ngƣời đi đầu trong phong trào xóa mù chữ, tạo cơ hội cho
trẻ em phát triển.
Nhà tâm lý học hỏi hai ngƣời cùng một câu: “Tại sao anh trở thành ngƣời nhƣ
thế?”
Thật bất ngờ, cả hai cùng đƣa ra một câu trả lời: “Sống trong hồn cảnh nhƣ vậy,

đƣơng nhiên là tơi phải trở thành ngƣời nhƣ thế này rồi.”.
(Sƣu tầm từ Internet)
Câu 7 (20 điểm)
Có một "nghề" khơng bao giờ nghỉ lễ
Đó chính là "nghề" làm Cha Mẹ.
Hãy phụ giúp Ngƣời dù cánh tay nhỏ bé, dù túi tiền không đầy,
dù cách xa hàng trăm kilơmét ...
Vẫn ln ln có cách để Ngƣời vui.
(trích từ Facebook của Thạc sĩ tâm lí Nguyễn Hồng Khắc Hiếu)

Hãy viết đoạn văn ngắn (từ 10 đến 15 câu) trình bày cảm xúc và suy nghĩ của em
về vấn đề đƣợc gợi ra từ văn bản trên.
Câu 8 (20 điểm)
“Bỗng nhận ra hƣơng ổi
Phả vào trong gió se
Sƣơng chùng chình qua ngõ
Hình nhƣ thu đã về
Sơng đƣợc lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
859


Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”
(trích “Sang thu” – Hữu Thỉnh, Ngữ văn 9, tập hai, tr.70)
Viết bài văn ngắn (khoảng một trang giấy thi) về một nội dung hoặc nét nghệ thuật
mà em yêu thích trong đoạn thơ trên.
--------Theo chỉ đạo của Bộ giáo dục và đào tạo, bƣớc đầu việc đổi mới đề thi không
nên gây xáo trộn quá nhiều đến quá trình học của HS. Cho nên đề thi minh họa trên có
sự hịa phối giữa kiến thức trong sách giáo khoa và một số văn bản ngồi chƣơng trình

với một mức độ vừa phải. Nhƣng sau khi có chƣơng trình mới, chắc chắc sẽ phải có
những thay đổi triệt để hơn. Đây cũng chỉ là những suy nghĩ bƣớc đầu của chúng tôi. Để
có một đề thi tốt, đúng định hƣớng đánh giá năng lực là cả một q trình khó khăn. Điều
này đòi hỏi sự xác định đúng các phƣơng diện năng lực Ngữ văn cụ thể cần rèn luyện
cho HS trong quá trình dạy học, việc lựa chọn các nội dung phù hợp với các năng lực
cần kiểm tra cũng nhƣ mơ tả chính xác, cụ thể các năng lực đó theo các mức hợp lí để
đánh giá chính xác. Chúng tơi ln mong nhận đƣợc những đóng góp chân thành, uy tín
để hồn thiện dần phƣơng án ra đề thi này nhằm áp dụng rộng rãi trên địa bàn thành phố
Hồ Chí Minh từ kì thi tuyển sinh vào lớp 10 trong niên khóa 2014 – 2015.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và đào tạo (2013), Tài liệu tập huấn thí điểm phát triển chƣơng trình
giáo dục nhà trƣờng phổ thông, Hà Nội.
2. Bộ giáo dục và đào tạo (2013), Tài liệu các kĩ thuật đánh giá trong lớp học, kinh
nghiệm quốc tế và đề xuất áp dụng cho bậc phổ thông ở Việt Nam. Hà Nội.

860



×