Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố vinh tỉnh nghệ an thực trạng và các giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.19 KB, 46 trang )

Bài tập lớp hình sự

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Bước vào Thế kỉ 21, tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến
chuyển tạo ra nhiều thời cơ cũng như khơng ít thách thức cho mỗi quốc gia, dân
tộc, trong đó có Việt Nam. Tồn cầu hóa trở thành xu thế tất yếu trên nhiều lĩnh
vực trong đó có đấu tranh, phịng chống tội phạm.
Trong lịch sử phát triển,vấn đề lợi ích vật chất ln là tâm điểm của mọi
xung đột xã hội. Bởi vậy, vấn đề bảo đảm quyền sở hữu được quy định và bảo
hộ trong Hiến Pháp và trong các bộ luật như dân sự, hình sự. Trong luật hình sự,
quyền sở hữu đã được bảo vệ thông qua các quy định các tội xâm phạm sở hữu.
Đây cũng là một trong những nhóm tội phạm được quy định sớm nhất trong
pháp luật hình sự thế giới nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng.
Trong những năm qua, tình hình tội phạm Việt Nam có những diễn biến
phức tạp. Một số loại tội phạm có chiều hướng gia tăng, nổi lên là các loại tội
phạm xâm phạm An ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tội phạm công nghệ
cao,..., đặc biệt là đối với các tội xâm phạm sở hữu như: Tội cướp tài sản, tội
cướp giật tài sản,tội cưỡng đoạt tài sản, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản,...
Cướp giật tài sản là loại tội phạm không mới nhưng với tình hình hiện nay
thì rất đáng báo động bởi vì nó đang ngày càng gia tăng về số lượng và thủ đoạn
khiến cho công tác điều tra, đấu tranh của các cơ quan chức năng gặp rất nhiều
khó khăn. Tính chất phức tạp, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt, và nhất là
tính lưu động, táo bạo, hoạt đơng trắng trợn, có tổ chức, và đặc biệt là việc sử
dụng vũ khí để thực hiện hành vi phạm tội, làm thiệt hại lớn về tài sản của người
dân. Có thể nói đây là một vấn đề rất bức xúc và mang tính thời sự đang được
dư luận rất quan tâm. Qua thực tiễn điều tra, xét xử thì tội cướp giật tài sản luôn
chiếm đa số. Qua hai lần pháp điển hóa, bộ luật hình sự 1999 đã ra đời và đã quy
định về tội cướp giật tài sản một cách đầy đủ nhất tại Điều 136 của bộ luật.

SVTH: Trần Thị Yến



1

GVHD: Bùi Thị Phương Quỳnh


Bài tập lớp hình sự

Vì thế, để tìm hiểu sâu hơn về vấn đề cướp giật tài sản cũng như nội dung
pháp luật của nó tơi xin chọn đề tài: “ Tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành
phố Vinh- tỉnh Nghệ An: Thực trạng và các giải pháp”.
2. Tình hình nghiên cứu:
Tội Cướp giật tài sản là một vấn đề đã được đề cập trong một số cơng
trình nghiên cứu khoa học về luật hình sự, trong các tập bình luận khoa học về
luật hình sự, các luận văn Thạc sĩ, Tiến sĩ của một số tác giả nghiên cứu về các
nội dung xâm phạm sở hữu. Tiêu biểu là bài viết: “ Các tội xâm phạm sở hữu
trong bộ luật hình sự năm 1999” của T.s Trương Quang Vinh trên tạp chí luật
học ( Trường Đại học Luật Hà Nội) số 4/2000; Luận án Tiến sĩ luật học của
Nguyễn Ngọc Chí năm 2000 về “ Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm
sở hữu”... Tuy nhiên chưa có một cơng trình nào nghiên cứu về tội cướp giật tài
sản trên địa bàn thành phố Vinh – tỉnh Nghệ An. Trong thực tế tình hình hiện
nay thì loại tội phạm này đã có nhiều cách thức hoạt động mới tinh vi hơn nhằm
qua mắt các lực lượng công an và cơ quan điều tra. Nhận thức rõ về mức nguy
hiểm của loại tội phạm này, các nhà làm luật ngay từ đầu cũng đã dành một điều
luật để quy định rõ về tội Cướp giật tài sản. Vì thế, khi nghiên cứu về đề tài này
tơi sẽ tập trung tìm hiểu và phân tích về hình thức cũng như nội dung pháp luật,
nguyên nhân và thực trạng của loại tội phạm này, nhằm nâng cao ý thức phịng,
chống, bảo vệ tài sản của chính mình cũng như của mỗi người dân.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Vận dụng phương pháp biện chứng và duy vật lịch sử để nghiên cứu và

trình bày nội dung lý luận và thực tiễn. Sử dụng các phương pháp so sánh, tổng
hợp, liệt kê, phân tích để đánh giá, rút ra những nhận xét và kết luận. Trên cơ sở
đó đề xuất những quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện hơn về những quy
định cũng như hình phạt đối với tội phạm cướp giật tài sản ở nước ta cũng như
trên địa bàn thành phố Vinh nói riêng.

SVTH: Trần Thị Yến

2

GVHD: Bùi Thị Phương Quỳnh


Bài tập lớp hình sự

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề tội Cướp giật tài sản trên địa
bàn thành phố Vinh – tỉnh Nghệ An, thực trạng, nguyên nhân và các giải pháp.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các Bộ luật Hình sự năm 1985, năm
1999( sửa đổi bổ sung năm 2009) và Tội phạm học trên địa bàn thành phố Vinh
– tỉnh Nghệ An.
5. Kết cấu đề tài:
Tên đề tài: “ Tội Cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Vinh- tỉnh Nghệ
An: Thực trạng và các giải pháp”.
Kết cấu đề tài gồm 2 phần như sau:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về tội Cướp giật tài sản theo quy định của
pháp luật hiện nay.
- Chương 2: Thực trạng của tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố
Vinh- tỉnh Nghệ An giai đoạn 2010-2012 và các giải pháp.


SVTH: Trần Thị Yến

3

GVHD: Bùi Thị Phương Quỳnh


Bài tập lớp hình sự

B: PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lý luận về tội Cướp giật tài sản theo quy định của
pháp luật.
1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của các quy phạm pháp luật
hình sự Việt Nam về tội cướp giật tài sản
1.1.1 Giai đoạn trước 1999
Ngay từ đầu mới giành độc lập, nước Việt Nam dân chủ Cộng hịa vừa
phải đối phó với thù trong giặc ngồi, vừa phải từng bước quản lí, xây dựng đất
nước. Để tạo cơ sở pháp lí cho các hoạt động ổn định trật tự, an ninh chính trị,
Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách là người đứng đầu đất nước đã kí Sắc lệnh số
47/SL ngày 10/10/1945 cho phép áp dụng một số văn bản của pháp luật cũ
không trái với nguyên tắc độc lập của nhà nước và chính thể dân chủ cộng hịa.
Như vậy, pháp luật của chế độ cũ được áp dụng theo tinh thần của nhà nước dân
củ mới, Hoàng Việt luật được áp dụng ở Bắc Kì, cịn pháp luật tu chính được áp
dụng ở Nam Kì. Bên cạnh đó, Nhà nước ta cũng từng bước ban hành những văn
bản pháp luật mới quy định về những hành vi xâm đến sở hữu của nhà nước và
sở hữu của cơng dân, góp phần bảo vệ các quan hệ xã hội tiến bộ của xã hội
mới.
Tuy cịn mới sơ khai nhưng pháp luật hình sự thời kì này đã khái quát,
nhận diện được những hành vi xâm hại sở hữu trong thực tế và có các quy định
thành các tội phạm cụ thể làm cơ sở pháp lí cho tịa án xét xử. Đồng thời các văn

bản này còn quy định về các chế tài cụ thể và các đường lối xử lí các tội phạm
cụ thể xâm phạm sở hữu.
Tong giai đoạn này, tội cướp giật tài sản được quy định thành hai tội riêng
biệt căn cứ vào đối tượng bị xâm hại là sở hữu thuộc sở hữu xã hội chủ nghĩa
hay sở hữu riêng của công dân. Cụ thể, tội cướp giật tài sản đã được quy định
trong Pháp lệnh 21/10/1970 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Đến lần pháp điển
hóa Bộ luật lần thứ nhất, Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa
SVTH: Trần Thị Yến

4

GVHD: Bùi Thị Phương Quỳnh


Bài tập lớp hình sự

Việt Nam năm 1985 ( Bộ luật hình sự năm 1985) đã được thơng qua vào ngày
27/6/1985 có hiệu lực từ ngày 1/1/1986 trên tồn quốc cũng quy định về tội
cướp giật tài sản như sau:
Điều 131 quy định:
1. Người nào cướp giật hoặc công nhiên chiếm đoạt tài sản xã hội chủ
nghĩa, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 129 thì bị phạt tù từ một
năm đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau thì bị phạt tù từ ba năm
đến mười hai năm:
a. Có tổ chức hoặc có tính chuyên nghiệp.
b. Dùng thủ đoạn nguy hiểm; hành hung để tẩu thốt.
c. Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc gây ra hậu quả nghiêm trọng
khác.
d. Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội trong các trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ
mười hai năm đến hai mươi năm.
Điều 154 quy định:
1. Người nào cướp giật hoặc công nhiên chiếm đoạt tài sản của người
khác, nếu khơng thuộc trường hợp quy định ở Điều 151, thì bị phạt tù từ ba
tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ hai
năm đến mười năm:
a. Có tổ chức hoặc có tính chun nghiệp.
b. Dùng thủ đoạn nguy hiểm; hành hung để tẩu thốt.
c. Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc gay hậu quả nghiêm trọng khác
d. Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy
năm đến hai mươi năm.

SVTH: Trần Thị Yến

5

GVHD: Bùi Thị Phương Quỳnh


Bài tập lớp hình sự

Ngày 28/12/1989, Quốc hội thơng qua Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình
sự 1985, trong đó bổ sung thêm một số tình tiết định khung tăng nặng trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội có tính chất chun nghiệp vào điểm a,
khoản 2 của tội cướp giật tài sản hoặc công nhiên chiếm đoạt tài sản.
Nhìn chung, ngun tắc xử lí quy định trong bộ luật hình sự 1985 khơng
có gì thay đổi so với Pháp lệnh năm 1970.

1.1.2 Giai đoạn sau năm 1999
Khoa học luật hình sự là bộ phận của khoa học pháp lí,nghiên cứu những
vấn đề lí luận của ngành luật hình sự. Xuất phát từ yêu cầu của xã hội, cùng sự
phát triển nhanh chóng của tội phạm khi đất nước ta chuyển sang nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần phát triển theo cơ chế thị trường, có sự quản lí của
nhà nước, theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Để đảm bảo sự bình đẳng của các
thành phần kinh tế địi hỏi Nhà nước ta phải có quan niệm về vấn đề sở hữu
chung và sở hữu riêng. Chính sách hình sự và pháp luật hình sự cũng phải đổi
mới tư duy bảo vệ sở hữu chung và sở hữu riêng như nhau, không phân biệt,
không thiên vị dựa trên quan điểm này. Bên cạnh đó, việc phân định hai hình
thức sở hữu này để quy định thành hai khách thể độc lập là tài sản thuộc sở hữu
Xã hội chủ nghĩa và tài sản thuộc sở hữu của công dân dẫn đến sự xác định tội
danh rất khó khăn, thiếu chính xác. Hoặc khi người phạm tội chỉ có một hành vi
chiếm đoạt duy nhất nhưng tài sản bị xâm hại thuộc nhiều hình thức sở hữu đan
xen, khi đó nên xử một tội hay nhiều tội cũng khơng phù hợp với u cầu đấu
tranh phịng chống tội phạm cũng như quy định của pháp luật. Qua đó, việc duy
trì Bộ luật hình sự 1985 khơng cịn đạt hiệu quả cao, pháp luật cần có một sự
thay đổi lớn về mọi mặt và Bộ luật hình sự 1999 ra đời. Bộ luật hình sự 1999
được Quốc hội thơng qua ngày 21/12/1999 và có hiệu lực trên tồn quốc kể từ
ngày 01/07/2000 đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong quá trình xây
dựng và hình thành pháp luật nói chung và luật hình sự nói riêng. Đây là sự đúc
kết thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, thể hiện đường lối,

SVTH: Trần Thị Yến

6

GVHD: Bùi Thị Phương Quỳnh



Bài tập lớp hình sự

chính sách hình sự của Nhà nước ta. Tại đây, pháp luật đã chính thức xóa bỏ
ranh giới giữa sở hữu chung và sở hữu riêng trong chính sách hình sự của mình
Trong bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999, quy định hai mươi bốn
chương với 344 điều luật tương đương 344 loại tội phạm. Trong đó có nhóm
hành vi có lỗi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu và sự
gây thiệt hại này thể hiện đầy đủ nhất bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành
vi.
Quan hệ sở hữu là quan hệ xã hội trong đó quyền chiếm hữu, sử dụng và
định đoạt tài sản được tôn trọng và bảo vệ. Hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa
gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu là những hành vi xâm phạm các quyền chiếm
hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của chủ sở hữu.
Đối tượng tác động của hành vi xâm phạm sở hữu đó là tài sản – đối
tượng vật chất, nhờ đó có sự tồn tại quan hệ sở hữu. Tài sản theo Bộ luật Dân sự
là vật có thực, tiền, giấy tờ có giá được bằng tiền và đoạt các quyền về tài sản.
Những hành vi xâm phạm đến tài sản đó thì bị xem là xâm phạm quan hệ sở
hữu.
Hành vi khách quan của các tội xâm phạm sở hữu tuy khác nhau ở hình
thức nhưng đều có chung tính chất gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu, xâm phạm
các quyền sử dụng, chiếm hữu và định đoạt của chủ tài sản làm cho chủ tài sản
mất khả năng thực hiện quyền sở hữu của mình. Hậu quả mà những hành vi đó
gây ra trước hết là những thiệt hại đối với quan hệ sở hữu, thể hiện dưới dạng
thiệt hại vật chất cụ thể như tài sản bị mất, tài sản bị hư hỏng, bị hủy hoại, tài
sản bị sử dụng trái với ý chí của chủ sở hữu...
Cũng như các loại tội phạm khác, các tội xâm phạm sở hữu bắt buộc phải
có chủ thể của tội phạm và hầu hết đều là chủ thể thường với độ tuổi luật định và
có năng lực trách nhiệm hình sự.
Lỗi của người thực hiện các tội xâm phạm sở hữu có thể là cố ý như cướp
giật tài sản, trộm cắp tài sản; hoặc vô ý như tội vô ý gây như tội vô ý gây thiệt


SVTH: Trần Thị Yến

7

GVHD: Bùi Thị Phương Quỳnh


Bài tập lớp hình sự

hại nghiêm trọng đến tài sản. Động cơ và mục đích phạm tội có thể là có tính tư
lợi hoặc khơng.
Các tội xâm phạm sở hữu trong bộ luật hình sự Việt Nam gồm 13 tội và
được quy định từ Điều 133 đến Điều 145. Đó là các tội:
- Tội cướp tài sản;
- Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản;
- Tội cưỡng đoạt tài sản;
- Tội cướp giật tài sản;
- Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản;
- Tội trộm cắp tài sản;
- Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản;
- Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản;
- Tội chiếm giữ trái phép tài sản;
- Tội sử dụng trái phép tài sản;
- Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản;
- Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà
nước;
- Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản.
Cướp giật tài sản thuộc nhóm các tội xâm phạm sở hữu,và được quy
định tại Điều 136 của bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999( sửa đổi bổ sung năm

2009).
1.2 Định nghĩa
Trong các loại tội phạm hiện nay thì tội cướp giật tài sản đang là một vấn
đề nan giải đối với lực lượng công an cũng như các cơ quan chức năng. Hành vi
phạm tội của tội phạm ngày càng phức tạp và khó kiểm sốt. Xét về bản chất, tội
cướp giật tài sản như tên gọi của nó là nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác
và được thực hiện một cách cố ý. Người thực hiện hành vi cướp giật phải là
người có mục đích chiếm đoạt từ trước và thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản
của chủ sở hữu bằng cách nhanh chóng giật, giành lấy tài sản. Việc giật, giằng
SVTH: Trần Thị Yến

8

GVHD: Bùi Thị Phương Quỳnh


Bài tập lớp hình sự

tài sản này được diễn ra một cách công khai. Chủ thể của tội phạm cũng khơng
hề có ý định che dấu hành vi phạm tội của mình đối với chủ sở hữu cũng như
đối với những người xung quanh. Trong quá trình thực hiện, tội phạm có thể
phải dùng đến một tác động lực nhất định nhưng là để chiếm đoạt tài sản một
cách nhanh chóng khơng cho chủ sở hữu kịp phản ứng. Như vậy, chủ sở hữu tuy
biết hành vi chiếm đoạt đó xảy ra nhưng do diễn ra khá nhanh nên chưa kịp phản
ứng.
Như vậy, ta có thể rút ra định nghĩa như sau: Tội cướp giật tài sản là “
hành vi nhanh chóng, cơng khai chiếm đoạt tài sản của chủ thể có năng lực
trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý ”.
sự chúng ta có thể đi sâu và làm sáng tỏ bản chất xã hội cũng như bản
chất pháp lý qua các dấu hiệu pháp lí của tội cướp giật tài sản.

1.3 Các dấu hiệu pháp lí về tội cướp giật tài sản quy định tại Điều
136 Bộ luật Hình sự năm 1999( sửa đổi bổ sung năm 2009)
1.3.1 Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị
tội phạm xâm hại.
Cũng như các tội phạm có tính chiếm đoạt trong phần các tội phạm sở
hữu, tội cướp giật tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản nhưng được thực hiện
một cách công khai, nhanh chóng để tránh sự phản kháng của chủ tài sản. Tội
cướp giật tài sản trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu của người khác đối với tài
sản của họ. Như vậy, ở tội cướp giật tài sản, khách thể của nó là quan hệ sở hữu
tài sản và quan hệ này được nhà nước bảo vệ. Khách thể của tội cướp giật tài sản
nằm ngoài ý thức và tồn tại độc lập với ý thức của chủ thể và nó bị tội phạm
cướp giật tài sản gây thiệt hại khi người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội của
mình.
Tuy nhiên, yếu tố khách thể của tội cướp giật tài sản chỉ giúp ta xác định
một hành vi nào đó có xâm phạm sở hữu hay khơng và để phân biệt với một số
tội trong nhóm chiếm đoạt khi hành vi đó gây ra sự xâm hại cho nhiều khách thể
SVTH: Trần Thị Yến

9

GVHD: Bùi Thị Phương Quỳnh


Bài tập lớp hình sự

khác nữa như: tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản,… vì ngồi
quan hệ sở hữu thì hành vi vi phạm đó cịn xâm hại đến tính mạng, sức khỏe
thuộc quan hệ nhân thân.
Chủ thể thực hiện hành vi cướp giật tài sản bao giờ cũng nhằm vào tài sản

nhất định của chủ thể nhất định, khơng phân biệt thuộc hình thức sở hữu nào. Do
đó, tài sản bị tội phạm nhắm tới nằm trong và là bộ phận của khách thể cụ thể là
quan hệ sở hữu. Nó chính là đối tượng tác động của tội cướp giật tài sản.
1.3.2 Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm
những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan.
Theo quy định của điều 136 Bộ luật hình sự thì mặt khách quan của tội
cướp giật tài sản sẽ được phân tích như sau:
Về hành vi phạm tội: là cách xử sự trái pháp luật hình sự và nguy hiểm
cho xã hội. Hành vi cướp giật tài sản là hành vi của chủ thể nhất định với ý thức
chiếm đoạt tài sản của người khác. Dấu hiệu chiếm đoạt trong tội cướp giật tài
sản là một dấu hiêu bắt buộc dù tài sản là đối tượng của hành vi chiếm đoạt đó
bị chiếm đoạt hồn tồn hay chưa.
Tuy nhiên, chủ thể của tội phạm có thể lựa chọn các cách thức, thủ đoạn
chiếm đoạt khác nhau như: lén lút, công khai, dùng vũ lực, đe dọa,…Qua việc
tìm hiểu định nghĩa khoa học của tội cướp giật tài sản thì hành vi chiếm đoạt ở
tội cướp giật tài sản có hai dấu hiệu đặc trưng, cơ bản ngoài các dấu hiệu khác ở
mặt khách quan để phân biệt với các tội khác đó là dấu hiệu cơng khai và dấu
hiệu nhanh chóng.
* Dấu hiệu cơng khai: Đây là dấu hiệu có tính khác biệt với một số loại
tội phạm khác. Dấu hiệu này chỉ tính chất khách quan của hành vi chiếm đoạt là
diễn ra một cách công khai với mọi người xung quanh và với cả chủ thể. Đồng
thời dấu hiệu này cũng thể hiện ý thức chủ quan của người phạm tội là không hề
giấu giếm hành vi của mình đối với người xung quanh và chủ tài sản. Chính vì
vậy, dấu hiệu cơng khai trở thành dấu hiệu không thể thiếu khi nghiên cứu mặt
SVTH: Trần Thị Yến

10

GVHD: Bùi Thị Phương Quỳnh



Bài tập lớp hình sự

khách quan của tội cướp giật tài sản. Nó là điểm đặc trưng khá cơ bản của tội
cướp giật tài sản giúp các nhà làm luật phân biệt với các tội khác cũng xâm
phạm đến quan hệ sở hữu. Ví dụ: Ngày 20/10/2007, chị Nguyễn Thị A đi xe máy
chở con đi chơi, khi đang dừng xe chờ đèn xanh ở ngã tư Nguyễn Văn Cừ - Lê
Hồng Phong thì Phạm Văn T đi xe gắn máy áp sát giật túi xách chị A kẹp ở giá
đèo hàng giữa xe. Chị A sau khi bị giật đã phát hiện và hơ hốn ngay nhưng T đã
cầm túi và phóng xe chạy mất. Tong trường hợp này, chị A có biết việc bị cướp
và đã hơ hốn cho mọi người biết, T thì cơng khai, khơng hề giấu giếm hành vi
cướp của mình đối với chị A và mọi người xung quanh khi thực hiện hành vi
ngay giữa ngã tư đông người.
Thứ hai, dấu hiệu công khai của tội cướp tài sản đòi hỏi ý thức chủ quan
của người phạm tội khi thực hiện hành vi chiếm đoạt dù biết hành vi của mình
có khả năng bị phát hiện ngay khi hành vi phạm tội xảy ra nhưng khơng hề có ý
định che giấu đối với chủ sở hữu, người quản lí tài sản và những người xung
quanh. Ở đây, người phạm tội nhận thức được hành vi của mình sẽ bị phát hiện
ngay nhưng chủ quan cho rằng mình sẽ thốt được sự đuổi bắt của mọi người.
Ví dụ: A và B đang đi xe máy trên đường vào giờ cao điểm thì thấy cháu Trần
Thị L đang đị bộ cùng chiều, trên cổ có đeo một dây chuyền vàng. A,B chờ L sơ
hở liền áp sát và giật đi sợi dây chuyền trên cổ cháu L. Ở đây, cả A và B đều ý
thức được hành vi của minh sẽ bị phát hiện ngay tức khắc vì đang giờ ca điểm,
mọi người qua lại rất đông, và sợi dây lại nằm trên cổ của L nên bị phát hiện là
điều chắc chắn. Tuy nhiên, hai người vẫn chọn cách thực hiện hành vi đó vì họ
cho rằng họ có thể chạy thốt sự truy bắt của người dân xung quanh.
* Dấu hiệu nhanh chóng: Đây là dấu hiệu đặc thù nhất, bắt buộc phải có
trong mặt khách quan của tội cướp giật tài sản và được dùng làm tiêu chí để
phân biệt với cấu thành của các tội khác. Dấu hiệu này phản ánh phương thức

thực hiện hành vi chiếm đoạt của người phạm tội một cách khẩn trương, vội vã.
Khi thực hiện tội phạm, người phạm tội lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu, nhanh
chóng tiếp cận, chiếm đoạt tài sản và nhanh chóng tẩu thốt. Dấu hiệu này bao
SVTH: Trần Thị Yến

11

GVHD: Bùi Thị Phương Quỳnh


Bài tập lớp hình sự

trùm tồn bộ q trình phạm tội từ khi bắt đầu đến khi kết thúc. Tuy nhiên để
đánh giá thế nào là nhanh chóng thì ta phải xét đến yếu tố tài sản, vị trí, hồn
cảnh, mật độ người qua lại. Chính nhờ dấu hiệu nhanh chóng mà ta có thể phân
biệt tội cướp giật tài sản với một số tội khác cùng một khách thể bị xâm phạm vì
trong mặt khách quan của bất cứ tội phạm nào cũng khơng cần dấu hiệu nhanh
chóng.
Ngồi hai dấu hiệu cơ bản trên thì cịn có một số dấu hiệu phụ để cấu
thành nên mặt khách quan của tội phạm đó là sự sơ hở của chủ sở hữu, dấu hiệu
dùng vũ lực, hành hung để tẩu thoát,…
* Hậu quả phạm tội: Là sự thiệt hại cụ thể, đáng kể do các hành vi phạm
tội gây ra cho các khách thể được bảo vệ bằng pháp luật hình sự. Các nhà làm
luật quy định tôi cướp giật tài sản có cấu thành vật chất. Hậu quả của tội cướp
giật tài sản xuất hiên ngay sau khi hành vi đó được thực hiện. Vì vậy hậu quả
của tội phạm là dấu hiệu bắt buộc phải có trong mặt khách quan của tội phạm
này. Khi tội phạm hồn thành thì hậu quả trên thực tế đó xảy ra qua sự biến đổi
nhất định trong thực tế dưới dạng thiệt hại về vật chất hoặc phi vật chất.
Trong thực tế xét xử, hành vi chiếm đọat trong tội cướp giật tài sản phải
được hiểu là người phạm tội đó chiếm đoạt, tức là nó gây hậu quả trên thực tế

qua sự biến đổi nhất định trong thực tế khách quan, cho dù người phạm tội đó đã
thực sự chiếm đoạt được hay chưa. Hậu quả này phải có này phải có mối quan
hệ nhân quả với hành vi. Hành vi chiếm đoạt coi là bắt đầu khi người phạm tội
bắt đầu thực hiện việc làm mất khả năng chiếm hữu của chủ tài sản, để tạo khả
năng đó cho mình. Khi người phạm tội đó làm chủ được tài sản chiếm đoạt thì
lúc đó hành vi chiếm đoạt được coi là hoàn thành, người phạm tội được coi là
chiếm đoạt tài sản. Không phải trong tất cả mọi trường hợp việc chiếm đoạt thể
hiện như nhau, mà để kết luận việc chiếm đoạt hay chưa phải dựa vào đặc điểm,
vị trí, cách thức giữ tài sản chiếm đoạt thì mới thể hiện được ý thức của hành vi
thực tế mà người phạm tội đó thực hiện.

SVTH: Trần Thị Yến

12

GVHD: Bùi Thị Phương Quỳnh


Bài tập lớp hình sự

1.3.3 Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ
tuổi luật định và thực hiện hành vi phạm tội cụ thể.
Như vậy chủ thể của tội phạm theo quy định của pháp luật hình sự hiện
hành chỉ có thể là cá nhân cụ thể, pháp luật hình sự khơng cơng nhận pháp nhân
là chủ thể của tội phạm.
Trong chương các tội xâm phạm sở hữu, ngoài hai tội thiếu trách nhiệm
gây thiệt hại đến tài sản của nhà nước và tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến
tài sản là chủ thể thực hiện hành vi với lỗi vơ ý. Cịn các tội cịn lại, trong đó có
tội cướp giật tài sản chủ thể tội phạm phải thực hiện với lỗi cố ý. Người có hành

vi chiếm đoạt phải có mục đích chiếm đoạt từ trước khi hành động. Họ mong
muốn hậu quả xảy là là chiếm đoạt được tài sản của chủ sở hữu.
Cũng như mọi loại tội phạm khác, tội cướp giật tài sản được cấu thành từ
bốn yếu tố. Chủ thể là một trong bốn yếu tố hình thành nên cấu thành tội phạm
của tội cướp giật tài sản.
Chủ thể của tội cướp giật tài sản là chủ thể thường vì thế chỉ địi hỏi có
năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định.
Năng lực trách nhiệm hình sự là điều kiện cần thiết để có thể xác định
người có lỗi khi họ thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Người có năng lực
trách nhiệm hình sự là người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả
năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và có
khả năng điều khiển được hành vi ấy. Theo luật hình sự Việt Nam quy định thì
người có năng lực trách nhiệm hình sự là người đạt độ tuổi luật định và khơng
thuộc các trường hợp ở trong tình trạng khơng có năng lực trách nhiệm hình sự (
Điều 13, bộ luật hình sự).
Người đạt độ tuổi luật định được quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự: “
Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.

SVTH: Trần Thị Yến

13

GVHD: Bùi Thị Phương Quỳnh


Bài tập lớp hình sự

Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình
sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.
Như vậy, chủ thể của tội cướp giật tài sản là người có năng lực trách

nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định.
1.3.4 Mặt chủ quan của tội phạm
Mặt chủ quan của tội phạm là hoạt động tâm lí bên trong của người phạm
tội.
Với tội cướp giật tài sản thì mặt chủ quan bao gồm yếu tố lỗi, mục đích
phạm tội và động cơ.
Đối với tội cướp giật tài sản người phạm tội nhận thức được hành vi của
mình, thực hiện hành vi đó một cách cơng khai mà khơng hề giấu giếm. Người
phạm tội mong muốn bằng hành vi của mình làm chủ tài sản không kịp phản
ứng ngăn cản việc chiếm đoạt tài sản nên không cần dùng bất cứ thủ đoạn nào
để đối phó trực tiếp với chủ tài sản để thực hiện thành công việc chiếm đoạt tài
sản của họ. Người phạm tội biết tài sản thuộc sở hữu của người khác nhưng vẫn
muốn chiếm đoạt cho bằng được. Như vậy, người phạm tội đó có dấu hiệu cố ý
đối với hành động bất hợp pháp của mình. Khi đó, người phạm tội có lỗi trong
việc thực hiện hành vi cướp giật tài sản của minh.
Ở đây, hậu quả của tội phạm là bắt buộc nên người cố ý phạm tội khơng
những nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà ngay khi
thực hiện hành vi đó thì cũng thấy trước hậu quả của nó.
Mục đích phạm tội có thể hiểu là kết quả trong tương lai mà người phạm
tội hình dung và mong muốn đạt được bằng việc thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội bị pháp luật hình sự cấm. Mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt
buộc trong mặt chủ quan của tội cướp giật tài sản. Chiếm đoạt khơng chỉ là mục
đính mà phải thực hiện trong thực tế. Nếu khơng phải mục đích đó thì hành vi
thực hiện đó khơng phải là cướp giật tài sản.
Động cơ phạm tội không được pháp luật quy định cụ thể nhưng có thể
hiểu là động lực bên trong thúc đẩy quyết tâm của người phạm tội thực hiện
SVTH: Trần Thị Yến

14


GVHD: Bùi Thị Phương Quỳnh


Bài tập lớp hình sự

hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật hình sự cấm. Người phạm tội mong
muốn chiếm đoạt tài sản của người khác để phục vụ nhu cầu tư lợi của mình.
Chính động cơ tư lợi này thúc đẩy, tạo quyết tâm thực hiện tội phạm đến cùng
người phạm tội cướp giật tài sản
1.4 Đường lối xử lí đối với tội cướp giật tài sản quy định tại Điều 136
Bộ luật hình sự năm 1999 ( sửa đổi bổ sung năm 2009)
Qua quá trình thực tiễn điều tra xét xử, qua hai lần pháp điển hóa thì Nhà
nước ta đã cho ra đời một Bộ luật hình sự 1999 quy định đầy đủ về loại tội phạm
cướp giật tài sản tại Điều 136 với bốn khung hình phạt, thay thế cho ba khung
hình phạt tại Bộ luật hình sự 1985, thể hiện sự nghiêm khắc của pháp luật đối
với các hành vi phạm tội.
1.4.1 Khung hình phạt cơ bản
Theo Điều 26 Bộ luật hình sự Việt Nam: “ Hình phạt là biện pháp cưỡng
chế nghiêm khắc nhất của nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích
của người phạm tội”.
Đối với tội Cướp giật tài sản thì luật quy định khung hình phạt cơ bản là
khung hình phạt có mức phạt tù có thời hạn ít nhất. Ở tội cướp giật tài sản thì
khung cơ bản có mức phạt tù từ một năm đến năm năm.
1.4.2 Khung hình phạt tăng nặng thứ nhất
Khung hình phạt tăng nặng thứ nhất có mức hình phạt tù từ ba năm đến
mười năm.
Khung hình phạt này được áp dụng cho trường hợp phạm tội có một trong
những tình tiết định khung tăng nặng sau:
- Có tổ chức;
Phạm tội có tổ chức tức là trường hợp đồng phạm đặc biệt, là trường hợp

phạm tội có hai người trở lên, có sự cấu kết chặt chẽ giữa nhừng người phạm tội,
có sự bàn bạc, phân cơng giữa những người thực hiện tội phạm. Loại hình thức
này có xu hướng ngày càng tăng lên, gây thiệt hại lớn về tài sản.
- Có tính chất chun nghiệp;
SVTH: Trần Thị Yến

15

GVHD: Bùi Thị Phương Quỳnh


Bài tập lớp hình sự

Phạm tội có tính chất chun nghiệp ở đây có nghĩa là người phạm tội đã
liên tiếp phạm tội xâm phạm sở hữu và coi việc phạm pháp như là nguồn thu
nhập chính. Người phạm tội cố ý phạm tội cùng một loại tội phạm. Lấy các lần
phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn thu
nhập. Những kẻ phạm tội có tính chất chun nghiệp trong cướp giật tài sản
thường là những phần tử sa đọa, biến chất... nên hành vi phạm tội của chúng
mang tính chất nguy hiểm cao cho xã hội.
- Tái phạm nguy hiểm;
Phạm tội tái phạm nguy hiểm nghĩa là người phạm tội đó bị kết án về loại
tội rất nghiêm trọng trở lên chưa được xóa án tích mà lại phạm tội rất nghiêm
trọng trở lên do cố ý. Tức là người phạm tội đó bị phạt tù về tội rất nghiêm
trọng, đặc biệt nghiêm trọng do lỗi cố ý, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội
cướp giật tài sản có tình tiết tăng nặng định khung.
- Dùng thủ đoạn nguy hiểm khác;
Là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi nhanh chóng chiếm đoạt
tài sản bằng thủ đoạn mà có thể gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của chủ
sở hữu hoặc người quản lí tài sản. Dùng thủ đoạn nguy hiểm là biểu hiện của sự

quyết tâm chiếm đoạt cho bằng được tài sản của người phạm tội nhưng có tính
nguy hiểm cao, đe dọa đến tính mạng, sức khỏe của người bị hại như dùng xe
mô tô, xe máy để thực hiện hành vi cướp giật tài sản hoặc cướp giật tài sản của
người đang đi xe mơ tơ, xe máy… Do vậy, tính chất, mức độ của tội phạm nguy
hiểm hơn nhiều so với phạm tội cướp giật tài sản bình thường. Hiện nay, đây là
thủ đoạn đang được bọn tội phạm cướp giật sử dụng nhiều nhất.
- Hành hung để tẩu thoát;
Là trường hợp người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã
chiếm đoạt tài sản nhưng sau đó bị phát hiên ngay lập tức, bị bắt giữ hoặc bị bao
vây bắt giữ thì đã có những hành vi chống trả lại ngừoi bắt giữ, người bao vây
bắt giữ như đánh, chém, bắn, xơ đẩy… nhằm tẩu thốt. Người phạm tội sau khi
bị phát hiện đã dùng các cách khác nhau để chống trả.Việc chống trả này không
SVTH: Trần Thị Yến

16

GVHD: Bùi Thị Phương Quỳnh


Bài tập lớp hình sự

địi hỏi có gây thương tích đáng kể hay khơng. Mục đích của việc chống trả là
nhằm để tẩu thốt
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với tỉ lệ
thương tật từ 11% đến 30%;
Đây là trường hợp người phạm tội đã cố ý hoặc vơ ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe người bị tấn công.
- Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm
triệu đồng;
- Gây hậu quả nghiêm trọng.

Hậu quả nghiêm trọng ở đây có thể là những ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị
an mà hành vi cướp giật gây ra.
1.4.3 Khung hình phạt tăng nặng thứ hai
Khung hình phạt tăng nặng thứ hai có mức phạt tù từ bảy năm tù đến
mười lăm năm.
Khung này được áp dụng cho trường hợp phạm tội có một trong các tình
tiết định khung tăng nặng sau:
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với tỷ lệ
thương tật từ 31% đến 60%;
- Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm
triệu đồng;
- Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
1.4.4 Khung hình phạt tăng nặng thứ ba
Khung tăng nặng thứ ba có mức phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi
năm hoăc tù chung thân.
Khung hình phạt này được áp dụng cho trường hợp phạm tội có một trong
những tình tiết định khung tăng nặng sau:
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với tỷ lệ
thương tật từ 61% trở lên hoặc gây chết người;

SVTH: Trần Thị Yến

17

GVHD: Bùi Thị Phương Quỳnh


Bài tập lớp hình sự

Gây chết người là trường hợp người bị tấn công chết nhưng nguyên nhân

trực tiếp dẫn đến cái chết của nạn nhân không phải là do hành vi phạm tội gây
ra mà là hoàn toàn nằm ngoài ý muốn của kẻ phạm tội và một số nguyên nhân
khách quan khác, ví dụ do bị giật tài sản mà người đó bị ngã, đập đầu xuống
đường rồi dẫn đến chết người.
- Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
- Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
1.4.5 Hình phạt bổ sung
Ngồi các hình phạt chính là hình phạt tù thuộc các khung hình phạt nói
trên thì đối với tội cướp giật tài sản cịn có thể áp dụng thêm hình phạt bổ sung
được quy định tại điều luật này là: “ Người phạm tội cịn có thể bị phạt tiền từ
mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng”.
Tội cướp giật tài sản là loại tội xâm phạm đến quan hệ sở hữu của chủ sở
hữu. Nó đe dọa gây hại trực tiếp đến vật chất cho chủ sở hữu tài sản. Do vậy,
trong phần chế tài, các nhà làm luật quy định hình phạt tiền là là hình phạt bổ
sung để Tịa án có thể tự lựa chọn áp dụng nhằm trừng phạt về vật chất nhất định
đối với người phạm tội. Việc áp dụng chế tài này là nhằm tước đi một khoản tiền
nhất định của người phạm tội để sung vào công quỹ của Nhà nước mà mức tối
thiểu là 10 triệu đồng và tối đa là 100 triệu đồng.
1.5 Phân biệt tội cướp giật tài sản với một số tội xâm phạm sở
hữu khác
1.5.1 Phân biệt tội cướp giật tài sản với tội cướp tài sản
- Về cơ sở pháp lí:
+> Tội cướp giật tài sản: Quy định tại Điều 136 Bộ luật hình sự.
+> Tội cướp tài sản: Quy định tại Đều 133 Bộ luật hình sự.
- Về mặt khách quan của tội phạm:
+> Tội cướp giật tài sản: Hành vi cơng khai, nhanh chóng, lợi dụng sơ hở
của chủ tài sản hoặc người quản lí tài sản để chiếm đoạt.

SVTH: Trần Thị Yến


18

GVHD: Bùi Thị Phương Quỳnh


Bài tập lớp hình sự

+> Tội cướp tài sản: Hành vi dùng vũ lực, hành vi đe dọa dùng vũ lực
ngay tức khắc, hành vi làm cho người bị tấn cơng lâm vào tình trạng khơng thể
chống cự được.
- Về khug hình phạt cơ bản:
+> Tội cướp giật tài sản: Phạt tù từ một năm đến ba năm.
+> Tội cướp tài sản: Phạt tù từ ba năm đến mười năm.
- Về khung hình phạt tăng nặng thứ ba:
+> Tội cướp giật tài sản: Phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, hoặc
tù chung thân.
+> Tội cướp tài sản: Phạt tù từ mười tám năm đến hai mươi năm, tù chung
thân hoặc tử hình.
- Về hành vi hành hung để tẩu thốt:
+> Tội cướp giật tài sản: Có.
+> Tội cướp tài sản: Khơng có.
1.5.2 Phân biệt tội cướp giật tài sản với tội trộm cắp tài sản
- Về cơ sở pháp lí:
+> Tội cướp giật tài sản: Quy định tại Điều 136 Bộ luật hình sự.
+> Tội trộm cắp tài sản: Quy định tại Điều 138 Bộ luật hình sự.
- Về dấu hiệu pháp lí:
+> Tội cướp giật tài sản: Cơng khai, nhanh chóng,…
+> Tội trộm cắp tài sản: Lén lút, hành vi được thực hiện trong khi tài sản
đang do chủ sở hữu nắm giữ như trộm tiền đang nằm trong túi xách,...
- Về hình phạt:

+> Tội cướp giật tài sản: Khung hình phạt cơ bản là phạt tù từ một năm
đến ba năm..
+> Tội trộm cắp tài sản: Khung hình phạt cơ bản là phạt cải tạo không
giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm..

SVTH: Trần Thị Yến

19

GVHD: Bùi Thị Phương Quỳnh


Bài tập lớp hình sự

Chương 2: Thực trạng của tội Cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố
Vinh – tỉnh Nghệ An trong giai đoạn 2010-2012 và các giải pháp
2.1 Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của thành phố
Vinh – tỉnh Nghệ An
Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, nhiều quan hệ xã hội cũng
phát triển phức tạp và đa dạng. Đặc biệt khi xuất hiện sở hữu tư nhân thì các
quan hệ trong xã hội càng trở nên gay gắt và trong xã hội hình thành các tập hợp
người có lợi ích giống nhau gọi là giai cấp. Một bộ phận khơng ít trong xã hội
muốn lợi ích về tinh thần cũng như vật chất nhiều hơn những người khác nhưng
lại ít phải lao động xuát hiện ngày càng nhiều. Đây chính là mầm mống của tội
phạm. Các nhà nước trên thế giới, muốn duy trì ổn định xã hội và kéo dài thời
gian quản lí xã hội cần thiết phải có một hệ thống pháp luật và luật hình sự là
thước đo cho các chuẩn mực xã hội. Chính từ khi có sự xuất hiện của pháp luật
hình sự, tội phạm đã bắt đầu được miêu tả và nhận dạng là một hành vi gây ra
hoặc đe dọa gây ra một nguy hiểm cho xã hội – pháp lý gắn liền với sự ra đời
của Nhà nước và pháp luật, cũng như sự xuất hiện của sở hữu tư nhân và sự

phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng, có nguồn gốc xuất phát từ xã hội
và mang tính xã hội. Tội phạm có sự liên hệ với các hiên tượng xã hội và các
điều kiện tồn tại xã hội. Chính vì vậy, khi nghiên cứu về tình hình tội cướp giật
trên địa bàn thành phố Vinh – tỉnh Nghệ An là chúng ta nghiên cứu nó với các
mối quan hệ với tình hình tội phạm chung và tình hình các điều kiện, đặc điểm
về mọi mặt đời sống, kinh tế, xã hội,...của thành phố Vinh. Để từ đó ta có thể rút
ra các nhận thức được đầy đủ, đúng đắn hiện tượng xã hội này và có cơ sở đề ra
các biện pháp tác động, làm chuyển biến tình hình tội phạm nói chung và tội
cướp tài sản nói riêng.
2.1.1Điều kiện tự nhiên
SVTH: Trần Thị Yến

20

GVHD: Bùi Thị Phương Quỳnh


Bài tập lớp hình sự

Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, với hơn 54 dân tộc anh em, trong đó
chủ yếu là dân tộc Kinh, được phân bố rộng khắp cả nước. Cả nước được chia
thành 64 đơn vị hành chính, và phân làm bảy khu vực kinh tế dựa vào sự tương
đồng về mặt văn hóa, phong tục tập qn, sản xuất, khí hậu đó là Trung du miền
núi Bắc Bộ; đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ,duyên hải Nam Trung Bộ, Tây
Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long.
Nghệ An là một trong sáu tỉnh thuộc khu vực Bắc Trung Bộ, có phía Bắc
giáp với tỉnh Thanh Hóa, phía đơng giáp biển Đơng, phía Tây giáp Lào. Gồm 1
thành phố trực thuộc tỉnh là thành phố Vinh, 2 thị xã và 17 huyện lị.
Thành phố Vinh có lịch sử lâu đời, trải qua bao thế kỉ từ Kẻ Vạn ( tiếng
Nôm), kẻ Vịnh ( tiếng Hán), rồi Vĩnh Giang, Vĩnh Doanh sau chuyển thành

Vĩnh Thị. Và sau đó người Tây Âu gọi là Vinh kể từ năm 1789. Vinh có vị trí địa
lý thuận lợi, có tuyến đường sắt Bắc – Nam chạy qua, có Quốc lộ 1A, sân bay
Vinh, bến xe, ga tầu. Ở đây hội tụ đầy đủ nhất những tinh hoa của văn hóa xứ
Nghệ.
Vinh là thành phố duy nhất của tỉnh Nghệ An, với diện tích là 104,96
km2, dân số là 435,208 người ( thống kê số liệu năm 2010).
Với rất nhiều thuận lợi về mặt tự nhiên là địa hình đồng bằng, giao thơng
thuận lợi, khí hậu ổn định, ít chịu thiên tai, lũ lụt. Và đặc biệt là được bao bọc
bởi biển vì giáp với thị xã Cửa Lị – là một vùng biển ít khị chịu ảnh hưởng của
các trận bão lớn.
Thành phố Vinh đã được thiên nhiên ưu ái ban tặng cho rất nhiều điều
kiện thuận lợi về tự nhiên để phát triển và từ đó trở thành trung tâm chính trị,
văn hóa, kinh tế - xã hội của khu vực Bắc miền Trung.
2.1.2Điều kiện về kinh tế - xã hội
Trải qua thời kì kinh tế bao cấp, ngày nay thành phố Vinh đã có nhiều đổi
mới, đã có một bộ mặt hoàn toàn khác. Kể từ khi Nhà nước ta có chủ trương
chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường, cùng với sự thay đổi trên toàn quốc, Vinh
đã có thêm nhiều cơ hội về việc làm, nâng cao mức thu nhập, đời sống người
SVTH: Trần Thị Yến

21

GVHD: Bùi Thị Phương Quỳnh


Bài tập lớp hình sự

dân được nâng lên. Chình vì đây là trung tâm kinh tế của khu vực Bắc Trung bộ
nên số lượng dân cư tập trung về đây khá đơng, vượt q khả năng kiểm sốt
của các cơ quan chức năng.

Vinh là một thành phố rất đông đúc dân cư, đặc biệt là sau khi lên đô thị
loại 1 thì số dân ngày càng tăng nhanh một phần do dân nhập cư từ các vùng lân
cận, các vùng miền trong tỉnh cũng như các tỉnh khác trong cả nước tập trung về
đây để làm ăn, sinh sống và học tập. Đây là điều kiện vô cùng thuận lợi cho việc
phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là vào các khu công nghiệp, các công ty may
mặc, sản xuất… Đây quả thật là một thế mạnh mà không phải ở đâu cũng có, vì
thế các cơ quan chức năng đã phát huy hết tiềm năng ở mọi lĩnh vực nhằm thu
hút đầu tư để phát triển kinh tế của toàn thành phố và đáp ứng được phần lớn
nhu cầu việc làm cho người dân, đặc biệt là cho tầng lớp thanh, thiếu niên đến
tuổi lao động.
Thành phố Vinh có tuyến quốc lộ 1A, có tuyến đường sắt Bắc - Nam chạy
qua, có sân bay Vinh, rất nhiều hệ thống chợ, siêu thị mua sắm. Đây là điều kiện
thuận lợi cho việc phát triển kinh tế toàn thành phố, tạo thuận lợi cho giao thông
đi lại, buôn bán trao đổi hàng hóa với các khu vực khác trong cả nước.
Là trung tâm đầu mối phát triển của cả tỉnh Nghệ An, Vinh nhiều lợi thế
để phát triển hơn nữa bởi có rất nhiều nguồn nguyên liệu tập trung lân cận nó.
Trước hết ta phải kể đến là nguồn khống sản ở miền Tây xứ Nghệ. Với 113
vùng mỏ lớn nhỏ, 171 điểm quặng. Nổi bật là mỏ than mỡ ở Khe Bố, than nâu ở
Nghĩa Đàn, sắt ở Nghi Lộc và Thanh Chương, Mângn ở Rú Thành ( Hưng
Nguyên), thiếc ở Qùy Hợp và Quế Phong, đá vôi, đá xây dựng ở Quỳnh Lưu, đất
sét, nước khoáng và Vàng,… Tiếp đến là nguồn lợi thủy hải sản từ biển Cửa Lị,
muối ở vùng biển Quỳnh Lưu… Chính những nguồn ngun liệu này đã tạo đà
phát triển cho ngành công nghiệp chế biến, dịch vụ cho thành phố Vinh.
Khi nhắc đến thành phố Vinh ta không thể không nhắc đến sự phát triển
của du lịch. Các tour du lịch từ thành phố đi thăm khu di tích quê nội, quê ngoại

SVTH: Trần Thị Yến

22


GVHD: Bùi Thị Phương Quỳnh


Bài tập lớp hình sự

Chủ tịch Hồ Chí Minh, khu di tích Trng Bồn, Quảng trường Hồ Chí Minh, bãi
tắm Cửa Lò,…
Đặc biệt là về cơ sở hạ tầng, khoa học kĩ thuật của tồn thành phố đã có
những chuyển biến vượt bậc, đã đáp ứng được đa phần nhu cầu của tồn bộ
người dân, và từ đó tạo đà cho việc đón nhận những tiến bộ về máy móc, trang
thiết bị tối tân do các nước công nghiệp sáng chế.
Ngồi ra thì thành phố Vinh cũng là nơi tập trung nhiều trường đại học,
cao đẳng, trung cấp. Vì thế mà hàng năm, lượng học sinh, sinh viên cư trú ở đây
đều rất cao.
Từ những điều kiện về kinh tế - xã hội nói trên, Vinh đã thay đổi hồn
tồn bộ mặt thành phố, xứng đáng là đô thị loại 1 của cả nước và đang từng
bước đưa nền kinh tế của mình phát triển vững mạnh.
2.2 Thực trạng tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Vinh –
tỉnh Nghệ An giai đoạn 2010-2012
Cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế, cùng với sự phát triển của xã hội thì
kéo theo đó là tình hình tội phạm cũng có nhiều sự biến đổi về số lượng, phạm
vi, tính chất và mức độ gây ảnh hưởng xấu đến an ninh chính trị, trật tự an tồn
xã hội và ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư kinh doanh. Trước tình hình đó
thì Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, biện pháp cấp bách tăng cường
an ninh, trật tự xã hội, cùng với các biện pháp tăng cường quản lý nhà nước
thơng qua việc củng cố, kiện tồn bộ máy, tổ chức Nhà nước và hệ thống pháp
luật. Các chiến lược cải cách tư pháp đã được đề ra và phổ biến rộng rãi, hàng
loạt văn bản quy phạm được ban hành theo nguyên tắc công khai, minh bạch,
dân chủ. Tuy nhiên tình hình tội phạm cả nước nói chung và thành phố Vinh nói
riêng tuy có chững lại nhưng diễn biến phức tạp và vẫn có xu hướng sẽ tăng, cơ

cấu thành phần tội phạm có những biến đổi theo hướng đa dạng chứ không phải
chỉ tập trung vào các đối tượng lưu manh, chuyên nghiệp. Cũng khơng nằm
ngồi xu hướng đó, tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Vinh cũng có
những diễn biến phức tạp riêng của nó. Để đánh giá tồn diện tình hình tội cướp
SVTH: Trần Thị Yến

23

GVHD: Bùi Thị Phương Quỳnh


Bài tập lớp hình sự

giật tài sản trên địa bàn thành phố Vinh thì ta phải xem xét mối liên hệ của nó
với tình hình tội phạm nói chung xảy ra trên địa bàn thành phố Vinh.
* Tình hình tội phạm và sự tương quan đối với tội cướp giật tài sản trên
địa bàn thành phố Vinh
Thành phố Vinh – tỉnh Nghệ An là một thành phố lớn, là trung tâm của cả
tỉnh cũng như của khu vực Bắc Trung bộ. Tại đây các hoạt động chính trị, xã
hội, kinh doanh thương mại diễn ra ngày càng sôi động. Và đây cũng là môi
trường hoạt động lý tưởng cho tội phạm. Theo số liệu thống kê của Công an
thành phố Vinh thì trong giai đoạn 2010-2012, trên địa bàn thành phố Vinh đã
xảy ra 10.535 vụ phạm tội. Trong đó, Công an thành phố Vinh đã điều tra, khám
phá được 8.278 vụ. Cũng trong khoảng thời gian này, trên địa bàn đã xảy ra 565
vụ cướp giật tài sản, bình qn mỗi năm xảy ra 282,5 vụ. Trong đó Cơng an
thành phố Vinh đã điều tra, khám phá được 395 vụ, bắt giữ 578 đối tượng.
Trong hai năm, tình hình tội phạm nói chung có sự thay đổi tích cực về
mặt số học. Tuy nhiên nếu xem xét về cơ cấu tội phạm thì diễn biến của từng
loại tội phạm là khác nhau. Nhìn chung các loại tội có tính phổ biến, mức độ
nguy hiểm cho xã hội không cao như trộm cắp tài sản thì có vẻ chững lại, cịn tội

phạm có tính nguy hiểm cao hơn như trọng án, giết người thì lại tăng lên. Xét
tương quan tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội cướp giật tài sản trong
thời gian qua diễn biến không ổn định, lúc tăng lúc giảm. Diễn biến của tội cướp
giật tài sản tăng giảm bất thường, không giống các loại tội phạm nói chung. Sau
khi Bộ luật hình sự 1999 ra đời thì tội phạm nói chung có xu hướng giảm. Xem
xét mối tương quan giữa tội phạm nói chung là 10.535 vụ phạm tội, thì tội cướp
giật tài sản là 565 vụ, chiếm 5,3% là không lớn nhưng với tình hình hiện nay thì
diễn ra rất nguy hiểm và gây hoang mang trong quần chúng nhân dân. Trong
thời gian 2010-2012 thì tình hình khởi tố, xét xử đối với loại tội phạm cướp giật
tài sản tại Tòa án nhân dân thành phố Vinh là tương đối nhiều, đặc biệt có rất

SVTH: Trần Thị Yến

24

GVHD: Bùi Thị Phương Quỳnh


Bài tập lớp hình sự

nhiều vụ án với những thủ đoạn phạm tội vô cùng nguy hiểm và gây hậu quả lớn
về tài sản của người dân.
Qua điều tra và truy tố, xét xử thì ta thấy được là tội cướp giật tài sản tuy
không phải là tội phạm chiếm phần lớn trong các vụ án hình sự nhưng xét mặt
bằng chung thì mức độ nghiêm trọng của loại tội phạm này là rất lớn. Đặc biệt
với tình hình hiện nay thì xe máy là phương tiện chủ yếu dùng để phạm tội.
Chúng sử dụng xe phân phối lớn để giật tài sản của người dân đi trên đường, khi
bị phát hiện thì chúng tăng ga lạng lách bỏ chạy và gây ra rất nhiều vụ tai nạn
giao thông cho người đi đường.
* Về độ tuổi của những người phạm tội

Qua tìm hiểu, nghiên cứu thì ta rút ra được kết luận là tỷ lệ nhóm người
phạm tội từ 18-30 là cao nhất. Đa số người ở độ tuổi này mới rời ghế nhà trường
và khơng có cơng việc ổn định, kinh nghiệm sống khơng có trong khi mơi
trường xã hội thì càng ngày càng phức tạp và thường xuyên tác động xấu tới họ.
Các nhu cầu cá nhân thì ngày càng cao, cám dỗ vật chất lớn và các yếu tố xã hội
ảnh hưởng làm suy nghĩ tiêu cực, thích ăn chơi, kiếm tiền nhanh. Một phần do
độ tuổi này, người phạm tội có sự nhanh nhẹn, tâm lý thích thể hiện mình dẫn
đến những hành vi sai trái, những hành động thiếu suy nghĩ. Nhóm người phạm
tội trong độ tuổi này có xu hướng tăng dần.
Nhóm tuổi từ 30 tuổi trở lên chiếm tỉ lệ ít hơn. Vì ở độ tuổi này người
phạm tội đã có những suy nghĩ chín chắn hơn, có nhiều kinh nghiệm sống và họ
chọn cho mình hành vi phạm tội phù hợp với sức khỏe, thủ đoạn tinh vi, khó bị
phát hiện và hậu quả tội phạm lớn.
Ta không thể không kể đến đó là hiện tượng số trẻ vị thành niên phạm tội
ngày càng tăng mạnh và chiếm tỷ lệ khá cao. Đây là một vấn đề đáng lo ngại vì
ở độ tuổi này chưa phát triển đầy đủ về thể chất và trí tuệ, chưa trưởng thành
hồn tồn, dễ tiếp thu cái mới và dễ bị các hiện tượng bên ngoài tác động vào.
Hiện nay, rất nhiều học sinh bị lôi kéo vào các thú vui như đi nhảy, đi hát
karaoke, ăn diện ... hoặc bị mắc phải các tật xấu như bỏ học, nghiện đánh bài
SVTH: Trần Thị Yến

25

GVHD: Bùi Thị Phương Quỳnh


×