Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho thanh niên ở huyện yên định, tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.8 MB, 96 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
_________________________________________________________

LÊ THỊ THẢO

GIÁO DỤC Ý THỨC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
CHO THANH NIÊN Ở HUYỆN YÊN ĐỊNH,
TỈNH THANH HÓA

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

NGHỆ AN - 2016


1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
_________________________________________________________

LÊ THỊ THẢO

GIÁO DỤC Ý THỨC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
CHO THANH NIÊN Ở HUYỆN YÊN ĐỊNH,
TỈNH THANH HÓA

Chuyên ngành: LL và PPDH bộ mơn Giáo dục chính trị
Mã số: 60.14.01.11

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC



Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. TRẦN VIẾT QUANG

NGHỆ AN - 2016


2
LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành nhất, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới q
thầy, cơ giáo khoa Giáo dục chính trị và Phịng Đào tạo Sau đại học của trường
Đại học Vinh đã giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt q trình
học tập và nghiên cứu tại Trường để hồn thành Luận văn tốt nghiệp.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Trần Viết Quang
đã tận tình giúp đỡ tơi trong q trình học tập, nghiên cứu và hướng dẫn, đóng
góp ý kiến quý báu cho tơi hồn thành Luận văn thạc sĩ này.
Tơi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, các thầy cô Trường Trung cấp
nghề Yên Định, Trợ lý thanh niên trường THPT Yên Định I, trường THPT Trần
Ân Chiêm, các đồng chí Bí Thư, Phó Bí thư Huyện đồn, cùng các đoàn viên chi
đoàn huyện Yên Định, chi đoàn Trường Trung cấp nghề n Định, các đồn
viên chi đồn thơn Đắc Trí - xã Định Bình - huyện n Định, đã tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình phỏng vấn, khảo sát, điều tra để hồn
thành Luận văn tốt nghiệp.
Tơi xin cảm ơn gia đình, người thân và bạn bè đã động viên, giúp đỡ và
tạo điều kiện thuận lợi nhất trong suốt q trình tơi theo học chương trình sau
đại học.
Nghệ An, tháng 8 năm 2016
Tác giả

Lê Thị Thảo



3
MỤC LỤC

Trang
TRANG BÌA PHỤ ................................................................................................. 1
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................ 2
MỤC LỤC .............................................................................................................. 3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT .................................................................... 4
A. MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 5
B. NỘI DUNG...................................................................................................... 11
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC Ý THỨC BẢO VỆ
MÔI TRƯỜNG CHO THANH NIÊN ................................................................. 11
1.1. Những vấn đề lý luận về môi trường, bảo vệ môi trường và ý thức bảo
vệ môi trường .................................................................................................................. 11
1.2. Nội dung và phương thức giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho thanh
niên..................................................................................................................................... 35
1.3. Tầm quan trọng của việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho thanh
niên hiện nay ................................................................................................................... 42
Chương 2. THỰC TRẠNG GIÁO DỤC Ý THỨC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
CHO THANH NIÊN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN YÊN ĐỊNH, TỈNH THANH
HÓA ..................................................................................................................... 50
2.1. Những nhân tố tác động đến việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho
thanh niên ở huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa ...................................................... 50
2.2. Hoạt động giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho thanh niên trên địa
bàn huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa ...................................................................... 63
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
GIÁO DỤC Ý THỨC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG CHO THANH NIÊN Ở
HUYỆN YÊN ĐỊNH, TỈNH THANH HÓA ....................................................... 69

3.1. Quan điểm về nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho
thanh niên trên địa bàn huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa .................................. 69
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức bảo vệ môi
trường cho thanh niên trên địa bàn huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa............. 73
C. KẾT LUẬN ..................................................................................................... 89
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 91
E. PHỤ LỤC ........................................................................................................ 94


4
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1.

BVMT

:

Bảo vệ môi trường

2.

BVTV

:

Bảo vệ thực vật

3.


BCHTW

:

Ban chấp hành trung ương

4.

BTV

:

Ban thường vụ

5.

CNH, HĐH

:

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

6.

ĐVTN

:

Đồn viên thanh niên


7.

HLHTN

:

Hội liên hiệp thanh niên

8.

GDMT

:

Giáo dục môi trường

9.

LHQ

:

Liên hợp quốc

10. TNTN

:

Tài nguyên thiên nhiên


11. TDTT

:

Thể dục thể thao

12. UBND

:

Ủy ban nhân dân

13. UNEP

:

Chương trình Môi trường Liên hợp quốc

14. UNESCO

:

15. UBTV

:

Ủy ban thường vụ

16. VHVN


:

Văn hóa văn nghệ

Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp
quốc


5
A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo vệ môi trường sống xanh - sạch - đẹp là vấn đề đang được cả thế giới
quan tâm. Có rất nhiều hội nghị tầm cỡ toàn cầu hoặc khu vực đã được tổ chức
để bàn bạc và tìm ra hướng giải quyết nạn ô nhiễm môi trường nghiêm trọng
hiện nay. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường thì vấn đề về mơi
trường ngày càng đáng báo động như nạn cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, ô
nhiễm môi trường sống, suy giảm tính đa dạng sinh học và mất cân bằng sinh
thái đang đe dọa trực tiếp đến sự tồn tại, phát triển của con người và xã hội lồi
người. Ơ nhiễm mơi trường trên khắp địa cầu cùng đồng hành với sự phát triển
kinh tế. Sản xuất không ngừng phát triển tăng trưởng nhanh trong khi phải chú ý
đến việc giữ gìn hành tinh này để bàn giao cho thế hệ sau, bảo đảm một lợi ích
cần thiết và sự phát triển bền vững của mọi thế hệ. Đó cũng chính là thơng điệp
chung cho tất cả mọi người trên thế giới.
Điều đó sẽ khơng làm được khi mà vấn đề môi trường và giáo dục môi
trường trong xã hội, khi người dân nói chung, thanh niên nói riêng, chưa nhận
thức được vấn đề mơi trường và giáo dục môi trường một cách đầy đủ và
thường xuyên.
Nhân loại phải làm gì đây để bảo vệ mơi trường? Có rất nhiều giải pháp
song vấn đề hàng đầu vẫn là giáo dục tuyên truyền nâng cao nhận thức về tầm
quan trọng của môi trường và ý thức trách nhiệm của mỗi công dân trước cộng

đồng. Ở nước ta các văn bản luật cũng như các chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội, chính sách bảo vệ mơi trường và phát triển bền vững của Đảng và Nhà nước
đều nhận thức sự nghiệp bảo vệ môi trường ở Việt Nam là sự nghiệp chung của
toàn dân tộc. Thiếu sự tham gia của tồn dân thì sự nghiệp bảo vệ mơi trường
khơng thể thành cơng. Do đó Đảng và Nhà nước đang tìm mọi biện pháp để tăng
cường vai trị của tồn dân đối với việc bảo vệ mơi trường trong bối cảnh công


6
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hiện nay, tình trạng ơ nhiễm mơi trường, suy
thối mơi trường đang diễn biến ngày càng phức tạp, tính hạn chế của tài nguyên
thiên nhiên và khả năng chịu tải của môi trường, quan hệ chặt chẽ giữa môi
trường và phát triển, giữa địa phương, vùng, quốc gia với môi trường khu vực và
tồn cầu. Sự phát triển nhanh chóng của q trình đơ thị hóa kéo theo là tình
trạng ơ nhiễm các dịng sơng, nguồn nước, cạn kiệt các nguồn lực tài nguyên
thiên nhiên, gần đây nhất là ô nhiễm biển gây nên cá chết hàng loạt ở Vũng Áng
- Hà Tĩnh… ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống của con người
và sự phát triển bền vững.
Trong những năm qua, việc giáo dục ý thức môi trường cho người dân và
thanh niên tỉnh Thanh Hóa nói chung, huyện Yên Định nói riêng đã và đang
được tiến hành bằng những hình thức như: tuyên truyền trên thông tin đại chúng
hiện đang gặt hái được kết quả, thu hút sự quan tâm của nhân dân và thanh niên
về vấn đề môi trường và bảo vệ mơi trường. Nhưng những hình thức trên cịn
mang tính thời vụ, khơng liên tục, chưa đi vào chiều sâu, thiếu trọng tâm, trọng
điểm. Vấn đề môi trường ở huyện Yên Định chủ yếu là do các khu vực chợ, cụm
cơng nghiệp, cụm tuyến dân cư, tình trạng ao tù, nước đọng, rác thải sinh hoạt
hàng ngày của người dân, học sinh, người chăn nuôi nhỏ lẻ như ni heo, cá,
vịt... từ đó dẫn đến tình trạng rác, bọc nylon, bỏ vỏ thuốc trừ sâu, rầy, xác động
vật, nước thải chưa xử lý thải ra sông, kênh, rạch làm ô nhiễm nguồn nước, đất.
Vấn đề đặt ra là làm thế nào để khắc phục được những bất cập và nâng

cao chất lượng công tác giáo dục môi trường. Nhận thức được tầm quan trọng
của vấn đề này, tôi chọn vấn đề: “Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho thanh
niên ở huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa” làm đề tài luận văn Thạc sĩ.
Những năm qua, vấn đề về môi trường, bảo vệ môi trường được đề cập
đến trong các văn bản, chỉ thị của Đảng và Nhà nước như:


7
Ngày 17 tháng 10 năm 2001, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định
số 1363/QĐ-TTg phê duyệt đề án “Đưa các nội dung bảo vệ môi trường vào hệ
thống giáo dục quốc dân”.
Ngày 02 tháng 12 năm 2003 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định
số 256/2003/QĐ-TTg phê duyệt “Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến
năm 2010 và định hướng đến năm 2020” tạo cơ sở vững chắc cho những nỗ lực
và quyết tâm bảo vệ môi trường.
Ngày 15 tháng 11 năm 2004 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 41NQ/TW Về tăng cường công tác bảo vệ mơi trường trong thời kỳ cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Luật Bảo vệ mơi trường năm 1993 chưa đề cập đầy đủ đến sự tham gia
(bắt buộc) của cộng đồng, thì Luật Bảo vệ mơi trường năm 2005 và tiếp đó Nghị
định số 80/2006/NĐ-CP của Chính phủ và Nghị định số 21/2008/NĐ-CP của
Chính phủ quy định rất rõ ràng, chặt chẽ các điều khoản này và Quyết định số:
34/2005/QĐ-TTg ngày 22 tháng 02 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ Về Bảo
vệ mơi trường thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bộ Khoa học,
Cơng nghệ và Môi trường (trước đây) và Bộ Tài nguyên và Môi trường liên tục
ký kết các Nghị quyết liên tịch với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Nông dân
Việt Nam, Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, nhiều tổ chức phi
chính phủ khác về các nội dung liên quan đến việc tham gia của cộng đồng trong
bảo vệ môi trường.
Từ năm 2006 trở đi triển khai mở rộng trong phạm vi toàn quốc, các văn
bản này bước đầu đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc tổ chức, triển khai

các hoạt động GDMT (Giáo dục môi trường) ở các trường phổ thông và trường
sư phạm trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Vấn đề bảo vệ môi trường được nhiều nhà nghiên cứu khoa học quan tâm
đến và được công bố trên các tạp chí, in thành sách như: Luận án tiến sĩ của tác
giả Bùi Văn Dũng (1999), “Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi


8
trường cho sự phát triển kinh tế lâu bền”; Luận văn Thạc sĩ Triết học; tác giả
Nguyễn Thị Phương Thảo (2009), “Những giải pháp cơ bản tăng cường giáo
dục ý thức bảo vệ môi trường cho thanh niên phường Cửa Nam và Đông Vĩnh ở
thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An”, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Giáo dục; tác giả
Nguyễn Việt Thanh (2011), “Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho học sinh ở
một số trường tiểu học huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp”, Luận văn Thạc sĩ
Khoa học Giáo dục Nguyễn Thị Dạ Thảo (2014), “Giáo dục ý thức bảo vệ môi
trường cho học sinh THPT huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh trong giai đoạn
hiện nay”. Tác giả đã đưa ra những kiến thức về môi trường, về tầm quan trọng
của việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường đối với học sinh bậc tiểu học, đồng
thời tác giả phân tích thực trạng về nhận thức của học sinh bậc Tiểu học, đề xuất
phương hướng và giải pháp giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho học sinh bậc
Tiểu học trên địa bàn huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp. Bên cạnh đó, cịn có
các tạp chí cũng đề cập đến vấn đề giáo dục ý thức bảo vệ môi trường như: Tác
giả Phạm Thành Dũng, “Môi trường và Sinh thái - vấn đề của mọi người, mọi
nhà”, Tạp chí Giáo dục Lý luận, Số 3/1999. Mối quan hệ giữa con người và tự
nhiên trong sự phát triển xã hội của tập thể tác giả do Hồ Sĩ Quý chủ biên, nhà
xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, (2001), tác giả Nguyễn Am, (1996), Chủ tịch
Hồ Chí Minh với Bảo vệ mơi trường sinh thái, Tạp chí Cộng sản Số 10/1996...
Tuy có nhiều cơng trình nghiên cứu về mơi trường, nhưng vấn đề về vai
trị của thanh niên trong việc bảo vệ môi trường vẫn chưa được đánh giá đúng
mức, chưa được tạo điều kiện đầy đủ và đặc biệt là chưa thu hút được đông đảo

thanh niên tham gia. Nhằm giúp thanh niên hiểu biết sâu sắc vai trị và tầm quan
trọng của mơi trường, các vấn đề môi trường và bảo vệ môi trường như một
nguồn lực để sống, lao động và phát triển, hình thành thói quen, ý thức bảo vệ
mơi trường, biết cách phát triển kinh tế gia đình, xã hội đi đôi với việc bảo vệ
môi trường xung quanh, biết lựa chọn phong cách sống phù hợp với việc sử
dụng một cách hợp lý và khôn ngoan các nguồn tài nguyên thiên nhiên để có thể


9
tham gia tuyên truyền đến người thân, người xung quanh. Xuất phát từ những lý
do trên mà đề tài luận văn: “Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho thanh niên ở
huyện n Định, tỉnh Thanh Hóa” mang tính cấp thiết.
2. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho thanh niên ở
huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu và làm rõ những vấn đề lý luận về giáo dục ý thức bảo vệ
môi trường cho thanh niên.
- Khảo sát và đánh giá thực trạng công tác giáo dục ý thức bảo vệ môi
trường cho thanh niên ở huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức
bảo vệ môi trường cho thanh niên ở huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa trong giai
đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các vấn đề về giáo dục ý thức bảo vệ môi trường
cho thanh niên.
3.2. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho
thanh niên ở một số xã, thị trấn huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.
Thời gian điều tra, khảo sát: Từ năm 2010 đến năm 2015.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
+ Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu.
+ Phân tích số liệu thống kê.


10
+ Phương pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết.
+ Phương pháp giả thuyết khoa học.
+ Phương pháp lịch sử và lôgic
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Phương pháp trao đổi kinh nghiệm.
+ Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
+ Phương pháp điều tra cơ bản.
5. Giả thuyết nghiên cứu
Nếu đề ra được phương hướng và một số giải pháp khả thi thì đề tài sẽ
góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục môi trường cho thanh niên, khắc phục tình
trạng ơ nhiễm mơi trường trên địa bàn huyện n Định, tỉnh Thanh Hóa.
6. Kết cấu của đề tài
Ngồi phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung chính
của đề tài được cấu thành 3 chương, 7 tiết.


11
B. NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC Ý THỨC

BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG CHO THANH NIÊN
1.1. Những vấn đề lý luận về môi trường, bảo vệ môi trường và ý thức
bảo vệ môi trường
1.1.1. Khái niệm môi trường
Trong Từ điển tiếng Việt, tác giả Hoàng Phê định nghĩa: “Mơi trường là
tồn bộ nói chung những điều kiện tự nhiên, xã hội, trong đó con người hay
một sinh vật tồn tại, phát triển, trong mối quan hệ với con người, với sinh vật
ấy” [30, tr.365].
Trong tài liệu Môi trường tự nhiên trong hoạt động sống của con người
tác giả Đỗ Thị Ngọc Lan cho rằng: “Môi trường tự nhiên là một tổng hịa những
yếu tố tự nhiên vơ cơ và hữu cơ, có ý nghĩa sống cịn đối với sự tồn tại và phát
triển của mọi sinh vật” và có ý kiến cho rằng “Mơi trường là một tập hợp gồm
các yếu tố xung quanh sinh vật có tác động trực tiếp, gián tiếp tác động qua lại
tới sự tồn tại và phát triển của sinh vật” [17, tr.20].
Theo Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường ở Việt Nam có ghi: “Mơi trường
bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có
ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và
sinh vật” [18, tr.8]
Năm 1981, Tổ chức giáo dục của Liên Hiệp Quốc (UNNESCO) đã đưa ra
định nghĩa này như sau: Môi trường bao gồm toàn bộ các hệ thống do con người
tạo ra, những cái hữu hình (tập qn, niềm tin...) trong đó con người sinh sống
và bằng lao động họ đã khai thác tài nguyên thiên nhiên nhằm thỏa mãn nhu
cầu của mình.


12
Theo giáo trình Bài giảng Mơi trường và Con người tác giả Phạm Hồng
Ban, Trường Đại học Vinh, môi trường theo nghĩa rộng là tất cả các yếu tố tự
nhiên và xã hội cần thiết cho sự sinh sống, sản xuất của con người như tài
ngun thiên nhiên, khơng khí, đất, nước, ánh sáng, cảnh quan, quan hệ xã

hội…[1, tr.3].
Môi trường sống của con người bao gồm môi trường tự nhiên và môi
trường xã hội:
- Môi trường tự nhiên: Bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hóa
học, sinh học, tồn tại ngoài ý muốn của con người, nhưng cũng ít nhiều chịu tác
động của con người. Đó là ánh sáng mặt trời, núi sông, biển cả, không khí, cung
cấp cho con người các loại tài ngun khống sản cần cho sản xuất, tiêu thụ và
là nơi chứa đựng, đồng hoá các chất thải, cung cấp cho ta cảnh đẹp để giải trí,
làm cho cuộc sống con người thêm phong phú.
- Môi trường xã hội: Là tổng thể các quan hệ giữa con người với con
người. Đó là những luật lệ, thể chế, cam kết, quy định, ước định... ở các cấp
khác nhau như: quốc gia, tỉnh, huyện, cơ quan, làng xã, họ tộc, gia đình, các tổ
chức tơn giáo, tổ chức đồn thể,... nhằm hướng các hoạt động của con người
theo một khn khổ nhất định.
Ngồi ra, người ta cịn phân biệt khái niệm mơi trường nhân tạo là hệ
thống môi trường do con người dựa vào tự nhiên, cải tạo tự nhiên phục vụ nhu
cầu của con người, làm thành những tiện nghi trong cuộc sống.
Các định nghĩa về mơi trường nêu trên tuy có khác nhau về quy mô, giới
hạn, yếu tố… nhưng đều thống nhất cho rằng, mơi trường là tất cả những gì xung
quanh ta, thống nhất ở bản chất hệ thống của môi trường và mối quan hệ giữa con
người với giới tự nhiên và đều thể hiện các đặc trưng của mơi trường như:
Thứ nhất, tính cấu trúc phức tạp. Hệ thống môi trường bao gồm nhiều yếu
tố hợp thành.


13
Thứ hai, tính động. Hệ thống mơi trường khơng phải là một hệ thống tĩnh,
mà luôn luôn thay đổi trong cấu trúc của nó, trong quan hệ tương tác giữa các
thành phần cơ cấu và trong từng thành phần cơ cấu. Đó là bản chất của q trình
vận động và phát triển của hệ thống mơi trường. Vì thế, cân bằng động là một

đặc trưng cơ bản của môi trường với tư cách là một hệ thống.
Thứ ba, tính mở. Môi trường, dù với quy mô lớn hay nhỏ như thế nào,
cũng đều là một hệ thống mở. Các dòng vật chất, năng lượng và thông tin liên
tục “chảy” trong khơng gian và thời gian. Vì thế, các vấn đề mơi trường mang
tính vùng, tính tồn cầu, tính lâu dài và cần được giải quyết bằng nỗ lực của toàn
thể cộng đồng, bằng sự hợp tác giữa các quốc gia, các khu vực trên thế giới với
một tầm nhìn xa, trơng rộng vì lợi ích của thế hệ mai sau.
Thứ tư, khả năng tự tổ chức và tự điều chỉnh. Trong hệ thống mơi trường,
có các thành phần cơ cấu là vật chất sống hoặc là các sản phẩm của chúng. Các
thành phần này có khả năng tự tổ chức lại hoạt động của mình và tự điều chỉnh
để thích ứng với những thay đổi bên ngoài theo quy luật tiến hố nhằm hướng
tới trạng thái ổn định. Đặc tính cơ bản này của hệ thống mơi trường quy định
tính chất, mức độ, phạm vi can thiệp của con người, đồng thời tạo hướng giải
quyết căn bản, lâu dài cho các vấn đề môi trường cấp bách hiện nay.
Môi trường đóng vai trị đặc biệt quan trọng là mơi trường sống của con
người và xã hội loài người, là điều kiện đầu tiên, thường xuyên và tất yếu của
quá trình sản xuất ra của cải vật chất, là một trong những yếu tố cơ bản của tồn
tại xã hội vì vậy mơi trường có những chức năng cơ bản sau:
- Môi trường là không gian sống: Trong cuộc sống hằng ngày, mỗi người
cần một không gian nhất định để phục vụ cho các hoạt động sống như: nhà ở,
nơi nghỉ, đất để sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, kho tàng, bến
cảng,… trung bình mỗi người cần khoảng 4m3 khơng khí sạch để thở; 2.5 lít
nước để uống, một lượng lương thực thực phẩm tương ứng với 2000-2400 calo.
Như vậy chức năng này địi hỏi mơi trường phải có một khơng gian thích hợp


14
cho mỗi con người. Ví dụ phải có bao nhiêu m2, hecta hay km2 cho mỗi người…
Không gian này lại đòi hỏi phải đạt những tiêu chuẩn nhất định về các yếu tố vật
lý, hóa học, sinh học, cảnh quan và xã hội. Tuy nhiên diện tích khơng gian sống

bình quân trên Trái đất của con người ngày càng bị thu hẹp.
Yêu cầu về không gian sống của con người thay đổi theo trình độ khoa
học và cơng nghệ. Trình độ khoa học cơng nghệ phát triển càng cao thì nhu cầu
không gian sản xuất càng giảm. Như vậy chức năng này có thể chia nhỏ thành
các chức năng như sau:
+ Chức năng xây dựng: cung cấp mặt bằng và nền móng cho các đơ thị,
khu cơng nghiệp, kiến trúc hạ tầng và nông thôn.
+ Chức năng vận tải: cung cấp mặt bằng, khoảng khơng gian và nền móng
cho giao thông đường thủy, đường bộ và hàng không.
+ Chức năng sản xuất: cung cấp mặt bằng để sản xuất nông - lâm - ngư
nghiệp…
+ Chức năng giải trí của con người: cung cấp khoảng không gian hợp lý
để làm nơi giải trí, phục vụ các nhu cầu du lịch, nghỉ dưỡng…
- Môi trường là nơi cung cấp tài nguyên cần thiết cho cuộc sống và hoạt
động sản xuất của con người: Trong hoạt động sống con người phải liên tục sản
xuất để tạo ra của cải vật chất phục vụ nhu cầu của mình. Có thể nói hầu như tất
cả các dạng vật chất đầu vào đều có nguồn gốc từ tự nhiên tồn tại trên trái đất và
không gian bao quanh trái đất như tài nguyên rừng, khoáng sản, đất, nước,
khơng khí,… tất cả đều là nguồn vật liệu và năng lượng không thể thiếu trong
cuộc sống của mỗi con người.
- Môi trường là nơi chứa đựng các chất thải do con người tạo ra trong
cuộc sống và hoạt động sản xuất của mình: Trong quá trình sản xuất, sinh hoạt
của con người luôn tạo ra một lượng chất thải, có thể nói lượng chất thải đó thải
ra càng nhiều. Nơi chứa đựng các loại chất thải đó chính là các thành phần của
môi trường tự nhiên như môi trường nước (ao, hồ, sông suối, biển) hoặc đất


15
hoặc khơng khí. Trong các thành phần mơi trường đó ln ln chứa các loại vi
sinh vật, chính các vi sinh vật đó lại có khả năng phân hủy các chất thải thành

các dạng vật chất ít hoặc khơng gây ơ nhiễm. Đó chính là khả năng tự làm sạch
của mơi trường. Tuy nhiên khả năng tự làm sạch đó chỉ trong một giới hạn nhất
định, nếu con người vượt quá giới hạn này thì sẽ gây ra mất cân bằng sinh thái
và ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
- Môi trường là nơi lưu trữ và cung cấp thông tin cho con người: Môi
trường cung cấp sự ghi chép và lưu trữ lịch sử địa chất, lịch sử tiến hoá của vật
chất và sinh vật, lịch sử xuất hiện và phát triển văn hố của lồi người. Cung cấp
các chỉ thị khơng gian và tạm thời mang tính chất báo động sớm các nguy hiểm
đối với con người và sinh vật sống trên trái đất như các phản ứng sinh lý của cơ
thể sống trước khi xảy ra các tai biến thiên nhiên và hiện tượng thiên nhiên đặc
biệt như bão, động đất... khơng những thế mơi trường cịn lưu trữ và cung cấp
cho con người sự đa dạng các nguồn gien, các loài động thực vật, các hệ sinh
thái tự nhiên và nhân tạo, các vẻ đẹp và cảnh quan có giá trị thẩm mỹ, tơn giáo
và văn hố khác.

1.1.2. Khái niệm bảo vệ môi trường và giáo dục ý thức bảo vệ môi
trường
Bảo vệ môi trường là những hoạt động giữ cho môi trường trong lành,
sạch đẹp; cải thiện môi trường, bảo đảm cân bằng sinh thái, ngăn chặn, khắc
phục các hậu quả xấu do con người và thiên nhiên gây ra môi trường, khai thác,
sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên.
Như vậy, bảo vệ môi trường tức là bảo vệ môi trường sinh tồn của lồi
người khỏi bị ơ nhiễm và khỏi bị phá hoại khiến cho môi trường tự nhiên càng
phù hợp với sản xuất và đời sống của loài người đồng thời bảo vệ tốt các loài
sinh vật trong thế giới tự nhiên.
Bảo vệ môi trường tức là bảo vệ sức sản xuất. Môi trường sản xuất, môi
trường xã hội và mơi trường tự nhiên tốt đẹp chính là cơ sở của sự phát triển


16

kinh tế - xã hội. Nếu cơ sở này bị phá hoại thì khơng những sẽ ảnh hưởng tới
phát triển kinh tế mà còn ảnh hưởng đến ổn định xã hội. Nói cách khác, “Bảo vệ
mơi trường là một vấn đề sống còn của đất nước, của nhân loại; là nhiệm vụ có
tính chất xã hội sâu sắc, gắn liền với cuộc đấu tranh xố đói giảm nghèo ở mỗi
nước, với cuộc đấu tranh giành hồ bình và tiến bộ xã hội trên phạm vi toàn thế
giới".Cùng với sự tiến triển của lịch sử, con người ngày càng nhận thức được
rằng mơi trường đóng vai trị hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và sự phát
triển của con người, bởi môi trường không chỉ cung cấp các nguồn tài nguyên
đầu vào cho sản xuất, đáp ứng các nhu cầu sinh sống hàng ngày cho con người
mà còn là nơi chứa và hấp thụ nguồn chất thải do chính sản xuất và con người
tạo ra. Do đó, để bảo vệ mơi trường thì phải duy trì các quy trình sinh thái chủ
yếu và các hệ sinh thái quyết định đến đời sống con người, phải sử dụng hợp lý
các nguồn tài nguyên thiên nhiên, nhất là các tài nguyên sinh vật, tránh làm cạn
kiệt hoặc huỷ diệt tài nguyên, bảo đảm có được một chiến lược phát triển bền
vững và ổn định. Vì lẽ đó bảo vệ là có ý nghĩa tích cực, nó bao gồm cả bảo quản
duy trì, sử dụng hợp lý, hồi phục và nâng cao hiệu suất của môi trường tự nhiên,
bao gồm cả các nguồn tài nguyên tái tạo và không tái tạo.
Khái niệm giáo dục ý thức bảo vệ môi trường
Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường là việc làm hết sức cần thiết, thường
xuyên và liên tục. Bởi giáo dục ý thức bảo vệ mơi trường sẽ hình thành và phát
triển kĩ năng hành động về môi trường cho thanh niên, từ đó tạo nên một lối
sống có trách nhiệm và thân thiện với thiên nhiên
Trong đời sống xã hội, giáo dục ý thức bảo vệ môi trường biểu hiện trên
những khía cạnh cơ bản sau:
Một là, khía cạnh chính trị. Như chúng ta đã biết, môi trường sống là ngôi
nhà chung của con người, xã hội loài người. Những vấn đề môi trường hiện nay
- dù là lớn hay nhỏ, dù xảy ra ở nơi này hay nơi khác, đã và đang tác động một
cách trực tiếp hay gián tiếp đến mỗi người, mỗi cộng đồng và quốc gia, dân tộc.



17
Vì thế, nó là một vấn đề mang tính chất tồn cầu và bảo vệ mơi trường trở thành
mối quan tâm chung của tất cả mọi người, của các tổ chức xã hội và các quốc
gia trên thế giới. Thực tế cho thấy, nếu những vấn đề môi trường sinh thái tiếp
tục gia tăng cả về phạm vi, quy mô và tính chất nghiêm trọng... mà khơng được
ngăn chặn, khắc phục kịp thời sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cuộc sống
con người, đến sự tồn tại và phát triển của cả cộng đồng, quốc gia. Do đó, nhiệm
vụ bảo vệ môi trường sinh thái trở thành mục tiêu và định hướng cho hoạt động
chính trị của tồn nhân loại, khơng loại trừ một quốc gia nào.
Khía cạnh chính trị của giáo dục ý thức bảo vệ môi trường sinh thái không
chỉ tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế, xã hội mà nó liên quan trực tiếp đến
sự hình thành, phát triển của chính bản thân ý thức bảo vệ môi trường. Quan
niệm mới về sự phát triển bền vững, trong đó nguyên tắc cơ bản là sự đồng tiến
hóa giữa con người và tự nhiên, địi hỏi con người phải chú ý, quan tâm nhiều
hơn đến khía cạnh chính trị của ý thức sinh thái. Bởi lẽ, đó là một trong những
cơ sở quan trọng tham gia vào sự điều chỉnh hoạt động của con người theo
hướng tích cực, tự giác vì mục tiêu bảo vệ, gìn giữ và "chung sống thân thiện"
với mơi trường sinh thái.
Hai là, khía cạnh pháp luật trong giáo dục ý thức bảo vệ môi trường sinh
thái. Trong bối cảnh môi trường sống của con người đã và đang đứng trước
nguy cơ bị khủng hoảng, mất cân bằng sinh thái... cần thiết phải có những quy
định thống nhất, chặt chẽ nhằm điều chỉnh hành vi của con người trong quá trình
tác động vào mơi trường tự nhiên. Trên bình diện quốc tế, những quy định
chung đó là các cơng ước giữa các nước về mơi trường (ví dụ như Cơng ước
chung về thay đổi khí hậu của Liên hợp quốc, Cơng ước về đa dạng sinh học...);
ở cấp độ quốc gia là các văn bản pháp luật (Luật Bảo vệ môi trường năm 1993,
Luật Tài nguyên nước (1998), Luật Khoáng sản năm 1996...).
Pháp luật có vai trị hết sức quan trọng đối với việc bảo vệ môi trường, là
cơ sở, công cụ pháp lý để nhà nước quản lý và điều tiết các hoạt động bảo vệ



18
mơi trường vì lợi ích chung của các cộng đồng dân cư, của toàn xã hội. Bằng
pháp luật, với những quy định được thể hiện dưới hình thức văn bản và có hiệu
lực khác nhau, nhà nước điều chỉnh việc bảo vệ mơi trường, đáp ứng u cầu
của q trình phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quyền được sống trong môi
trường trong sạch của mỗi người, mỗi cộng đồng và toàn dân tộc. Ở đây, ý thức
pháp luật của cơng dân về bảo vệ mơi trường có tầm quan trọng đặc biệt, nó thể
hiện sự nhận thức của mỗi người và thái độ của họ đối với các quy định chung
của pháp luật.
Ba là, khía cạnh đạo đức của giáo dục ý thức bảo vệ môi trường. Giáo dục
ý thức bảo vệ môi trường không chỉ biểu hiện trên các phương diện chính trị,
pháp luật, mà cịn thông qua mặt đạo đức (đạo đức sinh thái) của đời sống xã
hội. Đạo đức sinh thái được hình thành trực tiếp từ mối quan hệ giữa con người
với tự nhiên, là một dạng đặc thù của đạo đức xã hội. Đạo đức sinh thái là một
hệ thống các nguyên tắc, chuẩn mực quy định và điều chỉnh hành vi ứng xử của
con người đối với tự nhiên.
Dựa trên sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, của khoa học kỹ
thuật và công nghệ và đặc biệt là sức mạnh của con người, xã hội hiện đại đã
phát triển về mọi phương diện, với tốc độ nhanh chóng chưa từng thấy trong lịch
sử. Tuy nhiên, đó cũng là lúc mà hoạt động của con người bắt đầu làm cho tự
nhiên - cái "thân thể vơ cơ" của mình bị tổn thương trước những áp lực nặng nề,
vượt khỏi sức chịu đựng của nó. Ý thức được điều đó, nhiều tổ chức quốc tế,
nhiều nhà khoa học... đã gióng lên những hồi chuông cảnh tỉnh con người về
những hậu quả môi trường sinh thái. Sự "trừng phạt", "trả thù" của tự nhiên buộc
con người, muốn tiếp tục tồn tại và phát triển, phải quan tâm hơn đến khía cạnh
đạo đức trong ý thức bảo vệ môi trường, phải hướng tới đạo đức sinh thái mới
nhằm điều chỉnh một cách tự giác hoạt động của mình.
Bốn là, khía cạnh văn hóa thẩm mỹ của giáo dục ý thức bảo vệ mơi
trường. Như trên đã nói, theo quan niệm của triết học mácxít, con người khơng



19
chỉ là một thực thể sinh vật mà hơn thế, còn là một thực thể xã hội và bản chất
của nó là "tổng hịa các mối quan hệ xã hội". Thực tế, để tồn tại và phát triển,
con người - theo đúng nghĩa của từ này - khơng chỉ có nhu cầu được thỏa mãn
về mặt đời sống vật chất, mặc dầu nó là tiền đề đầu tiên và cơ bản nhất, mà cịn
có những nhu cầu về đời sống tinh thần. Chính sự hài hịa và những cái đẹp của
thế giới tự nhiên là một bộ phận không thể thiếu trong cuộc sống của con người.
Có thể nói, khía cạnh văn hóa thẩm mỹ của ý thức bảo vệ môi trường là một giá
trị định hướng khiến cho hoạt động cải tạo tự nhiên của con người, ngoài ý
nghĩa tìm kiếm lợi ích nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất, còn vươn tới thực hiện
lý tưởng thẩm mỹ theo quy luật của cái đẹp. Nói cách khác, bảo vệ môi trường
là hành động tự giác mang lại những lợi ích toàn diện, cả về vật chất lẫn tinh
thần cho con người.
Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường là thông qua phương thức giáo dục tác
động vào ý thức của người học chuyển đổi từ nhận thức bình thường sang ý thức
cộng đồng nhận ra được sự ảnh hưởng mơi trường xâm nhập vào cá nhân mình,
có những tri thức cơ bản về mơi trường, đồng thời có những quan điểm, tư
tưởng, ý thức đạo đức về môi trường (phản ánh, đồng tình), và thể hiện tinh thần
trách nhiệm của mình trước những vấn đề của mơi trường trong cuộc sống. Từ
đó, để mang đến cho bản thân mình, cộng đồng có được mơi trường tốt đẹp và
bền vững.
1.1.3. Vai trị của mơi trường đối với đời sống của con người và xã hội
loài người
1.1.3.1. Tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen về môi trường và bảo vệ môi
trường
Tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen về môi trường và bảo vệ môi trường
thể hiện qua nghiên cứu của các ông về mối quan hệ giữa giữa con người với tự
nhiên. Tư tưởng đó được lịch sử xã hội loài người chứng minh và khẳng định là

xã hội lồi người khơng thể tồn tại và phát triển nếu khơng có q trình thường


20
xuyên sản xuất và tái sản xuất xã hội. Để tồn tại và phát triển con người phải sản
xuất vật chất, đó là yêu cầu khách quan sự sinh tồn xã hội. Để duy trì và đáp ứng
những nhu cầu ngày càng cao con người phải tiến hành sản xuất của cải vật chất.
Sản xuất vật chất là cơ sở sinh tồn của xã hội, mà còn là cơ sở để hình
thành nên tất cả các hình thức quan hệ xã hội khác như trong đời sống xã hội, tất
cả các quan hệ xã hội về nhà nước, chính trị, pháp quyền, đạo đức,... Sản xuất
của cải vật chất còn là cơ sở tiến bộ xã hội. Sản xuất phát triển có nghĩa là cách
thức sản xuất của con người thay đổi, kỹ thuật được cải tiến, năng suất lao động
nâng cao. Chính trong q trình này mối quan hệ giữa tự nhiên, con người và xã
hội hình thành. Tuy xuất hiện vào thời điểm khác nhau nhưng các yếu tố tự
nhiên, con người, xã hội bao giờ cũng tồn tại trong sự thống nhất biện chứng.
Bởi vì, chừng nào lồi người cịn tồn tại thì lịch sử của họ và lịch sử tự nhiên
còn quy định lẫn nhau.
Con người và xã hội tồn tại trong lòng giới tự nhiên và lao động của con
người là hạt nhân của sự thống nhất biện chứng giữa xã hội và tự nhiên, con
người là động vật cao cấp nhất, là sản phẩm cao nhất của q trình tiến hóa tự
nhiên. Con người sống trong môi trường tự nhiên như một sinh vật. Chính tự
nhiên là tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của con người. C.Mác khẳng định:
giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con người, “con người sống bằng giới tự
nhiên”, “đời sống thể xác và tinh thần của con người gắn liền với tự nhiên, nói
như thế chẳng qua chỉ có nghĩa là giới tự nhiên gắn liền với bản thân giới tự
nhiên, vì con người là một bộ phận của tự nhiên”, con người là sản phẩm cao
nhất của tự nhiên, bằng hoạt động của mình, con người đã làm nên lịch sử, tạo ra
xã hội. Do đó, xã hội khơng thể cái gì khác, mà chính là bộ phận đặc biệt, được
tách ra một cách hợp quy luật của tự nhiên, là hình thức tổ chức vật chất cao
nhất trong q trình tiến hóa liên tục, lâu dài và phức tạp của tự nhiên.

Có thể nói, xã hội là một bộ phận đặc biệt của tự nhiên. Song, đồng thời
với q trình tiến hóa liên tục của tự nhiên xã hội cũng có một quá trình phát


21
triển lịch sử của mình, thể hiện bằng sự vận động biến đổi và phát triển không
ngừng trong cơ cấu của xã hội. Như vậy, sự thống nhất xã hội và tự nhiên không
phải là thống nhất tĩnh mà là sự thống nhất động, nó được xem như một q
trình lịch sử luôn biến đổi và phát triển. Sự thống nhất đó thực hiện thơng qua
lao động của con người trong q trình sản xuất vật chất, thơng qua q trình
thực tiễn.
Vì vậy, mối quan hệ giữa Tự nhiên - Con người - Xã hội là một bộ phận
không thể tách rời của thế giới vật chất, nhưng là một bộ phận lớn nhất, bao
trùm nhất đối với sự sống của con người. Cơ sở thống nhất của hệ thống này
được thể hiện ở cấu trúc chặt chẽ, liên hoàn của sinh quyển và bởi cơ chế hoạt
động theo nguyên tắc tự tổ chức, tự bảo vệ, tự điều chỉnh. Nếu con người tác
động đến tự nhiên mà phá hoại sự cân bằng sinh thái thì lồi người khơng tránh
khỏi những nguy cơ đe dọa sự tồn tại của chính mình. Từ những quan điểm của
C.Mác, Ph.Ăngghen về vấn đề này là sự việc nhắc nhở chúng ta từng giờ, từng
phút rằng, chúng ta phải bảo vệ tự nhiên như bảo vệ tính mạng chúng ta vì bản
thân chúng ta với cả xương thịt, máu mủ và đầu óc chúng ta, là thuộc về giới tự
nhiên, chúng ta nằm trong lịng giới tự nhiên.
1.3.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về
môi trường và bảo vệ môi trường
Trong tư tưởng và hành động của Hồ Chí Minh ln tốt lên một triết lý
sâu sắc rằng, con người muốn tồn tại, phát triển tất yếu phải sống hịa hợp với tự
nhiên. Nhưng khơng phải là sự phụ thuộc hoàn toàn thụ động vào tự nhiên mà
con người phải biết cải tạo, chinh phục tự nhiên. Nhưng đó khơng phải là sự tác
động mù qng, vơ căn cứ. Bởi sự tác động đó chỉ mang lại hậu quả xấu cho con
người mà thơi. Sự tác động đó phải là sự tác động mang tính khoa học, phải xuất

phát từ sự nhận thức, hiểu biết đúng đắn về tự nhiên, tức là phải nắm được các
quy luật khách quan của nó. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: Thế giới ngày nay
đang tiến những bước khổng lồ về mặt kiến thức của con người. Khoa học tự


22
nhiên cũng như khoa học xã hội không ngừng mở rộng ra những chân trời mới,
con người ngày càng làm chủ được thiên nhiên cũng như làm chủ vận mệnh của
xã hội và của bản thân mình và để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới tốt
đẹp, xã hội cộng sản chủ nghĩa, Người căn dặn mọi người, đặc biệt là người
cộng sản cần phải: “Hiểu biết thiên nhiên để buộc thiên nhiên phục vụ hạnh
phúc loài người và hiểu biết xã hội để cải tạo xã hội cũ, xấu xa, thành một xã hội
mới tốt đẹp, một xã hội cộng sản” [25, tr.535]. Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm nhận
thấy được hậu quả của việc con người khai thác một cách bừa bãi, bóc lột tự
nhiên. Người nói: “Phá rừng thì dễ, nhưng gây lại rừng thì phải mất hàng chục
năm. Phá rừng như vậy sẽ ảnh hưởng đến khí hậu, ảnh hưởng đến sản xuất, đời
sống rất nhiều” [25, tr.134]. Xuất phát từ đó Người cho rằng để con người duy
trì sự tồn tại và phát triển của mình thì điều kiện tất yếu là phải bảo vệ lấy nguồn
tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường sống. Đây là một điều kiện tiên quyết
để con người duy trì sự tồn tại của mình.
Trong tác phẩm Đời sống mới (1947), Người viết: “Về văn hóa, phải làm
cho cả làng đều biết chữ, biết đạo đức và trách nhiệm của công dân. Về phong
tục, phải cấm hẳn say sưa, cờ bạc hút xách, bợm bãi, trộm cắp. Phải làm cho
khơng có đánh chửi nhau, kiện cáo nhau. Làm cho làng mình trở thành phong
thuần tục mỹ. Về vệ sinh, đường sá phải sạch sẽ. Ao tắm giặt, giếng nước uống
phải được phân biệt và chăm sóc cẩn thận. Những ao hồ khơng cần thì lấp đi,
cho đỡ muỗi. Phải có cầu xí chung, hoặc cầu xí riêng cho từng nhà. Để khỏi hôi
thối, ruồi nhặng, lại có phân tốt” Rõ ràng, mơi trường được Người quan niệm rất
tồn diện, gồm hai phương diện, mơi trường tự nhiên và môi trường xã hội.
Đầu năm 1959, Bác Hồ đã chính thức phát động Tết trồng cây trong tồn

dân với lời dạy “Việc này ít tốn kém mà lợi ích nhiều”. Bác nói: “Trong 10 năm
nữa nước ta phong cảnh sẽ ngày càng tươi đẹp, khí hậu sẽ hiền hịa hơn, cây gỗ
sẽ đầy đủ hơn. Điều đó sẽ góp phần quan trọng vào việc cải tạo đời sống của
nhân dân ta” [24, tr.556]. Trong những năm chống chiến tranh phá hoại bằng


23
không quân của Mỹ ở miền Bắc, Bác Hồ vẫn kêu gọi nhân dân trồng cây, giữ
lấy màu xanh của đất nước. Bác viết thành thơ: “Mùa xuân là tết trồng cây Làm cho đất nước càng ngày càng xuân”. Người thường xuyên theo dõi, động
viên cỗ vũ phong trào Tết trồng cây. Trong bài viết cuối cùng của mình về Tết
trồng cây ngày 5 tháng 2 năm 1969, Bác nhắc tới “ích lợi to lớn cho kinh tế
quốc phịng” của việc “Trồng cây gây rừng”, đồng bào địa phương phải biến đồi
trọc thành vườn cây. Trong Di chúc, Bác Hồ không quên nhắc nhở nhân dân ta
phải tiếp tục trong việc trồng cây gây rừng: “Nên có kế hoạch trồng cây trên đồi.
Ai đến thăm thì trồng một cây làm kỷ niệm. Trồng cây nào phải tốt cây ấy. Lâu
ngày cây nhiều thành rừng, sẽ làm tốt cho phong cảnh và lợi cho công nghiệp”
[26; tr.499-500]. Ngày nay, khi rừng bị chặt phá nghiêm trọng, sự biến đổi khí
hậu theo chiều hướng phức tạp, nhiều tài nguyên thiên nhiên về động, thực vật
bị huỷ hoại, chúng ta càng thấm thía lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc
“Rừng vàng biển bạc”. Từ lời dạy, việc làm của Bác Hồ, chúng ta càng nhận
thấy rằng, con người sống khơng thể tách rời thiên nhiên, bởi vì thiên nhiên là
ảnh hưởng đến khí hậu, sức khỏe nhân dân và mang lại ý nghĩa kinh tế to lớn mà
cịn có ý nghĩa chính trị to lớn. Như vậy, trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, mơi trường và bảo vệ mơi trường có một vai trị rất to lớn đối với sự tồn
tại, phát triển của con người và xã hội lồi người. Do đó, con người cần phải bảo
vệ, giữ gìn mơi trường như giữ gìn, bảo vệ cuộc sống của chính mình.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường từ Đại hội VI,
đất nước bước sang giai đoạn đổi mới thì cơng tác bảo vệ môi trường trở thành
một trong những nội dung quan trọng được Đại hội các khóa sau quan tâm nhấn
mạnh. Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI đã chỉ rõ “xây dựng phương

án tổng thể trên từng vùng, hình thành cơ cấu hợp lý về nơng, lâm, ngư, nghiệp,
công nghiệp phù hợp với sinh thái từng vùng, bảo vệ tài nguyên, gắn với phát
triển nông, lâm, ngư nghiệp với phát triển ngành nghề tiểu thủ, thủ cơng nghiệp
và cơng nghiệp chế biến bằng cơng nghệ thích hợp; xây dựng các điểm kinh tế -


24
kỹ thuật - dịch vụ ở từng vùng và tiều vùng; xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật
và kết cấu hạ tầng nông thôn. Quy hoạch khai thác, bảo vệ và sử dụng nước, đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế và đời sống, mở rộng tưới tiêu nước cho nơng
nghiệp, phịng và giảm nhẹ tác hại của thiên nhiên” “…phát triển kinh tế rừng,
trồng rừng phủ xanh đất trống, đồi trọc, nâng cao hiệu quả khai thác và sử dụng
tài nguyên rừng, bảo vệ thiên nhiên và môi trường sinh thái” [5, tr.63-64].
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI của Đảng đã nhận định:
“Môi trường ở nhiều nơi đang bị ô nhiễm nặng; tài nguyên, đất đai chưa được
quản lý tốt, khai thác và sử dụng kém hiệu quả, chính sách đất đai có mặt chưa
phù hợp”. Đại hội XI chỉ đạo: “Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của cả hệ
thống chính trị, tồn xã hội và của mọi công dân. Kết hợp chặt chẽ giữa kiểm
sốt, ngăn ngừa, khắc phục ơ nhiễm với khôi phục và bảo vệ môi trường sinh
thái. Phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch, tiêu dùng sạch. Đẩy mạnh cơng
tác nghiên cứu, dự báo và ứng phó với sự biến đổi khí hậu, các thảm họa thiên
nhiên. Tăng cường quản lý, bảo vệ và sử dụng hợp lý, có hiệu quả tài nguyên
quốc gia”. Đồng thời, Đại hội đề ra các chỉ tiêu định hướng môi trường cải thiện
chất lượng môi trường đến năm 2020 và phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi
trường “Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, gắn nhiệm vụ, mục tiêu bảo vệ môi
trường với phát triển kinh tế - xã hội. Đổi mới cơ chế quản lý tài nguyên và bảo
vệ môi trường. Đưa nội dung bảo vệ môi trường vào chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, vùng và các chương trình, dự án. Các dự án
đầu tư xây dựng mới phải bảo đảm yêu cầu về mơi trường. Thực hiện nghiêm
ngặt lộ trình xử lý các cơ sở gây ơ nhiễm mơi trường. Hồn thiện hệ thống luật

pháp về bảo vệ môi trường; xây dựng chế tài đủ mạnh để ngăn ngừa, xử lý các
hành vi vi phạm. Khắc phục suy thối, bảo vệ mơi trường và cân bằng sinh thái,
nâng cao chất lượng môi trường. Thực hiện tốt chương trình trồng rừng, ngăn
chặn có hiệu quả nạn phá rừng, cháy rừng; tăng diện tích các khu bảo tồn thiên
nhiên. Quản lý, khai thác và sử dụng có hiệu quả tài ngun đất, nước, khống


×