Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho học sinh viên trường cao đẳng sư phạm vĩnh long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 122 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ NGỌC TẤN

GIÁO DỤC Ý THỨC CHẤP HÀNH
PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN TRƯỜNG
CAO ĐẲNG SƯ PHẠM VĨNH LONG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Đồng Tháp, 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ NGỌC TẤN

GIÁO DỤC Ý THỨC CHẤP HÀNH
PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN TRƯỜNG
CAO ĐẲNG SƯ PHẠM VĨNH LONG
Chuyên ngành: CHÍNH TRỊ HỌC

Mã số: 60.31.02.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
Người hướng dẫn khoa học: TS. VŨ THỊ PHƯƠNG LÊ

Đồng Tháp, 2016



LỜI CẢM ƠN
Trong q trình nghiên cứu và hồn thành đề tài này, ngồi sự nỗ lực của
bản thân, tơi còn nhận được sự hỗ trợ rất lớn từ các cơ quan, đơn vị và cá nhân.
Sau đây tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến:
Quý thầy cô Khoa Giáo dục Chính trị của Trường Đại học Vinh đã giảng
dạy, hướng dẫn nhiệt tình và đầy trách nhiệm; Khoa Sau đại học Trường Đại
học Vinh và Trường Đại học Đồng Tháp đã tạo điều kiện thuận lợi trong suốt
thời gian học tập.
Tôi xin cảm ơn quý thầy cô, anh chị sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm
Vĩnh Long đã tận tình giúp đỡ, hợp tác trong quá trình thu thập số liệu và điều
tra xã hội học.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến TS. Vũ Thị Phương Lê - Cơ đã
định hướng đề tài, nhiệt tình hướng dẫn, góp ý để tơi thực hiện đề tài luận văn
tốt nghiệp. Xin cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè luôn bên cạnh động viên,
giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi để tơi hồn thành chương trình học tập của
mình.
Đồng Tháp, ngày 01 tháng 6 năm 2015
Tác giả

Nguyễn Thị Ngọc Tấn


MỤC LỤC
Trang
1
MỞ ĐẦU
10
NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC Ý THỨC 10
CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN

10
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
1.2. Mục đích, nội dung, phương pháp và hình thức giáo dục ý thức
18
chấp hành pháp luật cho sinh viên hiện nay
1.3. Tính tất yếu của việc giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho sinh
27
viên hiện nay
Chương 2. THỰC TRẠNG GIÁO DỤC Ý THỨC CHẤP HÀNH
PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM
42
VĨNH LONG
2.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến công tác giáo dục ý thức chấp hành
42
pháp luật cho sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm Vĩnh Long
2.2. Thực trạng công tác giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho sinh
49
viên Trường Cao đẳng Sư phạm Vĩnh Long
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU
QUẢ GIÁO DỤC Ý THỨC CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT CHO SINH
76
VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM VĨNH LONG
3.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức chấp hành pháp luật
cho sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm Vĩnh Long trong giai đoạn
76
hiện nay
3.2. Giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức chấp
hành pháp luật cho sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạmVĩnh Long
82
trong giai đoạn hiện nay

104
KẾT LUẬN
106
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
112
PHỤ LỤC


BẢNG KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Cao đẳng Sư phạm

: CĐSP

Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

: CNH, HĐH

Nhà xuất bản

: Nxb

Xã hội chủ nghĩa

: XHCN


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng đã khẳng định: Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh
đạo. Đó là một trong tám đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng, nhân
dân ta đã và đang quyết tâm xây dựng. Đây được xem là trong những bước đổi
mới về chất trong tư duy lý luận xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước. Nhà
nước ta là kết quả của cuộc đấu tranh gian lao, bền bỉ của nhân dân; do nhân dân
làm chủ, vì nhân dân mà phục vụ. Trong đó quyền lực nhà nước là thống nhất,
có sự phân cơng, phối hợp và kiểm soát chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tổ chức và hoạt
động của Nhà nước trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật, pháp luật giữ vị trí tối
thượng trong điều chỉnh các quan hệ xã hội. Nhà nước tôn trọng và bảo đảm
quyền con người, quyền công dân, nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước
và công dân, thực hành dân chủ, tăng cường kỷ cương, kỷ luật. Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Để đạt những
mục tiêu này hàng loạt các vấn đề đặt ra như củng cố, đổi mới, nâng cao chất
lượng hoạt động của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp từ việc xây dựng,
bổ sung, hoàn thiện pháp luật, ban hành pháp luật, quản lý hành chính nhà nước,
kiểm tra giám sát việc thi hành pháp luật, xử lý nghiêm minh những hành vi vi
phạm pháp luật... Bên cạnh đó, cơng tác phổ biến, giáo dục pháp luật là nhiệm
vụ trọng tâm góp phần nâng cao hiểu biết pháp luật và ý thức chấp hành pháp
luật trong toàn thể cán bộ, nhân dân nhằm tăng cường hiệu lực quản lý xã hội
bằng pháp luật.
Ngày nay, Đảng và Nhà nước ta xem giáo dục là quốc sách hàng đầu.
Chúng ta đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển vững bền của dân tộc.
Thật vậy, giáo dục phải hướng đến xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn


2


diện có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ, trung thành với lý tưởng độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, có ý thức và thói quen sống, làm việc theo
Hiến pháp và pháp luật. Vì vậy, bên cạnh việc giáo dục tri thức, đạo đức, chính
trị - tư tưởng v.v... cho thế hệ trẻ thì nhà trường, gia đình, xã hội phải tuyên
truyên, phổ biến, giáo dục pháp luật cho các em. Đặc biệt trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực, Việt Nam không thể tránh khỏi những tác động
tiêu cực làm ảnh hưởng đến lối sống, nhân cách của con người Việt Nam trong
đó có học sinh, sinh viên. Đồng thời những mặt trái của nền kinh tế thị trường
từng bước làm phá vỡ chuẩn mực các giá trị đạo đức. Tâm lý đề cao giá trị đồng
tiền, xu hướng chạy theo những giá trị vật chất tầm thường xuất hiện trong bộ
phận sinh viên - những người chủ tương lai của đất nước. Tình trạng coi thường
pháp luật của bộ phận sinh viên, sa ngã vào các tệ nạn xã hội trở thành mối lo âu
cho toàn xã hội. Chính vì vậy, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho thế hệ
trẻ ngày nay nhất là lớp sinh viên là rất cần thiết và cấp bách.
Cùng với tình hình chung của cả nước, trong những năm qua, ở tỉnh Vĩnh
Long tình trạng vi phạm pháp luật ngày càng có xu hướng gia tăng ở các trường
học. Đặc biệt Trường Cao đẳng Sư phạm Vĩnh Long, thời gian qua đã và đang
thực hiện nhiều biện pháp nhằm giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho sinh
viên. Mặc dù vậy, công tác giáo dục ý thức chấp hành pháp luật của Trường
chưa đáp ứng được trước những diễn biến phức tạp đang tác động đến sinh viên
Nhà trường. Thực tế ý thức chấp hành pháp luật của bộ phận sinh viên cịn rất
hạn chế, tình trạng vi phạm pháp luật vẫn xảy ra ở sinh viên của Nhà trường.
Nguyên nhân của tình trạng trên do một bộ phận các em còn hạn chế về kiến
thức pháp luật, một số khác lại có thái độ coi thường pháp luật. Nhà trường đã
có nhiều giải pháp để khắc phục tình trạng trên nhưng nhìn chung tình trạng hiểu
biết pháp luật vẫn cịn hạn chế, tình trạng vi phạm pháp luật ở sinh viên vẫn xảy
ra. Vì vậy, cơng tác giáo dục ý thức chấp hành luật cho sinh viên của Nhà


3


trường cần phải đẩy mạnh hơn nữa để góp phần hình thành một thế hệ sống và
làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
Trong những năm qua, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho người dân
nói chung và cho sinh viên nói riêng đã trở thành nhiệm vụ thường xuyên được
Đảng ta quan tâm. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12 năm 1986)
của Đảng khẳng định: "Coi trọng công tác giáo dục, tuyên truyền, giải thích
pháp luật. Đưa việc dạy pháp luật vào hệ thống các trường của Đảng, của Nhà
nước (kể cả các trường phổ thơng, đại học), của các đồn thể nhân dân. Cán bộ
quản lý các cấp từ trung ương đến đơn vị cơ sở phải có kiến thức về quản lý
hành chính và hiểu biết về pháp luật. Cần sử dụng nhiều hình thức và biện pháp
để giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật và làm tư vấn pháp luật cho nhân dân"
[12, tr.121]. Đến Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VII (1991) Đảng ta đề
ra một trong những phương hướng, nhiệm vụ của chính sách xã hội là: "Điều
kiện quan trọng để phát huy dân chủ là xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp
luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật
và ý thức tuân thủ pháp luật của nhân dân" [13, tr.90-91]. Trong chiến lược phát
triển kinh tế-xã hội 2011-2020 Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh: "Chú trọng xây
dựng nhân cách con người Việt Nam về lý tưởng, trí tuệ, đạo đức, lối sống, thể
chất, lịng tự tơn dân tộc, trách nhiệm xã hội, ý thức chấp hành pháp luật, nhất là
trong thế hệ trẻ" [18, tr.126]. Những khẳng định trên chứng tỏ Đảng ta luôn coi
công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật là nhiệm vụ trọng tâm hàng
đầu góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Nhằm khẳng định tầm quan trọng chiến lược của công tác giáo dục ý thức
chấp hành pháp luật, nhất là giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho sinh viên,
trong những năm vừa qua, Nhà nước ta đã xây dựng, ban hành nhiều văn bản
pháp luật thể chế hoá các đường lối, chủ trương của Đảng. Từ đó, tạo cơ sở pháp
lý cho việc triển khai thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường.



4

Ngày 20 tháng 11 năm 2009 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định
số: 1928/QĐ-TTg Phê duyệt Đề án "Nâng cao chất lượng phổ biến, giáo dục
pháp luật trong nhà trường".
Ngày 26 tháng 11 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số:
2160/QĐ-TTg Phê duyệt Đề án "Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục ý thức
pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho thanh thiếu niên giai đoạn 2011 2015".
Đặc biệt vào ngày 20 tháng 6 năm 2012, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam thông qua Luật số: 14/2012/QH13"Luật phổ biến, giáo dục
pháp luật".
Ngày 27 tháng 01 năm 2014, Bộ Giáo dục và Đào tạo ra Quyết định số:
366/QĐ-BGDĐT về Ban hành "chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật
ngoại khóa cho học sinh, sinh viên các trường đại học, cao đẳng, trung cấp
chuyên nghiệp giai đoạn 2013 - 2016".
Ngày 10 tháng 10 năm 2014, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Kế hoạch
số: 872/KH-BGDĐT "Tổ chức thực hiện Ngày Pháp luật nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam trong ngành giáo dục năm 2014".
Ngày 26 tháng 2 năm 2015, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quyết định
số: 580/QĐ-BGDĐT "Ban hành kế hoạch công tác, phổ biến, giáo dục pháp
luật năm 2015 của ngành giáo dục".
Bên cạnh sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta, vấn đề giáo dục ý thức
chấp hành pháp luật còn được nhiều tác giả nghiên cứu, trong số đó có những
nghiên cứu đã được in thành sách, cụ thể như:
Nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho nhân dân, năm 2008, Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội đã tái bản quyển sách Sự hình thành ý thức
pháp luật và giải pháp nâng cao ý thức pháp luật ở nước ta trong thời kì đổi
mới, do Tiến sĩ - Luật gia Đào Duy Tấn biên soạn. Quyển sách này đề cập tới:



5

Tính quy luật của sự hình thành ý thức pháp luật; những đặc điểm cơ bản của sự
hình thành ý thức pháp luật ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới; những yêu cầu và
giải pháp cơ bản nhằm nâng cao ý thức pháp luật ở nước ta hiện nay.
Năm 2011, xuất phát từ yêu cầu các nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật, tác giả Nguyễn Minh Đoan đã biên soạn cuốn Ý thức pháp
luật. Bằng những phân tích và lập luận của mình, tác giả đã cho thấy ý thức
pháp luật là một bộ phận, một hình thái quan trọng của ý thức xã hội, phản ánh
nhu cầu điều chỉnh và quá trình điều chỉnh bằng pháp luật đối với các quan hệ
xã hội… Hơn hết, cuốn sách cịn trình bày một cách rõ nét thực trạng ý thức
pháp luật ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở thực tế, tác giả đã đưa ra những kiến
nghị, giải pháp nhằm nâng cao ý thức pháp luật và lối sống theo pháp luật ở Việt
Nam hiện nay, trong đó có nhấn mạnh đến biện pháp phổ biến, giáo dục pháp
luật.
Ngồi ra, năm 2013, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội tái bản lần
thứ hai (có chỉnh lý, bổ sung) cuốn sách: Vai trò của pháp luật trong quá trình
hình thành nhân cách của tiến sĩ luật học Nguyễn Đình Đặng Lục. Nội dung
cuốn sách nêu bật vai trị của gia đình, nhà trường và xã hội trong quá trình hình
thành và phát triển nhân cách của người chưa thành niên. Trên cơ sở những đặc
điểm tâm lý của người chưa thành niên liên quan đến ý thức pháp luật của đối
tượng này, tác giả rút ra những vấn đề có tính ngun tắc trong cơng tác giáo
dục đối với thế hệ trẻ.
Bên cạnh đó, vấn đề phổ biến, giáo dục pháp luật, ý thức pháp luật cho
nhân dân nói chung, cho sinh viên nói riêng còn được thể hiện qua các luận văn,
chẳng hạn như:
+ Bùi Văn Hưng (2010), "Nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo dục ý
thức pháp luật cho người lao động và người sử dụng lao động trong các doanh
nghiệp trên địa bàn thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An", luận văn thạc sỹ khoa học
giáo dục, Trường Đại học Vinh.



6

+ Nguyễn Thị Kim Chi (2012), "Giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho
học sinh thông qua dạy học môn giáo dục công dân lớp 12 (Qua khảo sát tại
Trường THPT Phan Ngọc Hiển, Quận Ninh Kiều, Thành phố Cần Thơ)", luận
văn Thạc sỹ khoa học giáo dục, Trường Đại học Vinh.
+ Phạm Thị Thanh Huyền (2013), "Vấn đề giáo dục ý thức pháp luật cho
sinh viên Việt Nam hiện nay (qua khảo sát thực tế ở Hà Tĩnh)", luận văn thạc sỹ
triết học, Học viện chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
+ Lê Thị Thanh Thủy (2015), "Giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho
thanh niên huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay", luận văn
thạc sỹ khoa học giáo dục, Trường Đại học Vinh.
Thông qua các đề tài trên, các tác giả đã góp phần làm rõ vai trị của pháp
luật, ý thức pháp luật trong đời sống và ý nghĩa của việc giáo dục ý thức chấp
hành pháp luật hiện nay. Đồng thời, các tác giả đã làm rõ những thành tựu đạt
được trong công tác giáo dục ý thức chấp hành pháp luật, cũng như những tồn
tại yếu kém của cơng tác đó ở địa phương, đơn vị cơng tác. Song song đó, các
tác giả cũng đề ra các giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục ý
thức chấp hành pháp luật cho nhiều đối tượng khác nhau, trong đó có sinh viên.
Tuy nhiên, các giải pháp đề ra mang tính chất khả thi cịn ở phạm vi hẹp chỉ gắn
với địa phương, nơi công tác của các tác giả.
Mặt khác, trên một số tạp chí cịn có các bài viết liên quan của đến vấn đề
giáo dục ý thức pháp luật cho nhân dân nói chung, học sinh sinh viên nói riêng
của một số tác giả như:
- Ban hành Luật phổ biến, giáo dục pháp luật - biện pháp nâng cao hiệu
quả giáo dục pháp luật trong nhà trường của ThS. Trần Thị Sáu - Đại học
Quảng Bình, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 124 tháng 6 năm 2008.
- Giáo dục pháp luật cho học sinh, sinh viên: thực trạng và giải pháp của

Ths. Phan Hồng Dương - Học viện quản lý giáo dục, Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp số 143 ngày 20 tháng 3 năm 2009.


7

- Một số biện pháp tăng cường công tác phổ biến giáo dục pháp luật
trong tình hình mới của PGS.TS. Nguyễn Tất Viễn, Tạp chí Dân chủ pháp luậtSố chuyên đề 60 năm ngành Tư pháp, năm 2010.
- Nâng cao ý thức pháp luật của người tham gia giao thông đường bộ trên
địa bàn thành phố Hà Nội của ThS. Vũ Thị Thu Thủy - Trịnh Đức Dũng, Tạp
chí Cảnh sát nhân dân số 5/2013.
Những bài viết trên của các tác giả là lời báo động về tình hình vi phạm
pháp luật của học sinh, sinh viên hiện nay ngày càng gia tăng và nghiêm trọng
đến các cơ quan hữu quan. Ngoài ra, các tác giả đưa ra nhiều giải pháp mang
tính khả thi như: phát huy vai trị của gia đình, các tổ chức, cơ quan, đồn thể và
sự phối hợp có hiệu quả của các lực lượng này góp phần giáo dục ý thức chấp
hành pháp luật của học sinh, sinh viên.
Nhìn chung, các bài nghiên cứu, bài viết trên khơng những có ý nghĩa rất
lớn trong việc giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho nhân dân nói chung và
sinh viên nói riêng, mà cịn giúp chúng chúng tơi có thể kế thừa trong q trình
sưu tầm tài liệu phục vụ nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa
có bài nghiên cứu hay bài viết của tác giả nào đề cập trực tiếp đến việc "Giáo
dục ý thức chấp hành pháp luật cho sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm
Vĩnh Long". Cùng với các lý do đã nêu trên, chúng tôi lựa chọn vấn đề này làm
Luận văn tốt nghiệp Cao học ngành Chính trị học.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích lý luận, làm rõ thực trạng cơng tác giáo dục ý thức
chấp hành pháp luật cho sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm Vĩnh Long, luận
văn đề xuất quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục ý
thức chấp hành pháp luật cho sinh viên Trường trong giai đoạn hiện nay.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận của việc giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho
sinh viên.


8

- Khảo sát, phân tích, đánh giá tình hình ý thức chấp hành pháp luật của
sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm Vĩnh Long thời gian qua và thực trạng
công tác giáo dục ý thức chấp hành pháp luật của Nhà trýờng, đồng thời xác
định nguyên nhân của những thực trạng đó.
- Đề xuất quan điểm và một số giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả
giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm
Vĩnh Long trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu công tác giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho
sinh viên ở Trường Cao đẳng Sư phạm Vĩnh Long trong giai đoạn hiện nay.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Đề tài điều tra, khảo sát ý thức chấp hành pháp luật của sinh viên từ năm
thứ nhất đến năm thứ ba hệ cao đẳng chính quy đang học tập và rèn luyện tại
Trường; công tác giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho sinh viên Trường Cao
đẳng Sư phạm Vĩnh Long trong 5 năm, từ năm 2010 đến năm 2015 và định
hướng giải pháp đến năm 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn quán triệt phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, luận văn kết hợp sử dụng các
phương pháp khác như: phương pháp lịch sử và logic, phân tích và tổng hợp lý
thuyết, điều tra xã hội học,...
6. Những đóng góp của đề tài

Luận văn góp phần xây dựng cơ sở lý luận về việc nâng cao hiệu quả giáo
dục ý thức chấp hành pháp luật tại Trường Cao đẳng Sư phạm Vĩnh Long.
Đây là cơng trình nghiên cứu, phân tích và đánh giá tồn diện về thực
trạng của việc giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho sinh viên ở Trường Cao
đẳng Sư phạm Vĩnh Long và ý thức chấp hành pháp luật của sinh viên Trường,


9

bước đầu đề xuất quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo
dục ý thức chấp hành pháp luật cho sinh viên của Nhà trường.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.


10

NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC
Ý THỨC CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1. Khái niệm pháp luật, ý thức pháp luật
- Khái niệm pháp luật
Bàn về khái niệm pháp luật đã rất nhiều nhà tư tưởng hoặc học giả đưa ra
những quan điểm khác nhau. Tùy thuộc vào các trường phái pháp luật khác nhau mà
có những định nghĩa khác nhau về pháp luật. Tiêu biểu như St. Augustine (354430) (còn được gọi là Thánh Augustine), triết gia thần học La Mã này cho rằng:
luật bất công không phải là luật. Quan điểm này trở thành luận đề chủ đạo cho
trường phái pháp luật tự nhiên trong nhiều thế kỷ ở phương Tây. Đối với Jean

Jacques Rousseau (1712-1778), triết gia Khai sáng người Thụy Sỹ, một trong
những cha đẻ của thuyết Khế ước xã hội, pháp luật là đạo luật thể hiện ý chí
chung của cộng đồng. Nói cách khác, pháp luật là những quy tắc xử sự chung,
bắt buộc thể hiện ý chí chung của cộng đồng, xã hội, phản ánh lợi ích của mỗi
cộng đồng dân cư.
Theo học thuyết Mác – Lênin, vào cuối thời kỳ xã hội cộng sản nguyên
thủy, con người đã biết chế tạo và sử dụng công cụ lao động bằng kim khí thay
thế cho cơng cụ bằng đá trước đó. Vì thế, lực lượng sản xuất ngày càng phát
triển, dẫn đến nhu cầu phân công lao động xã hội, từ đó mà có sản phẩm dư
thừa, dẫn đến sự ra đời chế độ tư hữu. Xuất hiện giai cấp chủ nơ và nơ lệ xung
đột về lợi ích giai cấp ngày càng gay gắt và cuộc đấu tranh giai cấp là khơng thể
điều hịa được. Trong điều kiện đó, thị tộc trở nên bất lực. Để điều hành và quản
lý xã hội trong tình hình mới, cần có một tổ chức mới do giai cấp nắm ưu thế về
kinh tế lập ra để đủ sức dập tắt xung đột giữa các giai cấp hay giữ nó trong vịng


11

trật tự. Tổ chức đó chính là nhà nước. Trước điều kiện lịch sử mới, nhiều tập
quán xã hội trước kia được sử dụng để điều chỉnh các quan hệ xã hội cộng sản
ngun thủy khơng cịn phù hợp nữa, mà cần thiết phải có một loại quy phạm
mới để duy trì trật tự xã hội phù hợp với ý chí, lợi ích của giai cấp thống trị, đó
là quy phạm pháp luật. Như vậy, pháp luật ra đời cùng với nhà nước và gắn bó
mật thiết với nhà nước. Điều này cũng có nghĩa, pháp luật mang tính giai cấp,
thể hiện ý chí giai cấp thống trị, pháp luật bảo vệ lợi ích giai cấp thống trị.
Khẳng định về vấn đề này, khi nghiên cứu pháp luật tư sản, C.Mác và
Ph.Ăngghen khẳng định: "Pháp luật tư sản chẳng qua chỉ là ý chí của giai cấp tư
sản được đưa lên thành luật, cái ý chí và nội dung của nó là do điều kiện sinh
hoạt vật chất của giai cấp tư sản quyết định" [29, tr.262]. Bên cạnh đó, pháp luật
cịn mang tính xã hội. Nhà nước khơng thể tồn tại lâu dài nếu pháp luật chỉ bảo

vệ lợi ích của giai cấp thống trị mà không quan tâm đến lợi ích của các giai cấp,
tầng lớp khác. Tuy nhiên, mức độ biểu hiện của hai tính chất này rất khác nhau,
tùy theo chế độ chính trị, điều kiện kinh tế - xã hội, tình hình chính trị ở mỗi
nước vào mỗi thời kỳ lịch sử nhất định.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên thì: "Pháp luật là
quy tắc, hành vi của cơng dân do nhà nước quy định, ban hành, buộc phải tuân
theo, không được tái phạm" [60, tr.1320].
Tuy nhiên, theo quan điểm phổ biến của khoa học pháp lý Việt Nam thì:
"Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành (hoặc thừa
nhận) để điều chỉnh các quan hệ xã hội phù hợp với ý chí giai cấp thống trị và
được nhà nước đảm bảo thực hiện" [6, tr.40].
Hiểu theo nghĩa khoa học pháp lý thì pháp luật là hệ thống quy tắc ứng xử
giữa các chủ thể với nhau trong những trường hợp hoàn cảnh nhất định được
nhà nước đặt ra. Bên cạnh đó, pháp luật là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp
gay gắt khơng thể điều hịa được, pháp luật do giai cấp thống trị ban hành hoặc
thừa nhận nên trước hết pháp luật phải thể hiện ý chí giai cấp thống trị. Cuối


12

cùng, pháp luật là công cụ để điều chỉnh hành vi con người, điều chỉnh quan hệ
xã hội. Nhà nước ở đây là giai cấp thống trị quy định rõ những gì được làm,
khơng được làm và phải làm cho các cá nhân, tổ chức đồng thời có cơ chế đảm
bảo thực hiện cũng như có chế tài xử lý thích hợp.
Từ sự phân tích trên có thể khái qt khái niệm pháp luật như sau: Pháp
luật là hệ thống những quy tắc xử sự chung, mang tính bắt buộc của nhà nước
đối với mọi chủ thể trong xã hội, do nhà nước của giai cấp cầm quyền xây dựng,
ban hành và đảm bảo thực hiện nhằm mục đích điều chỉnh các quan hệ xã hội
phù hợp với ý chí, lợi ích của giai cấp cầm quyền.
- Khái niệm ý thức pháp luật

Khái niệm ý thức
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam: "Ý thức sự nhận thức bằng trí tuệ,
trực giác, cảm xúc và toàn bộ các tri giác và thơng tin từ thế giới bên ngồi mà
con người có được vào mọi khoảnh khắc của cuộc đời, được sắp xếp lại theo
cách của mỗi người" [22, tr.1085]. Ý thức là lĩnh vực phức tạp. Trong triết học ý
thức được xem như là vấn đề kinh điển được các nhà triết học thuộc các trường
phái khác nhau quan tâm nghiên cứu. Các nhà triết học duy tâm cường điệu tính
năng động sáng tạo của ý thức. Ngược lại, các nhà triết học duy vật lại xem ý
thức là sự phản ánh thụ động, giản đơn, máy móc khơng thấy tính năng động,
sáng tạo của ý thức.
Khắc phục những hạn chế trên của các nhà triết học trước đó, chủ nghĩa
duy vật Mácxít xem ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc
con người một cách năng động, sáng tạo. Với quan điểm này, chủ nghĩa duy vật
Mácxít xem ý thức là sự phản ánh, là cái phản ánh, còn vật chất – tồn tại khách
quan, độc lập với ý thức con người. Ý thức là cái phản ánh thế giới khách quan,
nhưng nó thuộc phạm vi chủ quan, là thực tại chủ quan. Tuy vậy, ý thức không
phải là sự phản ánh giản đơn, thụ động, máy móc của sự vật. Ý thức là ý thức của
con người, mà con người là thực thể xã hội năng động sáng tạo. Do đó, ý thức


13

con người có tính năng động, sáng tạo. Ý thức là sự phản ánh sáng tạo lại hiện
thực, theo nhu cầu thực tiễn xã hội. Vì vậy ý thức "chẳng qua chỉ là vật chất được
đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi ở trong đó" [30,
tr.35]. Nói cách khác, ý thức là hình thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan.
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan. Đây là sự phản ánh đặc biệt phản ánh trong quá trình con người cải tạo thế giới. Quá trình ý thức là q trình
thống nhất của ba mặt: trao đổi thơng tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh;
mơ hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần; chuyển mơ

hình từ tư duy ra hiện thực khách quan.
Ý thức pháp luật:
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam: "Ý thức pháp luật là tổng hợp những
quan điểm, tư tưởng, học thuyết thể hiện thái độ của con người, các nhóm xã
hội, giai cấp…đối với pháp luật, pháp chế cũng như những quan điểm của họ về
sự hợp pháp và không hợp pháp" [22, tr.1086].
Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội được phát sinh, hình thành
cùng với ý thức chính trị của các giai cấp trong xã hội. Xuất phát từ vai trò quyết
định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội, vì vậy trong xã hội, mỗi giai cấp,
tầng lớp khác nhau tất yếu có những nhận thức khác nhau về pháp luật. Trong xã
hội có giai cấp đối kháng, chỉ có ý thức pháp luật của giai cấp cầm quyền mới
được phản ánh đầy đủ trong pháp luật.
Ý thức pháp luật mang tính chính trị sâu sắc vì nội dung của nó phản ánh
những nhu cầu về chính trị. Những quy định pháp luật của nhà nước xây dựng,
ban hành bao giờ cũng liên quan đến đời sống chính trị xã hội. Ví dụ: Những
quy định về hình thức nhà nước, chế bộ bầu cử và quyền bầu cử, nguyên tắc tổ
chức hoạt động của bộ máy nhà nước…Ý thức pháp luật còn thể hiện những nhu
cầu về kinh tế, đạo đức văn hóa của xã hội. Ví dụ: những quan điểm, tư tưởng,
quan niệm về những phương pháp và điều kiện để thỏa mãn các nhu cầu về sinh


14

hoạt vật chất của công dân, về quan hệ hôn nhân gia đình…Ý thức pháp luật
cũng thể hiện tình cảm của con người với các quy phạm pháp luật. Ví dụ: Sự tôn
trọng, quy định của pháp luật hiện hành, thái độ bất bình đối với hành vi phạm
pháp, mong muốn tham gia phòng, chống tội phạm bảo vệ pháp chế…
Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội nên nó có tất cả những đặc
trưng của ý thức xã hội nói chung. Điều này có nghĩa là ý thức pháp luật cũng
chịu sự quy định của tồn tại xã hội. Tuy nhiên, ý thức pháp luật cũng có tính độc

lập tương đối. Ý thức pháp luật thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội hoặc có
thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, nghĩa là ý thức cũng có tính tiên
phong. Ý thức pháp luật phản ánh tồn tại xã hội của thời đại nào đó, song nó
cũng kế thừa những yếu tố nhất định của ý thức pháp luật của thời đại trước đó.
Những yếu tố được kế thừa đó có thể là tiến bộ hoặc khơng tiến bộ. Ý thức pháp
luật tác động trở lại đối với tồn tại, với ý thức chính trị, đạo đức và các yếu tố
thuộc kiến trúc thượng tầng như nhà nước và pháp luật. Tùy theo ý thức pháp
luật đó tiến bộ hay lạc hậu mà sự tác động của nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm
sự phát triển các hiện tượng trên.
Ý thức pháp luật là hiện tượng xã hội phức tạp, tùy vào cách tiếp cận mà
có những yếu tố cấu thành khác nhau. Mỗi cách phân chia đều có ý nghĩa nhất
định trong việc tìm hiểu bản chất, đặc điểm và vai trò của ý thức pháp luật. Ở
đây, chúng ta có thể phân chia ý thức pháp luật thành hai bộ phận cấu thành: tư
tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật. Tư tưởng pháp luật là tổng hợp các quan
điểm, ý niệm, tư tưởng của con người về đời sống pháp luật hợp thành hệ thống
thống nhất phản ánh một cách sâu sắc đời sống pháp luật trên lập trường của giai
cấp nhất định. Ở nước ta hiện nay, tư tưởng pháp luật của chủ nghĩa Mác –
Lênin và Hồ Chí Minh được phản ánh cụ thể trong đường lối chính sách của
Đảng và Nhà nước ta. Sự hình thành ý thức pháp luật ở Việt Nam là quá trình tự
giác dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối
chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì thế ý thức pháp luật nước ta mang


15

bản chất của giai cấp cơng nhân và tính nhân dân. Tâm lý pháp luật được thể
hiện dưới dạng tâm trạng, cảm xúc, thái độ, tình cảm đối với pháp luật và các
hiện tượng pháp lý khác thông qua việc giao tiếp với các văn bản pháp luật và
hiện tượng pháp luật. Nó là nấc thang đầu tiên của nhận thức con người về vấn
đề liên quan đến pháp luật, là kết quả của nhận thức trực tiếp, mang nhiều yếu tố

chủ quan, cảm tính.
Tâm lý pháp luật gồm có tình cảm, truyền thống, thói quen, niềm tin pháp
luật. Trong đó tình cảm pháp luật là yếu tố năng động nhất. Nếu chủ thể nhận
thức được giá trị của pháp luật và cơ chế điều chỉnh pháp luật phù hợp với ý chí
nguyện vọng của họ thì sẽ nảy sinh tình cảm pháp luật tích cực và ngược lại sẽ
nảy sinh tình cảm tiêu cực. Cịn truyền thống, thói quen, niềm tin pháp luật là
nhân tố tương đối ổn định trong tâm lý pháp luật. Chúng được hình thành theo
thời gian, trải qua thử thách giúp cho con người hoạt động cách tự giác và kiên
định. Vì vậy nó là yếu tố quan trọng trong việc hình thành ý thức pháp luật.
1.1.2. Chấp hành pháp luật, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật
- Khái niệm chấp hành pháp luật
Trong xã hội có vơ vàn các mối quan hệ, để đảm bảo cho các quan hệ ấy
được diễn ra phù hợp với ý chí của nhà nước thì bên cạnh việc xây dựng hệ
thống văn bản pháp luật đầy đủ, hoàn chỉnh, đồng bộ, nhà nước cần phải tổ chức
đưa các quy định của pháp luật đó vào cuộc sống. Pháp luật chỉ có ý nghĩa thực
sự khi nó được thực hiện bởi các chủ thể pháp luật trong đời sống hàng ngày.
Các quy phạm pháp luật rất phong phú cho nên cách thức thực hiện chúng
cũng rất khác nhau. Mặt khác, chủ thể pháp luật khác nhau thì thực hiện pháp
luật cũng khác nhau. Theo các giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật hiện
nay, các hình thức thực hiện pháp luật được xếp loại một cách tương đối. Nhìn
chung có bốn hình thức thực hiện pháp luật sau đây: Tuân thủ (tuân theo) pháp
luật; chấp hành (thi hành) pháp luật; sử dụng pháp luật; áp dụng pháp luật. Như
vậy, chấp hành (thi hành) pháp luật là một trong những hình thức thực hiện pháp


16

luật. Theo đó chấp hành (thi hành) pháp luật là hình thức thực hiện các quy
phạm pháp luật bắt buộc (quy định các nghĩa vụ hay cách xử sự rõ ràng mà cá
nhân, tổ chức phải làm bằng hành vi cụ thể). Các cá nhân, tổ chức thi hành pháp

luật bằng việc chủ động, tích cực thực hiện các nghĩa vụ của mình. Ví dụ: Cá
nhân, tổ chức thuộc diện nộp thuế phải nộp thuế; Vợ chồng ly hôn mà có con
chưa thành niên thì cha, mẹ khơng trực tiếp ni con có nghĩa vụ cấp dưỡng
con; ... Ở đây để chủ thể pháp luật muốn chấp hành đúng pháp luật quy định thì
cần biết rõ bản thân phải làm gì bằng hành động chủ động tích cực.
Song song đó, với những quy phạm pháp luật mang tính chất bắt buộc thì
nhà nước cũng xây dựng những quy phạm mang tính chất cấm đốn để phịng
ngừa các hành vi phạm pháp. Việc các chủ thể không tiến hành những hoạt động
mà pháp luật cấm gọi là tuân thủ pháp luật. Nó thường được thể hiện bằng cách
xử sự thụ động (khơng hành động). Ví dụ: Khơng được kết hơn trong phạm vi
ba đời; không được đua xe trái phép; không được buôn bán, vận chuyển, tàng trữ
trái phép chất ma túy…Vì vậy để chủ thể tuân thủ pháp luật nghiêm chỉnh thì
bản thân chủ thể phải biết những gì khơng được làm và kiềm chế không tiến
hành những hành vi bị pháp luật cấm.
Tuy nhiên, nếu nhìn nhận theo nghĩa rộng hơn thì chấp hành pháp luật bao
hàm ln cả tuân thủ pháp luật. Xét cho đến cùng, cả tuân thủ pháp luật và chấp
hành pháp luật đều là hành vi hợp pháp, tơn trọng pháp luật, nhằm mục đích
thực hiện đúng những quy định của pháp luật, bảo vệ trật tự, kỷ cương của xã
hội.
Từ những phân tích trên, có thể quan niệm chấp hành pháp luật như sau:
Chấp hành pháp luật là hành vi của bất cứ chủ thể pháp luật nào đều phải tuân
theo những quy phạm pháp luật do nhà nước của chính chủ thể pháp luật đó xây
dựng và ban hành (bao gồm cả xử sự chủ động và thụ động).
- Giáo dục ý thức chấp hành pháp luật


17

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: Hiền, dữ phải đâu là
tính sẵn/ Phần nhiều do giáo dục mà nên. Điều này có nghĩa là bản tính con

người có thể thay đổi thơng qua giáo dục. Theo đó giáo dục được hiểu là q
trình hình thành và phát triển nhân cách dưới ảnh hưởng của tất cả các hoạt động
từ bên ngoài, được thực hiện một cách có ý thức của con người trong nhà
trường, gia đình và ngồi xã hội.
Song, xã hội có nhiều lĩnh vực, nhiều mối quan hệ nên giáo dục cũng rất
phong phú như: giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục ý thức chấp hành pháp
luật, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mỹ. Trong đó, giáo dục ý thức chấp hành
pháp luật cho công dân là thực sự cần thiết khi mà hiện nay cả nước đang quyết
tâm xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Giáo dục ý thức chấp hành pháp
luật bên cạnh những điểm giống với các hoạt động giáo dục khác thì nó cũng có
những điểm khác biệt vốn có.
Điểm giống nhau giữa hoạt động giáo dục ý thức chấp hành pháp luật và
các hoạt động giáo dục khác đều là hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế
hoạch, có phương pháp, có phương tiện của chủ thể giáo dục tác động lên đối
tượng chịu sự giáo dục nhằm đạt được những mục đích nhất định. Tuy nhiên nội
dung, phương pháp, hình thức của giáo dục ý thức chấp hành pháp luật có những
đặc thù riêng để phù hợp với mục đích của nó đặt ra – đó là hình thành ý thức
chấp hành pháp luật cho đối tượng giáo dục. Ý thức chấp hành pháp luật là một
trong các yếu tố cấu thành ý thức pháp luật. Ý thức chấp hành pháp luật là niềm
tin, thái độ tơn trọng pháp luật, thói quen xử sự phù hợp với những quy định của
pháp luật. Vì vậy, chúng ta cần phải giáo dục ý thức chấp hành pháp luật để đối
tượng giáo dục có ý thức chấp hành luật nghiêm túc. Bởi lẽ, ý thức chấp hành
pháp luật là tiền đề trực tiếp để thực hiện pháp luật.
Nhìn chung có thể khẳng định: Giáo dục ý thức chấp hành pháp luật là
hoạt động có định hướng, có tổ chức, có mục đích của chủ thể giáo dục tác động
đến đối tượng giáo dục thông qua các phương pháp, phương tiện, hình thức giáo


18


dục với nội dung phù hợp nhằm góp phần hình thành tri thức, tình cảm, niềm tin
vào pháp luật và thái độ tơn trọng pháp luật, thói quen xử sự phù hợp với những
quy định của pháp luật, tránh những hành vi bất hợp pháp của đối tượng giáo
dục.
1.2. Mục đích, nội dung, phương pháp và hình thức giáo dục ý thức
chấp hành pháp luật cho sinh viên hiện nay
1.2.1. Mục đích của việc giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho sinh viên
Từ việc khái quát khái niệm giáo dục ý thức chấp hành pháp luật, chúng ta có
thể nhận thức ở đó phần nào nêu lên mục đích của việc giáo dục ý thức chấp hành
pháp luật. Thật vậy, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho sinh viên góp phần
từng bước hình thành, làm sâu sắc mở rộng hệ thống tri thức pháp luật cho sinh
viên. Bằng việc giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho sinh viên nhằm từng
bước trang bị những tri thức cơ bản về pháp luật như vai trò pháp luật, chức
năng pháp luật, các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành cùng với đó là những
quy phạm pháp luật trong từng lĩnh vực đời sống. Giáo dục ý thức chấp hành
pháp luật cho sinh viên không chỉ trang bị những kiến thức cơ bản trên mà còn
giúp cho các em tự biết cách đánh giá những hành vi nào là hợp pháp, hành vi
nào là bất hợp pháp. Từ đó, sinh viên tự điều chỉnh hành vi của mình phù hợp
với yêu cầu của pháp luật. Đến lượt mình, bản thân sinh viên có thể là những
tun truyền viên, vận động những người xung quanh chấp hành tốt pháp luật
trên cơ sở những kiến thức pháp luật mình đã được trang bị để tất cả mọi người
đều nhận thức rằng "Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật" là tất yếu
khơng thể thiếu được.
Bên cạnh đó, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho sinh viên cịn góp
phần xây dựng niềm tin vào pháp luật, tơn trọng pháp luật. Nếu mục đích giáo
dục ý thức chấp hành pháp luật chỉ dừng lại ở việc trang bị kiến thức pháp luật
cho sinh viên thì chưa đầy đủ. Vì trong đời sống hằng ngày, nhiều người tuy có
kiến thức pháp luật phong phú nhưng vẫn coi thường pháp luật. Họ lợi dụng



19

pháp luật để mưu lợi ích riêng làm ảnh hưởng đến lợi ích chung của mọi người,
xã hội. Nguyên nhân xuất phát từ việc họ khơng có tình cảm, niềm tin với pháp
luật. Cho nên giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho sinh viên cần phải giúp
cho sinh viên hình thành tình cảm, niềm tin pháp luật. Từ đó hình thành ở họ
thái độ tơn trọng pháp luật, hình thành những hành vi hợp pháp một cách tự giác
không cần sự tác động của nhà nước.
Tuy nhiên, để hình thành tình cảm, niềm tin vào pháp luật ở sinh viên
chúng ta cần phải giáo dục tình cảm cơng bằng. Nghĩa là giáo dục cho sinh viên
biết cách tự đánh giá về các quy phạm pháp luật; biết cách xác định, đánh giá
tiêu chí của tính cơng bằng để tự đánh giá hành vi của chính mình; trên cơ sở
những quy phạm pháp luật hiện hành mà sinh viên biết cách ứng xử với người
khác và của chính bản thân. Không chỉ như vậy, chúng ta cần giáo dục tình cảm
trách nhiệm cho sinh viên. Giáo dục ý thức về nghĩa vụ pháp lý của sinh viên
cần phải thực hiện trong từng mối quan hệ xác định nhằm hình thành ý thức tuân
thủ pháp luật. Sau cùng, chúng ta cần giáo dục thái độ đấu tranh chống lại các
hành vi vi phạm pháp luật, không khoan nhượng đối với kẻ phạm pháp.
Mục đích giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho sinh viên không chỉ
dừng lại ở việc trang bị tri thức pháp luật, hình thành tình cảm, niềm tin pháp
luật mà giá trị hơn hết là giáo dục ý thức nhân cách, rèn luyện thói quen, hành vi
tuân thủ pháp luật. Theo đó, chủ thể giáo dục cần hình thành ở sinh viên thói
quen, hành vi tn thủ pháp luật, tránh những điều mà pháp luật cấm; thực hiện
đúng quyền và nghĩa vụ của công dân; biết đấu tranh chống lại những hành vi
phạm pháp; biết vận dụng những tri thức pháp luật để bảo vệ lợi ích của mình,
những người xung quanh khi bị xâm phạm. Thật vậy, việc giáo dục ý thức chấp
hành pháp luật cho sinh viên sẽ khơng được xem là có hiệu quả nếu mục đích
thứ ba này khơng đạt được. Bởi vì, suy cho cùng, giáo dục ý thức chấp hành
pháp luật cho sinh viên nhằm giúp họ có thói quen, hành vi tuân thủ những quy



20

định pháp luật. Chúng ta cũng cần khẳng định rằng mục đích thứ ba sẽ khơng
xuất hiện nếu khơng đạt được hai mục đích trước đó.
1.2.2. Nội dung giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho sinh viên
Giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho sinh viên là q trình tác động
có tổ chức nhằm hình thành ở đối tượng được giáo dục những: tri thức; niềm tin,
tình cảm về pháp luật; thói quen chấp hành các quy định của pháp luật. Trên nền
tảng đó, sinh viên chuẩn bị những điều kiện cần thiết để tham gia vào quá trình
học tập và lao động sau này. Để đạt những mục đích nói trên, giáo dục ý thức
chấp hành pháp luật cho sinh viên cần phải xác định những nội dung phù hợp
với đối tượng giáo dục. Việc xác định nội dung giáo dục ý thức chấp hành pháp
luật cho sinh viên phải là kết quả của việc nhận thức pháp luật của chủ thể giáo
dục trước yêu cầu của quá trình phát triển xã hội.
Nội dung giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho sinh viên phải đáp ứng
các yêu cầu về nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật được quy định trong Luật
Giáo dục và Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật. Đây cũng chính là những nội
dung chung của giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho sinh viên.
Theo đó, tại khoản 1 điều 5 của Luật giáo dục năm 2005 được sửa đổi, bổ
sung năm 2009 quy định rõ: "Nội dung giáo dục phải bảo đảm tính cơ bản, tồn
diện, thiết thực, hiện đại và có hệ thống; coi trọng giáo dục tư tưởng và ý thức
công dân; kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp, bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phù hợp với sự phát triển về tâm sinh lý lứa tuổi
của người học" [33, tr.13].
Cụ thể hơn tại điều 10 của Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 do
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xác định rõ nội dung phổ
biến, giáo dục pháp luật như sau:
"1. Quy định của Hiến pháp và văn bản quy phạm pháp luật, trọng tâm là
các quy định của pháp luật về dân sự, hình sự, hành chính, hơn nhân và gia đình,



×