Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Tài liệu Tiểu luận triết học "Những nét cơ bản nhất của lịch sử hình thành phép biện chứng" ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.94 KB, 25 trang )

Tiểu luận triết học

"Những nét cơ bản
nhất của lịch sử
hình thành phép
biện chứng"

1


MỤC LỤC
Lời nói đầu
I. Phân biệt phép biện chứng và phép siêu hình
II. Sự hình thành phép biện chứng trong thời kỳ cổ đại
1. Phép biện chứng trong triết học Ấn Độ cổ đại
2. Phép biện chứng trong triết học Trung Quốc cổ đại
3. Phép biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại
III. Sự hình thành phép biện chứng thời kỳ phục hưng và cận đại ở Tây Âu
1. Phép biện chứng trong thời kỳ phục hưng
2. Phép biện chứng trong thời kỳ cận đại
IV. Sự hình thành phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức
1. Phép biện chứng của Imanuen Cantơ
2. Phép biện chứng của Hêghen
V. Sự hình thành phép biện chứng duy vật Mácxít
1. Phép biện chứng duy vật trong giai đoạn Mác - Ăngghen
2. Giai đoạn Lênin bảo vệ và phát triển phép biện chứng duy vật Mácxít
VI. Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu lịch sử hình thành phép biện chứng
Lời kết
Tài liệu tham khảo

LỜI NÓI ĐẦU


Lịch sử phát triển của triết học là lịch sử phát triển của tư duy triết học gắn liền với
cuộc đấu tranh của hai phương pháp tư duy biện chứng và siêu hình. Lịch sử phép biện chứng
đã trải qua quá trình phát triển lâu dài và đã có lúc bị phép siêu hình thống trị. Song với tính
chất khoa học và cách mạng của mình, phép biện chứng mà đỉnh cao là phép biện chứng duy

2


vật đã khẳng định vị trí của mình là học thuyết về sự phát triển dưới hình thức hồn bị nhất,
sâu sắc nhất và không phiến diện.
Thực tiễn cách mạng đã chứng minh rằng chỉ khi nào con người nắm vững những lý
luận về phép biện chứng và vận dụng sáng tạo các nguyên tắc phương pháp luận của nó phù
hợp với hồn cảnh lịch sử cụ thể thì q trình cải tạo tự nhiên và biến đổi xã hội mới thực sự
mang tính cách mạng triệt để. Ngược lại, quan điểm siêu hình ln xem xét sự vật trong trạng
thái biệt lập với lối tư duy cứng nhắc sẽ dẫn tới những hạn chế và sai lầm không thể tránh khỏi
trong tiến trình phát triển xã hội. Vì vậy, việc nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển
của phép biện chứng, trên cơ sở đó vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng được đặt ra
như một nhu cầu cần thiết và tất yếu.
Tiến trình cải tổ nền kinh tế và đổi mới mọi mặt đời sống xã hội ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay hơn lúc nào hết cần phải quán triệt tư duy biện chứng triệt để dựa trên lập trường
duy vật vững vàng. Lý luận về phép biện chứng duy vật nói riêng, chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh nói chung là kim chỉ nam đưa cách mạng nước ta giành được thắng lợi trên
con đường cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sự hình thành và phát triển phép biện chứng duy vật là một quá trình lâu dài và phức
tạp, trải qua nhiều giai đoạn khác nhau với các trình độ phát triển cao thấp khác nhau. Trong
khuôn khổ của bài tiểu luận triết học này, em xin được trình bày nhận thức của mình về những
nét cơ bản nhất của lịch sử hình thành và phát triển phép biện chứng.
Đề tài: Những nét cơ bản nhất của lịch sử hình thành phép biện chứng
Tuy đã rất cố gắng song bài viết khơng tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận
được sự đóng góp ý kiến của các thầy cơ giáo và các đồng chí học viên lớp cao học Văn hoá

học. Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 20 tháng 1 năm 2006
I. PHÂN BIỆT PHÉP BIỆN CHỨNG VÀ PHÉP SIÊU HÌNH
Biện chứng và siêu hình là hai mặt đối lập trong tư duy. Phương pháp biện chứng là
phương pháp tư duy triết học xem xét thế giới trong mối liên hệ phổ biến, trong sự vận động
và phát triển vô cùng với tư duy mềm dẻo, linh hoạt. Trái lại, phương pháp siêu hình là
phương pháp tư duy triết học xem xét thế giới trong trạng thái cô lập, phiến diện với tư duy
cứng nhắc. Lịch sử đấu tranh giữa hai phương pháp biện chứng và siêu hình luôn gắn liền
với cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng triết học cơ bản là chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm. Chính cuộc đấu tranh lâu dài của hai phương pháp này đã thúc đẩy tư duy
triết học phát triển và được hoàn thiện dần với thắng lợi của tư duy biện chứng duy vật.
Hạn chế của phương pháp siêu hình thể hiện ở chỗ chỉ thấy những sự việc cá biệt mà

3


không thấy mối liên hệ giữa những sự vật ấy, chỉ thấy sự tồn tại của sự vật mà không rhấy sự
ra đời và biến đi của sự vật, chỉ thấy trạng thái tĩnh của sự vật mà không thấy trạng thái động
của nó. Quan điểm biện chứng đã khắc phục được những hạn chế của phương pháp siêu hình
bằng cách xem xét các sự vật trong mối liên hệ qua lại với nhau, không chỉ thấy sự tồn tại mà
cịn rhấy cả sự hình thành và tiêu vong của sự vật, khơng chỉ thấy trạng thái tĩnh mà cịn thấy
cả trạng thái vận động biến đổi không ngừng của sự vật.
Tuy nhiên, Ăngghen cũng khẳng định rằng thế giới quan siêu hình là điều khơng thể
tránh khỏi và sự ra đời của nó là hợp quy luật đối với một giai đoạn nhất định trong lịch sử
phát triển của nhận thức khoa học – giai đoạn nghiên cứu các chi tiết của bức tranh toàn cảnh
về thế giới tự nhiên. Muốn nhận thức được các chi tiết ấy, người ta buộc phải tách chúng ra
khỏi những mối liên hệ tự nhiên, lịch sử của chúng để nghiên cứu riêng từng chi tiết một theo
đặc tính của chúng, theo nguyên nhân, kết quả riêng của chúng. Thời kỳ này kéo dài từ cuối
thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XVIII. Đến cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, việc nghiên cứu tiến
từ giai đoạn sưu tập sang giai đoạn chỉnh lý, nghiên cứu về các quá trình phát sinh, phát triển

của sự vật, hiện tượng thì phương pháp siêu hình khơng cịn đáp ứng được u cầu của nhận
thức khoa học. Cuộc khủng hoảng Vật lý học cuối thế kỷ XIX do ảnh hưởng của quan niệm
siêu hình là một minh chứng cho hạn chế của phương pháp siêu hình. Những kết quả nghiên
cứu của khoa học tự nhiên, nhất là vật lý học và sinh học đã đòi hỏi và chứng tỏ rằng cần phải
có một cách nhìn biện chứng về thế giới và khi đó, phép siêu hình đã bị phủ định nhường chỗ
cho phép biện chứng.
Trong lịch sử triết học, phương pháp biện chứng đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển
cao thấp khác nhau, trong đó phép biện chứng duy vật là thành quả phát triển cao nhất và khoa
học nhất của tư duy biện chứng. Sau đây chúng ta sẽ nghiên cứu sự hình thành phép biện
chứng qua từng thời kỳ lịch sử nhất định, bắt đầu từ thời kỳ cổ đại đến thời kỳ phục hưng và
cận đại, tiếp đó hình thành phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức và sau cùng hồn chỉnh ở
phép biện chứng duy vật Mácxít.
II. SỰ HÌNH THÀNH PHÉP BIỆN CHỨNG THỜI KỲ CỔ ĐẠI
Ba nền triết học tiêu biểu của thời kỳ cổ đại được biết đến là nền triết học Ấn Độ cổ
đại, triết học Trung Quốc cổ đại và triết học Hy Lạp cổ đại.
1. Phép biện chứng trong triết học Ấn Độ cổ đại
Ấn Độ cổ đại là một vùng đất thuộc nam châu Á có điều kiện khí hậu hết sức khắc
nghiệt và địa hình tách biệt với các quốc gia, do đó Ấn Độ cổ đại trở thành một nền văn minh
khép kín. Các tư tưởng tơn giáo rất phát triển trong xã hội Ấn Độ thường xuyên đan xen vào
triết học làm nên nét đặc thù riêng của triết học Ấn Độ cổ đại. Có thể nói, triết học Ấn Độ tuy

4


cịn ở trình độ sơ khai song nó đã chứa đựng các yếu tố về bản thể luận và những tư duy biện
chứng. Các tư tưởng biện chứng mộc mạc, thô sơ được tập trung thể hiện trong một số trường
phái triết học Ấn Độ cổ đại sau:
a. Triết học Samkhya
Theo phái Samkhya, Prakriti là vật chất đầu tiên ở dạng tinh tế, trầm ẩn, vơ định hình
và trong nó chứa đựng khả năng tự biến hố. Prakriti khơng ngừng biến hố, phát triển trong

khơng gian theo luật nhân quả dẫn tới xuất hiện tính đa dạng của giới tự nhiên. Tuy nhiên, về
bản thể luận, phái Samkhya theo quan điểm nhị nguyên luận khi thừa nhận sự tồn tại hai bản
nguyên của vũ trụ là bản nguyên vật chất Prakriti và bản nguyên tinh thần Prusa.
b. Triết học Jaina
Tư tưởng biện chứng của phái Jaina thể hiện ở học thuyết tương đối. Theo đó, tồn tại
vừa bất biến, vừa biến chuyển. Cái vĩnh hằng là bản thể còn cái không vĩnh hằng luôn biến đổi
là các dạng của bản thể. Điều đó có nghĩa là thế giới bao quanh con người vừa vận động lại
vừa đứng im, đó là một mâu thuẫn mà con người cần phải chấp nhận.
c. Triết học Lokayata
Theo phái Lokayata, mọi sự vật, hiện tượng của thế giới được tạo ra từ bốn nguyên tố
vật lý: đất, nước, lửa và khơng khí. Các ngun tố này tự tồn tại, tự vận động trong không gian
mà tạo thành tất cả các sự vật, kể cả con người. Đây là trường phái duy vật và vô thần triệt để
nhất trong các trường phái triết học Ấn Độ cổ đại. Nó ra đời từ phong trào đấu tranh chống sự
thống trị của chủ nghĩa duy tâm trong Veda và giáo lý của đạo Bàlamơn địi tự do tư tưởng và
bình đẳng xã hội.
d. Triết học Phật giáo
Khi luận giải những vấn đề thuộc thế giới quan và nhân sinh quan triết học, Phật giáo
đã đề cập tới hàng loạt những vấn đề thuộc phạm vi của phép biện chứng, với tư cách là học
thuyết triết học về mối liên hệ phổ biến và sự biến đổi của mọi tồn tại. Thế giới quan triết học
phật giáo và những tư tưởng biện chứng của nó được thể hiện qua một số phạm trù cơ bản là:
vô ngã, vô thường và nhân quả.
- Vơ ngã là khơng có cái tơi bất biến. Cách nhìn này hồn tồn đối lập với cách nhìn
siêu hình về tồn tại. Cũng từ cách nhìn này, triết học Phật giáo đưa ra những nguyên lý về mối
liên hệ tất định, phổ biến: khơng có cái nào là biệt lập tuyệt đối so với tồn tại khác, tất cả đều
hồ đồng nhau.
- Vơ thường nói lên sự biến đổi khơng ngừng của vạn vật, khơng có cái gì đứng im.
Quy luật vơ thường của mọi tồn tại là Sinh - Trụ - Dị - Diệt.
Đây là một phỏng đoán biện chứng về sự biến đổi của tồn tại.

5



- Quy luật nhân quả cho rằng sự tồn tại đa dạng và phong phú của thế giới đều có
nguyên nhân tự thân, đó là quy luật nhân quả, một định lý tất định và phổ biến của mọi tồn tại,
dù đó là vũ trụ hay nhân sinh.
Triết học ấn Độ là một trong những nôi triết học vĩ đại của lồi người thời kỳ cổ đại.
Nó chứa đựng những yếu tố duy vật, vô thần và đã manh nha hình thành các tư tưởng biện
chứng sơ khai. Tuy nhiên, tư duy triết học thời kỳ này cũng bộc lộ nhiều hạn chế như: coi linh
hồn con người là bất tử (đạo Phật) hay phán đoán về thế giới hiện tượng của phái Jaina.
2. Phép biện chứng trong triết học Trung Quốc cổ đại
Trung Quốc là một quốc gia rộng lớn và có lịch sử phát triển lâu đời vào bậc nhất thế
giới. Đó là một trong những trung tâm tư tưởng lớn nhất của nhân loại thời cổ. Triết học
Trung Quốc cổ đại chịu sự chi phối trực tiếp của những vấn đề chính trị xuất phát từ hiện
trạng xã hội biến động đương thời. Chính vì vậy trong thời kỳ này, các triết gia Trung Quốc
thường đẩy sâu quá trình suy tư về các vấn đề thuộc vũ trụ quan và biến dịch luận. Song cần
phải khẳng định rằng, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng trong triết học Trung Quốc cổ đại
là chủ nghĩa duy vật chất phác và phép biện chứng tự phát. Có thể thấy một số tư tưởng biện
chứng nổi bật của triết học Trung Quốc cổ đại qua một số trường phái triết học sau:
a. Trường phái triết học Âm Dương gia
Về căn bản, những kiến giải về vũ trụ quan của triết học Trung Quốc cổ đại mang tinh
thần biện chứng sâu sắc (nếu hiểu theo nguyên tắc: phép biện chứng là học thuyết triết học về
sự biến đổi). Điển hình cho tư duy này là học thuyết Âm - Dương. Nội dung triết học căn bản
của phái Âm -Dương là lý luận về sự biến dịch, được khái quát thành những nguyên lý phổ
biến, khách quan và tất yếu.
Một là, phái Âm - Dương nhìn nhận mọi tồn tại khơng phải trong tính đồng nhất tuyệt
đối. Trái lại, tất cả đều bao hàm sự thống nhất của các mặt đối lập, gọi là sự thống nhất của
Âm và Dương. Nói cách khác, Âm -Dương là đối lập nhau nhưng là điều kiện tồn tại của
nhau. Hơn nữa, học thuyết Âm - Dương còn thừa nhận mọi thực tại trên tinh thần biện chứng
là trong mặt đối lập này đã bao hàm khả năng của mặt đối lập kia. Đây là một cách lý giải biện
chứng về sinh thành, về vận động.

Hai là, nguyên lý của sự sinh thành và vận động là có tính quy luật, chu kỳ và chu kỳ
đó được bảo đảm bởi nguyên tắc cân bằng Âm - Dương.
Ba là, nguyên lý phân đôi cái thống nhất trong lơgíc của sự vận động là một ngun lý
tất định. Ngun lý đó được khái qt bằng một lơgíc như sau: Thái cực sinh Lưỡng nghi,
Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái, Bát quái tương thôi sinh vô cùng (vạn
vật).

6


Về bản thể luận, phái Âm - Dương quy thế giới về những dạng vật chất cụ thể và coi
chúng là nguồn gốc sinh ra vạn vật. Theo phái này, nguyên thuỷ của thế giới bao gồm Kim Mộc - Thuỷ - Hoả - Thổ.
b. Triết học của phái Đạo gia
Người khởi xướng triết học phái Đạo gia là Lão Tử. Những ý kiến luận giải về Đạo,
coi Đạo là nguyên lý duy nhất và tuyệt đối trong sự vận hành của vũ trụ đã thể hiện rất sâu sắc
quan điểm biện chứng của Lão Tử. Trong đó nổi bật lên hai quan điểm về phép biện chứng
của ông là quan điểm về luật quân bình và quan điểm về luật phản phục. Luật quân bình để
giữ cho sự vận hành của vạn vật được cân bằng, không thái quá mà cũng khơng bất cập. Phản
phục là nói lên tính tuần hồn, tính chu kỳ trong q trình biến dịch của vạn vật.
Sự thống nhất biện chứng của các mặt đối lập cũng là một tư tưởng biện chứng độc
đáo của Lão Tử. Ơng cho rằng: có và khơng sinh lẫn nhau, dễ và khó tạo nên nhau, ngắn và
dài làm rõ nhau, cao và thấp tựa vào nhau, trước và sau theo nhau. Trong đó, mỗi mặt đều
trong mối quan hệ với mặt đối lập, khơng có mặt này thì cũng khơng có mặt kia và giữa chúng
chỉ là tương đối. Tuy nhiên, sự đấu tranh chuyển hoá của các mặt đối lập trong sự vật, hiện
tượng không theo khuynh hướng phát triển, xuất hiện cái mới mà theo vịng tuần hồn của luật
phản phục. Hơn nữa, Lão Tử không chủ trương giải quyết mâu thuẫn bằng đấu tranh của các
mặt đối lập mà ông chủ trương lấy cái tĩnh, cái vơ vi để tạo thành sự chuyển hố theo luật
qn bình. Chính vì thế, phép biện chứng của ơng mang tính chất máy móc, lặp đi lặp lại một
cách tuần hoàn.
Trang Tử cũng là một nhà tư tưởng lớn của phái Đạo gia. Học thuyết của Trang Tử có

những yếu tố duy vật và biện chứng tự phát, nhưng thế giới quan của ông về cơ bản nghiêng
về chủ nghĩa duy tâm. Khi quan niệm về vũ trụ (về Đạo), Trang Tử cho rằng Đạo trời là tự
nhiên vốn có khơng ai sinh ra. Vạn vật đều sinh ra từ Đạo và biến hoá một cách tự nhiên.
c. Triết học của phái Danh gia
Các tư tưởng biện chứng của phái Danh gia trước hết được thể hiện qua thuyết tương
đối của Huệ Thi. Huệ Thi quan niệm vạn vật trong vũ trụ ln biến đổi, chúng có tính tương
đối và hàm chứa trong đó những mặt đối lập liên hệ chuyển hoá qua lại với nhau. Nhưng do
tuyệt đối hố tính chất tương đối của sự vật, thực tại, tách rời nó với những điều kiện, những
mối liên hệ cụ thể nên về cơ bản, triết học của Huệ Thi mang tính ngụy biện và tương đối
luận.
Một biện giả khác của phái Danh gia là Công Tôn Long. Tư tưởng biện chứng tự phát
của Công Tôn Long thể hiện ở quan điểm về tính chất mâu thuẫn của sự vận động, sự thống
nhất biện chứng giữa cái vô hạn và hữu hạn, giữa đồng nhất và khác biệt. Trong đó, Cơng Tơn

7


Long đưa ra những mệnh đề có tính chất ngụy biện, chiết trung như: ngựa trắng không phải là
ngựa, trứng có lơng, bóng chim bay khơng hề động đậy. Nếu Huệ Thi chỉ chú trọng đến tính
chất tương đối, sự luôn biến đổi của sự vật, hiện tượng trong hiện thực, phóng đại một cách
phiến diện mặt tương đối của sự vật và đưa đến kết luận tương đối chủ nghĩa thì Cơng Tơn
Long lại nhấn mạnh tính tuyệt đối, tính khơng biến đổi và sự tồn tại độc lập của những khái
niệm so với cái được phản ánh trong khái niệm ấy. Công Tôn Long đã tách rời cái chung, cái
phổ biến ra khỏi những cái riêng, cái cá biệt đi tới phủ nhận sự tồn tại của những cái cụ thể
trong hiện thực.
d. Triết học của phái Pháp gia
Hàn phi là một đại biểu của phái Pháp gia. Kiên quyết phủ nhận lý luận chính trị thần
quyền, Hàn Phi được coi là một nhà vô thần luận nổi tiếng của Trung Quốc cổ đại. Các tư
tưởng triết học của ơng biểu hiện rõ tính chất duy vật và biện chứng tự phát về lịch sử và
phương pháp trị nước. Về lịch sử, Hàn Phi cho rằng lịch sử xã hội lồi người ln biến đổi, từ

trước tới nay khơng có chế độ xã hội nào vĩnh viễn tồn tại. Mặt khác, ông cho rằng động lực
căn bản quyết định sự biến đổi của lịch sử là do sự thay đổi dân số và của cải xã hội nhiều ít.
Do vậy, khi bàn về phương pháp trị nước, ông cho rằng kẻ thống trị phải căn cứ vào nhu cầu
khách quan của lịch sử, tuỳ đặc điểm, hoàn cảnh thời thế mà lập ra chế độ, đặt chính sách và
phương pháp trị nước mới cho phù hợp. Khơng có thứ luật nào luôn luôn đúng với mọi thời
đại. Tuy Hàn Phi chưa thấy được động lực thực sự của lịch sử, nhưng ơng đã cố gắng đi tìm
ngun nhân biến đổi của đời sống xã hội trong điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.
Tóm lại, do sự hạn chế của trình độ hoạt động thực tiễn và trình độ nhận thức, triết học
Trung Quốc cổ đại mới chỉ dừng lại ở chủ nghĩa duy vật chất phác, cảm tính và phép biện
chứng tự phát, sơ khai. Song với các quan điểm biện chứng trong cách kiến giải về vũ trụ
quan, có thể nói triết học Trung Quốc cổ đại đã đặt cơ sở rộng lớn cho sự phát triển các tư
tưởng biện chứng của triết học nhân loại.
3. Phép biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại
Triết học Hy Lạp cổ đại phát triển vào thế kỷ thứ VI trước CN. Cơ sở kinh tế của nền
triết học đó là quyền sở hữu của chủ nơ đối với tư liệu sản xuất và người nô lệ. Khoa học lúc
đó chưa phân ngành, các nhà triết học đồng thời là nhà toán học, vật lý học, thiên văn học,...
Nhìn chung, triết học Hy Lạp cổ đại mang tính chất duy vật tự phát và biện chứng sơ khai.
Đời sống chính trị của Hy Lạp bấy giờ sơi động, những quan hệ thương mại với nhiều nước
khác nhau trên Địa Trung Hải, sự tiếp xúc với điều kiện sinh hoạt và những tri thức muôn vẻ
của nhân dân các nước ấy, sự quan sát các hiện tượng tự nhiên một cách trực tiếp như một
khối duy nhất và lịng mong muốn giải thích chúng một cách khoa học đã góp phần quy định

8


và làm phát triển thế giới quan duy vật và biện chứng sơ khai của Hy Lạp cổ đại. Có thể tìm
hiểu các tư tưởng biện chứng nổi bật của triết học Hy Lạp cổ đại qua một số đại diện tiêu biểu
sau đây:
a. Talét
Thành tựu nổi bật của Talét là quan niệm triết học duy vật và biện chứng tự phát. Ông

cho rằng nước là yếu tố đầu tiên, là bản nguyên của mọi vật trong thế giới. Mọi vật đều sinh ra
từ nước và khi phân huỷ lại biến thành nước. Theo Talét, vật chất tồn tại vĩnh viễn, cịn mọi
vật do nó sinh ra thì biến đổi khơng ngừng, sinh ra và chết đi. Tồn bộ thế giới là một chỉnh
thể thống nhất, trong đó mọi vật biến đổi không ngừng mà nền tảng là nước. Tuy nhiên, các
quan điểm triết học duy vật của Talét mới chỉ dừng lại ở mức độ mộc mạc, thô sơ, cảm tính.
Ơng chưa thốt khỏi ảnh hưởng của quan niệm thần thoại và tôn giáo nguyên thuỷ khi ông cho
rằng thế giới đầy rẫy những vị thần linh.
b. Anaximăngđrơ
Ông là người Hy Lạp đầu tiên nghiên cứu nghiêm túc vấn đề phát sinh và phát triển
của các loài động vật. Theo ông, động vật phát sinh dưới nước và sau nhiều năm biến hố thì
một số giống lồi dần thích nghi với đời sống trên cạn, phát triển và hoàn thiện dần; con người
hình thành từ sự biến hố của cá. Phỏng đốn của ơng cịn chưa có căn cứ khoa học song đã
manh nha thể hiện yếu tố biện chứng về sự phát triển của các giống loài động vật. Khi giải
quyết vấn đề bản thể luận triết học, Anaximăngđrơ cho rằng cơ sở hình thành vạn vật trong vũ
trụ là từ một dạng vật chất đơn nhất, vô định hình, vơ hạn và tồn tại vĩnh viễn mà người ta
không thể trực quan thấy được. Nếu so với Talét thì Anaximăngđrơ có bước tiến xa hơn trong
sự khái quát trừu tượng về phạm trù vặt chất.
c. Hêraclít
Theo đánh giá của các nhà kinh điển Mác-Lênin, Hêraclít là người sáng lập ra phép
biện chứng, hơn nữa, ông là người xây dựng phép biện chứng trên lập trường duy vật. Phép
biện chứng của Hêraclít chưa được trình bày dưới dạng một hệ thống các luận điểm khoa học
như sau này, nhưng hầu như các luận điểm cốt lõi của phép biện chứng đã được ông đề cập
dưới dạng các câu danh ngơn mang tính thi ca và triết lý. Các tư tưởng biện chứng của ông thể
hiện trên các điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, quan niệm về vận động vĩnh viễn của vật chất. Theo Hêraclít, khơng có sự
vật, hiện tượng nào của thế giới đứng im tuyệt đối mà trái lại tất cả đều trong trạng thái biến
đổi và chuyển hoá thành cái khác và ngược lại.
Thứ hai, quan niệm về sự tồn tại phổ biến của các mâu thuẫn trong mọi sự vật, hiện
tượng. Điều đó thể hiện trong những phỏng đốn của ơng về vai trị của những mặt đối lập


9


trong sự biến đổi phổ biến của tự nhiên, về sự trao đổi của những mặt đối lập, về sự tồn tại và
thống nhất của các mặt đối lập.
Thứ ba, theo Hêraclít, sự vận động và phát triển khơng ngừng của thế giới do quy luật
khách quan (logos) quy định. Logos khách quan là trật tự khách quan của mọi cái đang diễn ra
trong vũ trụ. Logos chủ quan là từ ngữ, học thuyết, lời nói, suy nghĩ của con người. Logos chủ
quan phải phù hợp với logos khách quan.
Lý luận nhận thức của Hêraclít cịn mang tính chất duy vật và biện chứng sơ khai,
nhưng về cơ bản là đúng đắn. Ở thời cổ đại, xét trong nhiều hệ thống triết học khác khơng có
tư tưởng biện chứng nào sâu sắc như vậy. Heraclít đã đưa triết học duy vật cổ đại tiến lên một
bước mới với những quan điểm duy vật và những yếu tố biện chứng. Học thuyết của ông đã
được nhiều nhà triết học cận đại, hiện đại kế thừa và phát triển sau này. Mác và Ăngghen đã
đánh giá một cách đúng đắn giá trị triết học của Hêraclít, coi ơng là đại biểu xuất sắc của phép
biện chứng Hy Lạp cổ đại. Tuy nhiên, Mác và Ăngghen cũng vạch rõ những hạn chế, sai lầm
của Hêraclít về mặt chính trị. Đó là tính chất phản dân chủ, thù địch với nhân dân và ông chủ
trương dùng chính quyền để dập tắt nhanh chóng phong trào dân chủ.
d. Pácmênít
Khái niệm trung tâm trong triết học của Pácmênít là tồn tại hết sức trừu tượng song
cũng chứa đựng những yếu tố biện chứng tự phát. Ông cho rằng với cách nhìn cảm tính thì thế
giới vơ cùng đa dạng, phong phú, biến đổi không ngừng và vơ cùng sinh động. Nhưng bằng
con đường cảm tính đơn thuần khơng thể khám phá ra bản chất đích thực của thế giới. Chỉ với
cách nhìn triết học phù hợp với trí tuệ lý tính mới khám phá ra bản chất đích thực của thế giới.
Ơng cho rằng bản chất của mọi vật trong thế giới là tồn tại. Học thuyết về tồn tại của Pácmênít
đánh dấu một bước tiến mới trong sự phát triển tư tưởng triết học Hy Lạp, mang tính khái quát
cao. Tuy nhiên, hạn chế trong học thuyết về tồn tại của ông là ở chỗ ông đã đồng nhất tuyệt
đối giữa tư duy và tồn tại và mang tính chất siêu hình vì ơng cho rằng tồn tại là bất biến.
e. Dênơng
Dênơng là học trị của Pácmênít. Cơng lao của ơng là đã đặt ra nhiều vấn đề biện chứng

sâu sắc về mối liên hệ giữa tính thống nhất và tính nhiều vẻ của thế giới, giữa vận động và
đứng im, giữa tính gián đoạn của thời gian và khơng gian, giữa tính hữu hạn và tính vơ hạn, và
về sự phức tạp trong việc thể hiện quá trình vận động biện chứng của sự vật vào tư tưởng, vào
lơgíc của khái niệm. Tuy nhiên, những nghịch lý Apơria của ơng chỉ có thể được giải quyết
nếu đứng trên lập trường duy vật biện chứng trong nhận thức sự vật.
f. Empêđôcơlơ
Empêđôcơlơ cho rằng nguồn gốc vận động của mọi sự vật là do sự tác động của hai lực

10


đối lập là Tình yêu và Căm thù. Quan điểm này là một bước thụt lùi so với Hêraclít, bởi vì
triết học Hêraclít giải thích nguồn gốc vận động của vật chất là do sự xung đột của những mặt
đối lập nội tại của sự vật. tuy nhiên, Empêđôcơlơ cũng có một số phỏng đốn thiên tài về sự
tiến hố của giới hữu cơ. Sự giải thích này của ơng tuy cịn ngây thơ nhưng đã manh nha hình
thành tư tưởng biện chứng về q trình tiến hố của sinh vật theo con đường từ thấp đến cao,
từ đơn giản đến phức tạp.
g. Đêmơcrít
Đêmơcrít là một trong những người đã phát triển thuyết nguyên tử lên một trình độ
mới. Một mặt, ông tán thành lý thuyết tồn tại duy nhất và bất biến của Pácmênít khi coi các
nguyên tử là bất biến, mặt khác, ông kế thừa quan điểm của Hêraclít cho rằng mọi sự vật biến
đổi khơng ngừng. Đêmơcrít đã nêu ra lý thuyết về vũ trụ học. Lý thuyết này được xây dựng
trên cơ sở lý luận nguyên tử về cấu tạo của vật chất, thấm nhuần tinh thần biện chứng tự phát
và có một ý nghĩa đặc biệt trong lịch sử triết học. Đêmơcrít khẳng định: vũ trụ là vơ tận và
vĩnh viễn, có vơ số thế giới vĩnh viễn phát sinh, phát triển và bị tiêu diệt. Quan điểm của
Đêmơcrít về vận động gắn liền với vật chất là một phỏng đốn có giá trị đặc biệt. Theo ông,
vận động của nguyên tử là vĩnh viễn, và ơng đã cố gắng giải thích ngun nhân vận động của
nguyên tử ở bản thân nguyên tử, ở động lực tự thân, tự nó. Tuy nhiên ơng đã khơng lý giải
được nguồn gốc của vận động. Dựa trên học thuyết ngun tử, Đêmơcrít đã đi tới quan điểm
quyết định luận. Đó là thừa nhận sự ràng buộc theo luật nhân quả, tính tất nhiên và khách quan

của các hiện tượng tự nhiên. Đây là một quan điểm có giá trị của Đêmơcrít đóng góp cho nền
triết học Hy Lạp cổ đại. Về mặt bản thể luận, Đêmơcrít đã có công đưa lý luận nhận thức duy
vật lên một bước mới. Khác với nhiều nhà triết học trước đó, phủ nhận vai trị của nhận thức
cảm tính, tuyệt đối hố vai trị của nhận thức lý tính, Đêmơcrít đã chia nhận thức thành hai
dạng là nhận thức cảm tính và nhận thức chân lý. Mặc dù triết học của Đêmơcrít cịn mang
tính chất thơ sơ, chất phác song những đóng góp của ơng về các tư tưởng biện chứng và thế
giới quan duy vật là rất đáng ghi nhận.
h. Xôcrát và Platôn
Xôcrát và Platôn là hai đại diện tiêu biểu của hệ thống triết học duy tâm Hy Lạp cổ đại.
Triết học Xơcrát có đóng góp quan trọng vào việc tạo ra bước tiến mới trong sự phát triển triết
học Hy Lạp cổ đại. Nếu các nhà triết học trước Xôcrát chủ yếu bàn về vấn đề khởi nguyên thế
giới, về nhận thức luận thì Xơcrát là người đầu tiên đưa đề tài con người trở thành chủ đề
trọng tâm nghiên cứu của triết học phương Tây. Theo Xôcrát, ý thức về sự vật của những
người trong đàm thoại, ngoài những yếu tố chủ quan cịn có nội dung khách quan, có tri thức
phổ biến mang tính tổng qt. Ơng cho rằng nếu không hiểu cái chung, cái phổ biến thì người

11


ta không thể phân biệt được cái thiện - cái ác, cái tốt - cái xấu. Muốn phát hiện ra cái thiện phổ
biến thì phải có phương pháp tìm ra chân lý thông qua các cuộc tranh luận, toạ đàm, luận
chiến. Đây chính là yếu tố biện chứng trong triết học Xơcrát, song nó lại dựa trên lập trường
duy tâm vì Xơcrát cho rằng giới tự nhiên là do thần thánh an bài.
Platơn là học trị của Xơcrát. Các quan điểm triết học của ông chứa đựng những yếu tố
biện chứng. Ông thừa nhận sự vận động của thế giới song đó chỉ là vận động theo sự điều
khiển của ý niệm. Ông chia thế giới thành hai loại:
- Thế giới của những ý niệm: là thế giới tồn tại chân thực, bất biến, vĩnh viễn, tuyệt đối
và là cơ sở tồn tại của thế giới các sự vật cảm tính.
- Thế giới của các sự vật cảm tính: là thế giới tồn tại không chân thực, thường xuyên
biến đổi và phụ thuộc vào thế giới của những ý niệm.

Lý luận nhận thức của Platôn cũng chứa đựng những yếu tố biện chứng thông qua các
khái niệm đối lập và phương pháp đối chiếu những mặt đối lập. Nhưng đó là biện chứng duy
tâm - biện chứng của các khái niệm, tách rời hiện thực, từ bỏ cảm giác, chỉ nhận thức bằng tư
duy thuần tuý.
Tóm lại, phép biện chứng duy tâm của Xơcrát và Platơn cịn nhiều hạn chế do chịu sự
tác động của điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội đương thời. Song sự xuất hiện của hệ thống
triết học Platôn cùng với phép biện chứng duy tâm đã để lại dấu ấn trong lịch sử triết học bằng
cuộc đấu tranh giữa hai đường lối triết học Đêmơcrít và Platơn, tạo điều kiện cho tư duy triết
học Hy Lạp cổ đại có cơ hội khám phá và phát triển.
i. Arixtốt
Xu hướng duy vật và tư tưởng biện chứng trong triết học tự nhiên của Arixtốt thể hiện
ở ơng thừa nhận tự nhiên là tồn bộ sự vật có một bản thể vật chất mãi mãi vận động và biến
đổi, khơng có bản chất của sự vật tồn tại bên ngoài sự vật, hơn nữa sự vật nào cũng là một hệ
thống và có quan hệ với các sự vật khác. Ông cho rằng, vận động gắn liền với các vật thể, với
mọi sự vật hiện tượng của giới tự nhiên. Ông cũng khẳng định, vận động là khơng thể bị tiêu
diệt, đã có vận động và mãi mãi sẽ có vận động. Trong lập luận này, ông đã tiến gần đến quan
niệm vận động là tự thân của vật chất. Song cuối cùng ông lại rơi vào duy tâm khi cho rằng
thần thánh là nguồn gốc của mọi vận động. Tuy nhiên, nếu như trước đây Hêraclít và
Đêmơcrít chưa phân biệt được các hình thức của vận động thì đến Arixtốt là người đầu tiên đã
hệ thống hố các hình thức vận động thành sáu dạng khác nhau. Lý thuyết về vận động của
Arixtốt là một thành quả có giá trị cao của khoa học cổ Hy Lạp. Về lơgíc học, Arixtốt đã cố
gắng giải quyết mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa cái chung và cái riêng nhưng ông
không giải quyết được vấn đề chuyển hố từ cái riêng thành cái chung. Lơgíc học hình thức

12


của Arixtốt tuy chưa hồn hảo song ơng đã để lại cho nhân loại một môn khoa học về tư duy.
Chính ơng đã nghiên cứu những hình thức căn bản nhất của tư duy biện chứng mà không tách
rời chúng khỏi hiện thực. Tuy nhiên, do hạn chế về lịch sử và là nhà tư tưởng của giai cấp chủ

nô Hy Lạp cho nên về bản thể luận triết học, ông dao động giữa chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm nên ông lại rơi vào phái nhị nguyên luận.
Tóm lại, triết học Hy Lạp cổ đại đã thể hiện rất rõ nét cuộc đấu tranh giữa biện chứng
và siêu hình mà song song với nó là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy
tâm. Với các thành tựu nổi bật như thuyết nguyên tử của Đêmơcrít, phép biện chứng duy tâm
của Xơcrát, Platơn và phép biện chứng chất phác của Arixtốt, triết học Hy Lạp cổ đại đã bao
chứa mầm mống của tất cả thế giới quan về sau này và đánh dấu sự phát triển tư duy biện
chứng trong lịch sử triết học nhân loại. Chính vì vậy, Lênin coi phép biện chứng của các nhà
triết học Hy Lạp cổ đại là khởi nguyên lịch sử phép biện chứng.
III. SỰ HÌNH THÀNH PHÉP BIỆN CHỨNG THỜI KỲ PHỤC HƯNG VÀ CẬN
ĐẠI Ở TÂY ÂU
Trước khi bước sang thế kỷ XV- XVI ở Tây Âu là thời đại phục hưng, lịch sử triết
học đã trải qua thời kỳ trung cổ với sự thống trị của tư tưởng thần học. Do đó, chủ nghĩa
kinh viện trở thành nét chủ đạo của triết học Tây Âu thời trung cổ. Trong giai đoạn này,
cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm được biến tướng thành cuộc
đấu tranh giữa hai quan điểm của phái Duy danh và Duy thực. Có thể nói đây là bước lùi
tạm thời trong lịch sử phát triển tư duy triết học nói chung và tư duy biện chứng nói riêng,
song vẫn chứa đựng những nhân tố cho sự phát triển mới của triết học trong thời đại phục
hưng.
1. Phép biện chứng trong thời kỳ phục hưng
Trong thời kỳ này, chủ nghĩa duy vật được khôi phục và biến đổi cùng với sự biến đổi
của khoa học tự nhiên và dựa vào những thành tựu của khoa học tự nhiên để tiến hành cuộc
đấu tranh chống thế giới quan thần học. Nhiều học thuyết triết học thời kỳ này đã phục hồi
phép biện chứng tự phát thời cổ đại và khái quát thành những thành tựu của khoa học tự nhiên
tiên tiến. Một số tư tưởng biện chứng nổi bật của thời kỳ này được thể hiện trong triết học của
Kudan và Brunô.
a. Triết học Kudan
Tư tưởng biện chứng của Kudan được thể hiện qua học thuyết về sự phù hợp của các
mặt đối lập. Song lập trường triết học của ơng lại khơng thốt khỏi tính chất duy tâm thần bí
khi cho rằng Thượng đế là sự thống nhất giữa các mặt đối lập. Kudan cũng đã nêu lên tính

tương đối của nhận thức con người, mặc dù cịn hạn chế song nó đã đặt nền móng cho tư

13


tưởng biện chứng về quá trình nhận thức cho triết học về sau.
b. Triết học của Brunơ
Brunơ có vai trị quan trọng trong sự phát triển phép biện chứng. Ông nêu ra tư tưởng
biện chứng về sự phù hợp của các mặt đối lập trong sự thống nhất vô tận của vũ trụ. Theo ông,
trong giới tự nhiên, mọi cái đều có liên hệ với nhau và đều vận động. Cái này mất đi thì cái khác
ra đời, khơng chỉ là sự vận động mà cịn là sự chuyển hố giữa các mặt đối lập, ví dụ như tình
u chuyển thành căm thù và ngược lại hay thuốc độc cũng chữa được bệnh. Về mặt nhận thức
luận, Brunô đã đưa ra quan niệm biện chứng trong việc nhận thức giới tự nhiên. Ơng cho rằng ai
muốn nhận thức những bí mật của giới tự nhiên thì hãy xem xét cái tối thiểu và cái tối đa của
những mâu thuẫn và những mặt đối lập. Mặc dù có những tư tưởng tiến bộ nhưng thế giới quan
triết học của Brunô vẫn chịu ảnh hưởng tư tưởng triết học sai lầm của Arixtốt coi vật chất đầu
tiên là hoàn toàn thụ động, phải nhờ đến tính năng động của hình dạng thì nó mới có tính năng
động.
2.Phép biện chứng trong thời kỳ cận đại
Triết học thời kỳ này gắn chặt với các thành tựu của khoa học tự nhiên. Nếu như triết
học cổ đại dựa trên cơ sở quan sát và các phỏng đốn thiên tài thì thời kỳ này triết học lại dựa
vào các thành tựu của khoa học tự nhiên, khái quát các thành tựu của khoa học tự nhiên và
được chứng minh bằng khoa học tự nhiên. Các nhà khoa học tự nhiên thời kỳ này cũng đồng
thời là nhà triết học. Tuy nhiên, triết học Tây Âu thời cận đại lại rơi vào siêu hình, máy móc.
Các nhà khoa học thời kỳ này đi sâu vào từng lĩnh vực riêng biệt để nhận thức. Điều này cho
phép nhận thức sâu sắc về tự nhiên song lại tạo ra một thói quen xem xét tự nhiên trong trạng
thái cơ lập, tĩnh tại của nó. Từ đó làm xuất hiện sự thống trị của phương pháp tư duy siêu hình.
Tuy nhiên một số học thuyết triết học thời kỳ này vẫn chứa đựng những quan điểm biện chứng
sâu sắc, với các đại biểu như Phrăngxi Bêcơn, Barút Xpinôda, Rơnê Đêcáctơ.
a. Triết học của Phrăngxi Bêcơn

Về cơ bản, P. Bêcơn là một nhà duy vật, ông thừa nhận thế giới là sự kết hợp những
biến đổi khác nhau của vật chất và đã có vật chất thì nó ln vận động, biến đổi. Ơng đưa ra
19 hình thức vận động, trong đó có một hình thức đặc biệt là đứng im. Tuy bàn về sự vận
động song ông lại quy vận động thành các hình thức vận động cơ học, vì vậy, P.Bêcơn chưa
thoát khỏi quan điểm của một nhà duy vật siêu hình. Tuy nhiên, cống hiến mới của ơng là đã
coi đứng im là một hình thức vận động và coi vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất. Về
nhận thức luận, P. Bêcơn có đóng góp lớn về phép quy nạp trong nhận thức, song ông lại đề
cao nhận thức kinh nghiệm. Vì vậy, nhãn quan triết học của ơng vẫn mang tính chất siêu hình.
b. Triết học của Barút Xpinôda

14


Xpinôda là một nhà tư tưởng duy vật xuất sắc của Hà Lan. Triết học của ông chứa
đựng một số yếu tố biện chứng, thể hiện qua nguyên lý Causasui (ngun nhân tự nó). Trong
đó, ơng cho rằng quan hệ giữa thực thể và dạng thức là sự thống nhất giữa cái chung và cái
đơn nhất, giữa cái duy nhất và cái đa dạng. Tư tưởng này đã đi gần tới quan điểm về mối liên
hệ phổ biến và sự ràng buộc lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng trong giới tự nhiên. Về nhận
thức luận, ông cho rằng con người có khả năng nhận thức thế giới song ông lại rơi vào quan
điểm siêu hình khi cường điệu hố nhận thức kinh nghiệm, hạ thấp vai trị của tư duy trừu
tượng và khái quát khoa học.
c. Triết học của Rơnê Đêcáctơ
Rơnê Đêcáctơ là đại biểu xuất sắc nhất của triết học Pháp thế kỷ XVII. Đêcáctơ cho
rằng không gian và thời gian là thuộc tính gắn liền với vật thể, vận động là khơng thể bị tiêu
diệt, nó luôn luôn gắn liền với các vật thể, vật thể ln vận động, chuyển đổi vị trí, tức là vận
động trong không gian. Tuy nhiên, trong giai đoạn này khoa học chưa phát triển đến trình độ
cho phép phát hiện ra các hình thức vận động khác nhau của vật chất cho nên Đêcáctơ hiểu
vận động của vật chất chỉ là vận động cơ giới hay chuyển dịch vị trí trong không gian. Về
nhận thức luận, Đêcáctơ đã tách rời hai giai đoạn cảm tính và lý tính của nhận thức nên ơng
vẫn là một nhà duy vật siêu hình.

Như vậy, ngay cả trong giai đoạn phương pháp tư duy siêu hình giữ vị trí thống trị thì
trong các học thuyết triết học vẫn xuất hiện những yếu tố biện chứng sâu sắc. Do sự kìm hãm
của phương pháp siêu hình từ khoa học tự nhiên chuyển sang triết học, phép biện chứng chưa
có cơ hội để phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ phục hưng và cận đại song đây là bước chuẩn bị
cho phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức ra đời.
IV. SỰ HÌNH THÀNH PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM CỔ ĐIỂN ĐỨC
Cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, trước sự đòi hỏi của sự phát triển phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa ở các nước Tây Âu, khoa học tự nhiên đã phát triển đạt đến trình
độ cao. Phương pháp tư duy siêu hình đã bộc lộ những hạn chế và bất lực trong việc giải
quyết các vấn đề về tự nhiên và xã hội. Triết học cổ điển Đức ra đời đem lại cái nhìn mới về
bản chất các hiện tượng tự nhiên và tiến trình lịch sử nhân loại. Sự phát triển của các tri thức
triết học trong thời kỳ này đòi hỏi phải có phép biện chứng với tư cách là một phương pháp
lý giải các vấn đề cấp bách của triết học và hơn thế nâng nó lên thành một khoa học thật sự.
Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức bắt đầu được hình thành ở Cantơ và hồn chỉnh ở
Hêghen. Triết học cổ điển Đức đã xây dựng phép biện chứng trở thành phương pháp luận
triết học đối lập với phương pháp tư duy siêu hình trong việc nghiên cứu các hiện tượng tự
nhiên và xã hội. Giả thuyết về sự hình thành vũ trụ của Cantơ cũng như việc phát hiện ra các

15


quy luật và phạm trù cơ bản của phép biện chứng trong triết học của Hêghen làm cho phép
biện chứng trở thành một khoa học đã thực sự mang ý nghĩa cách mạng trong triết học.
1. Phép biện chứng của Imanuen Cantơ
Cantơ được đánh giá là người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức. Ông là tác giả của
hai phát minh quan trọng về khoa học tự nhiên. Phát minh thứ nhất là giả thuyết về sự hình
thành vũ trụ từ những hạt bụi vật chất dưới tác dụng của các lực hút và lực đẩy của vật chất;
phát minh thứ hai là giả thuyết về sự lên xuống của thủy triều dưới tác động của mặt trăng và
trái đất. Vào thời kỳ đó, khi mà quan niệm siêu hình đang thống trị trong tư duy khoa học tự
nhiên và triết học thì phát minh lý thuyết của Cantơ có một ý nghĩa tiến bộ vượt thời đại. Ý

nghĩa lớn lao của hai phát minh này thể hiện ở chỗ nó xuất phát từ chính bản thân những tính
chất của vật chất để giải thích giới tự nhiên mà không cần cầu viện đến một thứ lực lượng thần
bí siêu tự nhiên nào. Hơn nữa, hai phát minh này cịn đem lại một quan điểm có tính chất biện
chứng về giới tự nhiên. Nó cho thấy giới tự nhiên tác động qua lại lẫn nhau và vận động
chuyển hố khơng ngừng. Về nhận thức luận, Cantơ đưa ra phạm trù “vật tự nó” là cái nằm
ngồi khả năng nhận thức của con người và tư duy khoa học. Có thể nói, Cantơ vẫn đứng trên
lập trường của tư duy siêu hình để giải quyết vấn đề khả năng nhận thức của con người, ông
chưa thể giải quyết được mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng của tồn tại.
2. Phép biện chứng của Hêghen
Hêghen là một nhà biện chứng lỗi lạc. Ông là người xây dựng nên phép biện chứng
một cách có hệ thống trên lập trường duy tâm khách quan. Triết học của ông là một tiền đề lý
luận của triết học Mácxít.
Hêghen đã có cơng lao trong việc phê phán tư duy siêu hình và ơng là người đầu tiên
trình bày tồn bộ giới tự nhiên, lịch sử và tư duy dưới dạng một quá trình, nghĩa là trong sự
vận động, biến đổi và phát triển khơng ngừng. Ơng khẳng định phép biện chứng là nguyên tắc
của mọi vận động, mọi sự sống và mọi hoạt động trong phạm vi hiện thực; cái biện chứng là
linh hồn của mọi nhận thức khoa học. Như vậy, theo Hêghen, hiện thực không phải là tồn tại
nói chung, mà là tồn tại trong tính tất yếu của nó, đó là hiện thực trong sự phát triển. Những
luận điểm về phép biện chứng của triết học Hêghen được thể hiện rõ nhất và sâu sắc nhất
trong lơgíc học. Biện chứng của khái niệm trong khoa học lơgíc bao gồm những nội dung chủ
yếu sau:
- Những khái niệm khơng những khác nhau mà cịn có mối liên hệ với nhau;
- Mỗi khái niệm đều phải trải qua một quá trình phát triển được thực hiện trên cơ sở
của ba nguyên tắc:
+ Nguyên tắc thứ nhất: Chất và lượng quy định lẫn nhau. Những chuyển hoá về lượng

16


sẽ dẫn tới những biến đổi về chất và ngược lại;

+ Nguyên tắc thứ hai: Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập với tư cách là
nguồn gốc và động lực của sự phát triển;
Khi nghiên cứu các nguyên tắc này, Hêghen đã giải quyết một cách biện chứng mối
liên hệ chuyển hoá giữa bản chất và hiện tượng, khả năng và hiện thực, nguyên nhân và kết
quả.
+ Nguyên tắc thứ ba: Phủ định của phủ định với tính cách là sự phát triển diễn ra theo
hình thức xoáy ốc. Khi lý giải nguyên tắc này, Hêghen đã giải quyết một cách biện chứng mối
quan hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa lơgíc và lịch sử.
Trong tác phẩm “Triết học tự nhiên”, Hêghen đã nêu lên những tư tưởng biện chứng tài
tình về sự thống nhất của vật chất và vận động; về tính chất mâu thuẫn của những phạm trù
không gian, thời gian và vận động; về sự phụ thuộc của những đặc tính hố học vào những
thay đổi về lượng...
Tuy nhiên, do đứng trên lập trường duy tâm khách quan, Hêghen cho rằng đời sống xã
hội và lịch sử diễn ra là sự tha hoá của ý niệm tuyệt đối. Và một khi giới tự nhiên và lịch sử
nhân loại đã đạt tới sự hồn thiện, hồn mỹ nhất thì khi đó giới tự nhiên không vận động và
phát triển về mặt thời gian mà chỉ vận động về mặt không gian. Đến đây, những tư tưởng biện
chứng của ông lại bị giới hạn bởi quan điểm siêu hình vì ơng cho rằng sự phát triển có tận
cùng.
Tóm lại, Hêghen đã khái quát một cách sâu sắc và có hệ thống về những vấn đề cốt lõi
nhất của phép biện chứng và cần phải thừa nhận rằng những tư tưởng biện chứng của ông là
những tư tưởng tiến bộ, cách mạng. Song hệ thống triết học của ông lại duy tâm, bảo thủ và đi
ngược lại sự tiến bộ, cách mạng.
Một đại diện tiêu biểu khác của nền triết học cổ điển Đức là Lútvích Phơbách. Chủ
nghĩa duy vật của Phơbách là một sự phản ứng tất yếu đối với chủ nghĩa duy tâm khách quan
của Hêghen. Là một nhà duy vật song Phơbách lại không kế thừa được những tư tưởng biện
chứng của Hêghen. Vì vậy, Phơbách cũng chỉ đạt tới quan niệm duy vật siêu hình, trực quan
về giới tự nhiên cịn trong các quan niệm về xã hội và lịch sử, ông vẫn đứng trên lập trường
duy tâm. Tuy nhiên, triết học của Phơbách được coi là “chiếc cầu nối” từ triết học Hêghen
sang triết học Mác và Ăngghen.
V. SỰ HÌNH THÀNH PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT MÁCXÍT

Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã được Mác và
Ăngghen sáng lập nên và được Lênin phát triển hơn nữa vào đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên cần
phải thấy rằng sự hình thành thế giới quan duy vật biện chứng của Mác và Ăngghen là một

17


q trình đầy khó khăn, phức tạp, dựa trên các tiền đề kinh tế - xã hội, tiền đề lý luận và tiền
đề khoa học tự nhiên.
- Tiền đề kinh tế - xã hội: đầu thế kỷ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát
triển mạnh làm bộc lộ những mâu thuẫn bên trong của nó mà biểu hiện về mặt xã hội là mâu
thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Nhiều phong trào đấu tranh của giai cấp cơng
nhân nổ ra song cịn mang tính chất tự phát, cảm tính và thiếu tổ chức. Nó địi hỏi phải có một
vũ khí lý luận sắc bén soi đường cho cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp cơng nhân. Chủ
nghĩa Mác nói chung và triết học Mác nói riêng ra đời đáp ứng yêu cầu đó.
- Tiền đề lý luận: Triết học Mác ra đời trên cơ sở kế thừa và phát triển các giá trị trong
các tư tưởng triết học tiến bộ của nhân loại, đặc biệt phép biện chứng của Hêghen và chủ
nghĩa duy vật của Phơbách là một trong những tiền đề lý luận trực tiếp của triết học Mác.
- Tiền đề khoa học tự nhiên: Ba phát minh lớn của khoa học tự nhiên thời kỳ này là
định luật bảo tồn và chuyển hố năng lượng, học thuyết về tế bào và thuyết tiến hoá của
Darwin. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học tự nhiên đòi hỏi phải khái quát về mặt triết học
để chỉ ra các mối liên hệ giữa các quá trình diễn ra trong tự nhiên, trên cơ sở đó nhận thức
đúng đắn và tồn diện về bản chất của các q trình phát triển đó. Điều này tất yếu dẫn tới sự
thay thế thế giới quan duy tâm và phương pháp siêu hình bằng phép biện chứng duy vật.
Chính Mác và Ăngghen đã khái quát về mặt triết học toàn bộ những thành tựu của khoa học tự
nhiên lúc bấy giờ để xây dựng nên chủ nghĩa duy vật biện chứng.
1. Phép biện chứng duy vật trong giai đoạn Mác - Ăngghen
Triết học Mác là học thuyết duy vật triệt để về tự nhiên, xã hội và con người. Mác và
Ăngghen đã thực hiện một bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học, đó là cho ra đời một
hình thức cao của chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng và hình thức cao của

phép biện chứng là phép biện chứng duy vật. Nếu như các quan điểm triết học trước Mác mới
chỉ dừng lại ở thế giới quan duy vật siêu hình hay biện chứng duy tâm về xã hội thì đến giai
đoạn Mác - Ăngghen, lần đầu tiên trong lịch sử triết học, phép biện chứng được xây dựng dựa
trên lập trường duy vật triệt để về tự nhiên và xã hội. Hơn thế, tính đúng đắn của khoa học
Mácxít ln được minh chứng bởi các thành tựu vượt bậc của khoa học thời đại.
Sự hình thành thế giới quan duy vật biện chứng của Mác và Ăngghen là một q trình
phát triển liên tục khơng ngừng. Từ cuối năm 1843 đến năm 1848 đánh dấu bước chuyển của
Mác và Ăngghen từ lập trường của chủ nghĩa duy tâm sang lập trường của chủ nghĩa duy vật
biện chứng. Đánh dấu bước chuyển đó là tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp quyền
của Hêghen, lời nói đầu” vào cuối năm 1843. Tác phẩm chứa đựng nhiều tư tưởng duy vật
biện chứng sâu sắc. Cuối năm 1844, Mác và Ăngghen viết chung tác phẩm “Gia đình thần

18


thánh”, “Chống Brunơ Bauơ và đồng bọn”. Trong đó, lần đầu tiên Mác và Ăngghen trình bày
những nguyên lý của triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Mùa xuân năm 1845,
Mác viết tác phẩm “Luận cương về Phơbách”, qua đó Mác phê phán những thiếu sót của chủ
nghĩa duy vật Phơbách cũng như những thiếu sót của chủ nghĩa duy vật trước Mác nói chung.
Đó là sự phê phán có tính kế thừa của Mác để tiến đến chủ nghĩa duy vật mới là chủ nghĩa duy
vật biện chứng. Năm 1845 - 1846, Mác và Ăngghen viết chung tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”,
đánh dấu bước tiến mới của Mác và Ăngghen trong việc phát triển chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa cộng sản khoa học. Tác phẩm “Chống
Đuyrinh” của Ăngghen được viết vào năm 1876 - 1878 là một trong những tác phẩm quan
trọng nhất đánh dấu sự phát triển của triết học Mác. Trong tác phẩm, lần đầu tiên Ăngghen
trình bày hồn chỉnh thế giới quan Mácxít về chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Qua tìm hiểu một số tác phẩm kinh điển của Mác - Ăngghen có thể thấy rằng sự hình thành
thế giới quan duy vật biện chứng của Mác và Ăngghen là một quá trình tự đấu tranh gian khổ
để từ bỏ lập trường triết học duy tâm chuyển sang lập trường triết học duy vật biện chứng.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và phương pháp. Nó

khơng chỉ khái qt các thành tựu của tất cả các khoa học cụ thể mà cịn kết tinh những tinh
hoa trong q trình phát triển tư tưởng triết học nhân loại. Phép biện chứng duy vật trình bày
một cách có hệ thống, chặt chẽ tính chất biện chứng của thế giới thơng qua những phạm trù và
những quy luật chung nhất của thế giới, bao gồm các nội dung cơ bản sau:
- Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến khái quát những mối liên hệ phổ biến của thế
giới(tự nhiên, xã hội và tư duy). Vì vậy, qn triệt quan điểm tồn diện là nguyên tắc phương
pháp luận chung nhất chỉ đạo mọi hoạt động và suy nghĩ của con người. Quan điểm toàn diện
đối lập với mọi suy nghĩ và hành động phiến diện, chiết trung, siêu hình.
- Nguyên lý về phát triển phản ánh đặc trưng biện chứng phổ quát nhất của thế giới. Vì
vậy, quán triệt quan điểm phát triển là nguyên tắc chung nhất chỉ đạo mọi hành động và suy
nghĩ của con người. Yêu cầu của nguyên tắc này đòi hỏi phải xem xét sự vật trong sự vận
động, biến đổi và phát triển của nó, phải tư duy năng động, linh hoạt, mềm dẻo và phải nhận
thức được cái mới và ủng hộ cái mới.
Lý luận về các cặp phạm trù và quy luật của phép biện chứng duy vật là sự cụ thể hoá
thêm nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và phát triển.
- Các cặp phạm trù: cái riêng - cái chung, tất nhiên - ngẫu nhiên, bản chất-hiện tượng
giúp chúng ta rút ra được mối liên hệ bản chất, từ đó hiểu được toàn bộ các mối liện hệ theo
một hệ thống nhất định.
- Các cặp phạm trù: nguyên nhân - kết quả, khả năng - hiện thực là cơ sở phương pháp

19


luận để chỉ rõ trình tự kế tiếp nhau của các mối liên hệ và sự phát triển là một quá trình tự
nhiên.
- Cặp phạm trù nội dung và hình thức là cơ sở phương pháp luận để xây dựng các hình
thức tồn tại trong sự phụ thuộc vào nội dung, phản ánh tính đa dạng của các phương pháp
nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật có ý nghĩa phương pháp luận chỉ đạo
mọi hoạt động của con người để thực hiện quan điểm toàn diện, phát triển và lịch sử cụ thể.

- Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là hạt nhân của phép biện
chứng. Quy luật này vạch ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển, phản ánh quá trình đấu
tranh giải quyết mâu thuẫn bên trong sự vật.
- Quy luật chuyển hoá từ những biến đổi về lượng dẫn tới những biến đổi về chất và
ngược lại phản ánh cách thức, cơ chế của quá trình phát triển là đi từ những biến đổi nhỏ nhặt,
dần dần về lượng đến giới hạn của độ thì gây ra sự biến đổi về chất, thông qua bước nhảy vọt
và ngược lại.
- Quy luật phủ định của phủ định khái quát khuynh hướng phát triển tiến lên theo hình
thức xốy ốc thể hiện tính chất chu kỳ trong quá trình phát triển. Phủ định biện chứng địi hỏi
phải tơn trọng tính kế thừa có chọn lọc.
Tóm lại, sự hình thành thế giới quan duy vật biện chứng của Mác và Ăngghen vừa là
kết quả khái quát kinh nghiệm đấu tranh cách mạng và kế thừa có phê phán di sản lý luận của
lồi người, vừa là kết quả nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc các thành tựu khoa học. Các tiến bộ
khoa học kỹ thuật của thời đại đã chứng minh tính đúng đắn của phép biện chứng duy vật
Mácxít và nâng nó lên thành đỉnh cao của phép biện chứng. Mặc dù vậy, các nguyên lý của
phép biện chứng duy vật cần tiếp tục được thực tiễn kiểm nghiệm, bổ sung và phát triển.
Khơng ai khác, Lênin và các đảng Mácxít đã đảm nhiệm sứ mệnh lịch sử đó bằng việc bảo vệ
và phát triển triết học Mác trong giai đoạn chủ nghĩa đế quốc.
2. Giai đoạn Lênin bảo vệ và phát triển phép biện chứng duy vật Mácxít
Sau Mác và Ăngghen, Lênin đã đưa sự phát triển của phép biện chứng duy vật Mácxít
lên một tầm cao mới. Trong tác phẩm “Những người bạn dân là thế nào và họ đấu tranh chống
những người dân chủ xã hội ra sao?”, Lênin đã đấu tranh kiên quyết chống các quan điểm siêu
hình của phái dân tuý trong việc nhận thức các hiện tượng xã hội để bảo vệ và phát triển phép
biện chứng duy vật của triết học Mác.
Trong tác phẩm “Nội dung kinh tế của chủ nghĩa dân tuý và sự phê phán trong cuốn sách
của ông Xtơruvê về nội dung đó”, Lênin đã phát triển làm phong phú thêm nguyên lý cơ bản của
triết học duy vật biện chứng về mối liên hệ hữu cơ giữa lý luận và thực tiễn. Cũng trong tác

20



phẩm này, những nguyên lý quan trọng khác của chủ nghĩa duy vật biện chứng như nguyên lý
về mối quan hệ giữa chủ quan và khách quan, về tính tồn diện, tính lịch sử cụ thể trong nhận
thức các hiện tượng của thế giới bên ngoài đã được Lênin phân tích sâu sắc.
“Bút ký triết học” của Lênin là một tác phẩm tiếp tục phát triển phép biện chứng
Mácxít. Trong đó, Lênin phân tích sâu sắc tư tưởng coi phép biện chứng như là khoa học về
sự phát triển. Khi giải quyết vấn đề về nguồn gốc và động lực của phát triển, Lênin đã chỉ ra
hai quan điểm đối lập nhau: quan điểm biện chứng coi phát triển là sự thống nhất của các mặt
đối lập còn quan điểm siêu hình coi phát triển chỉ là sự tăng lên và giảm đi, là sự lặp lại. Trong
“Bút ký triết học”, Lênin còn đi sâu nghiên cứu các quy luật và phạm trù của phép biện chứng
duy vật, nguyên tắc về sự thống nhất giữa phép biện chứng, lơgíc học và lý luận nhận thức
cũng như những yếu tố cơ bản của phép biện chứng.
Tóm lại, chủ nghĩa Lênin là sự phát triển duy nhất đúng đắn và triệt để chủ nghĩa Mác
trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản. Sự phát triển phép biện chứng của
Lênin gắn liền với việc nghiên cứu các vấn đề cách mạng, phong trào công nhân, xây dựng
chủ nghĩa xã hội, chiến lược và sách lược của Đảng cộng sản. Với những cống hiến quý báu
vào kho tàng triết học Mác, có thể nói Lênin đã hồn thành sứ mệnh lịch sử trong việc bảo vệ
và phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng Mácxít.
VI. Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
PHÉP BIỆN CHỨNG
Trong xu thế của nền kinh tế mở hiện nay, nước ta khơng thể tồn tại biệt lập và đứng
ngồi sự phát triển chung của nền kinh tế thế giới. Để hoà nhập vào nền kinh tế thế giới nói
chung và nền kinh tế khu vực nói riêng địi hỏi chúng ta phải nắm vững phép biện chứng duy
vật và mài sắc tư duy biện chứng để nhận thức đúng những biến đổi sâu sắc của tình hình thế
giới, trên cơ sở đó đáp ứng những địi hỏi cấp bách của sự nghiệp đổi mới đất nước ta trong
giai đoạn hiện nay.
Có thể nói, Lênin là một tấm gương sáng về sự nắm vững và vận dụng tài tình phép
biện chứng duy vật để vạch ra “Chính sách kinh tế mới” với tư cách là cương lĩnh xây dựng
chủ nghĩa xã hội trong điều kiện nền kinh tế kém phát triển. Nền văn minh trí tuệ dựa trên nền
tảng của các thành tựu khoa học là một bằng chứng về sự phát triển của xã hội là một quá

trình lịch sử tự nhiên hướng tới lý tưởng cao đẹp mà học thuyết Mác - Lênin đã vạch ra - lý
tưởng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, hình thức và con đường thực hiện lý tưởng đó khơng phải
là những cơng thức có sẵn và bất biến. Nghĩa là, chúng ta phải vận dụng linh hoạt, mềm dẻo
và luôn luôn đổi mới phù hợp với điều kiện quốc tế và điều kiện của nước ta trong từng giai
đoạn cụ thể. Cũng cần thừa nhận một thực tế là sự phát triển của chủ nghĩa tư bản với sự hậu

21


thuẫn của các tiến bộ vượt bậc về khoa học kỹ thuật đang có những ưu thế nhất định và tạm
thời làm dịu đi những mâu thuẫn vốn có của nó. Vì vậy, nếu nhận thức về chủ nghĩa xã hội
như một mặt đối lập tuyệt đối với chủ nghĩa tư bản là một quan niệm không biện chứng. Biện
chứng của sự kết hợp các mặt đối lập là sự triển khai cụ thể của sự thống nhất giữa các mặt
đối lập. Vì vậy, chúng ta phải biết vận dụng các khâu trung gian và thực hiện các bước quá độ
cho phù hợp. Đó là phương pháp luận chung về sự kết hợp các mặt đối lập trong sự thống nhất
biện chứng.
Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đòi hỏi phải chủ động và tự giác phát
triển và sử dụng chủ nghĩa tư bản làm khâu trung gian, làm phương tiện để đi lên chủ nghĩa xã
hội. Xuất phát điểm của nước ta là một nền kinh tế chậm phát triển, vì vậy chúng ta cần thiết
phải tận dụng những ưu thế nổi trội của chủ nghĩa tư bản để phát triển lực lượng sản xuất,
đồng thời đấu tranh kiên quyết loại trừ những mặt tiêu cực của chủ nghĩa tư bản. Tiến trình
đổi mới đất nước ta là một quá trình vừa tuân theo sự phát triển tiến hoá dần về lượng, lại vừa
tranh thủ những bước phát triển cách mạng nhảy vọt về chất, vừa tích luỹ nội dung lại vừa
ln nhạy bén cải tạo hình thức cho phù hợp, vừa kết hợp những giá trị truyền thống dân tộc
với những tiến bộ của nền văn minh mới. Quan điểm biện chứng dựa trên lập trường duy vật
phải được phát huy triệt để trong việc giải quyết các vấn đề trên mọi lĩnh vực: kinh tế - chính
trị - văn hố - tư tưởng. Quán triệt phép biện chứng duy vật và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn
cách mạng nước ta là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho công cuộc đổi mới thành công và đưa
sự nghiệp cách mạng nước ta đến thắng lợi hoàn toàn.


22


LỜI KẾT
Phép biện chứng đã trải qua hơn hai ngàn năm lịch sử hình thành và phát triển. Mỗi
thời kỳ lịch sử cụ thể đánh dấu một bước phát triển của phép biện chứng. Khởi nguồn là phép
biện chứng tự phát cổ đại, sau đó là phép biện chứng duy tâm của Xơcrát và Platơn và có lúc
bị phép siêu hình thế kỷ XVII - XVIII phủ định, rồi đến phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức
và cuối cùng là phép biện chứng duy vật - giai đoạn phát triển cao nhất của phép biện chứng.
Phép biện chứng duy vật Mácxít ra đời là sự kế thừa hợp quy luật những thành tựu tư tưởng
triết học của loài người và được minh chứng bởi các thành tựu của khoa học đương thời. Mác
- Ăngghen đã sáng lập ra phép biện chứng duy vật và được Lênin bảo vệ và tiếp tục phát triển,
làm cho nó trở thành phương pháp luận khoa học để nhận thức và cải tạo thế giới.
Thực tiễn cách mạng đã chứng minh sự cần thiết phải nghiên cứu và vận dụng phép
biện chứng duy vật Mácxít vào hoạt động nhận thức và cải tạo hiện thực của con người. Điều
này đặt ra một nhu cầu tất yếu của lịch sử nhân loại là tiếp tục phát triển và hồn thiện phép
biện chứng duy vật Mácxít cho phù hợp với điều kiện mới. Với tính chất cách mạng và khoa
học của mình, phép biện chứng duy vật đã mở ra một phương pháp nhận thức thế giới toàn
diện nhất và khoa học nhất cho lịch sử nhân loại mãi mãi về sau.
Trong phạm vi của bài tiểu luận này, mục đích của việc nghiên cứu lịch sử hình thành
và phát triển phép biện chứng khơng nằm ngồi ý nghĩa thực tiễn của vấn đề. Tiến trình đổi
mới đất nước ta trong giai đoạn hiện nay ngày càng đặt ra nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn hết
sức mới mẻ, đòi hỏi phải nắm vững phép biện chứng duy vật và mài sắc tư duy biện chứng để
xác định phương pháp nhận thức và hành động đúng đắn. Sự nghiệp cách mạng không phải là
một quá trình dễ dàng, thẳng tắp, trơn tru mà là một q trình khó khăn, phức tạp, thậm chí có
những bước lùi tạm thời. Song với bản chất cách mạng - khoa học sâu sắc và triệt để của phép
biện chứng duy vật cho phép chúng ta giữ vững niềm tin vào lý tưởng xã hội chủ nghĩa, tiếp
tục vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và phát huy tư tưởng Hồ Chí Minh để chèo lái
sự nghiệp cách mạng nước ta đến bến bờ thắng lợi.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học dùng cho nghiên cứu sinh và học viên cao học không thuộc

23


chuyên ngành triết học tập 1, tập 2, tập 3. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
2. Giáo trình Đại cương lịch sử Triết học. Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 1997.
3. Giáo trình Triết học Mác - Lênin. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005.

24



×