Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Tài liệu Tiểu luận triết học "Học thuyết Mac về hình thái kinh tế – xã hội và sự vận dụng của đảng ta trong thời kì đổi mới gắn với hoạt động ngân hàng" pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (272.81 KB, 26 trang )

TiÓu luËn triÕt
Tiểu luận triết học "Học
thuyết Mac về hình thái
kinh tế – xã hội và sự
vận dụng của đảng ta
trong thời kì đổi mới
gắn với hoạt động ngân
hàng"
TiÓu luËn triÕt
MỤC LỤC
Ti u lu n tri t h c "H c thuy t Mac v hình thái kinh t – xã h i v s ể ậ ế ọ ọ ế ề ế ộ à ự
v n d ng c a ng ta trong th i kì i m i g n v i ho t ng ngân ậ ụ ủ đả ờ đổ ớ ắ ớ ạ độ
h ng"à ..................................................................................................................1
M C L CỤ Ụ ..........................................................................................................2
A.GI I THI U TÀIỚ Ệ ĐỀ ..................................................................................3
B.N I DUNG TÀIỘ ĐỀ .........................................................................................5
I.TI N LÝ LU NỀ ĐỀ Ậ .......................................................................................5
II. S NGHI P I M I C A NG HI N NAY G N V I Ự Ệ ĐỔ Ớ Ủ ĐẢ Ệ Ắ Ớ
HO T NG NGÂN HÀNGẠ ĐỘ ..............................................................................8
1. Th c tr ng kinh t :ự ạ ế ..............................................................8
Nh ng th nh t u v ti n bữ à ự à ế ộ.............................................................................8
1.2 .Nh ng m t y u kémv t n t i:ữ ặ ế à ồ ạ .........................................11
.......................................................................................................13
1.3 . ánh giá chung nguyên nhân Đ ....................................................13
2. ng l i lãnh o c a ng.Đườ ố đạ ủ Đả ..........................................16
2.1 i m i c ch qu n lý kinh t vi t nam Đổ ớ ơ ế ả ế ở ệ ....................16
2.2. i m i qu n lý kinh t t t y u ph i i m i h th ng Đổ ớ ả ế ấ ế ả đổ ớ ệ ố
ti n t , tín d ng ngân h ngề ệ ụ à ............................................................................17
2.3. Ti p t c i m i v ch n ch nh h th ng ngân h ngế ụ đổ ớ à ấ ỉ ệ ố à .....18
2.4.Xây d ng chi n l c c i t h th ng ngân h ng.ự ế ượ ả ổ ệ ố à .........18
2.4.1. ánh giá:Đ ..........................................................................19


2.4.2.Phân b thi t h i:ổ ệ ạ ............................................................19
2.4.3.Ho ch nh chi n l c: ạ đị ế ượ .................................................19
3/ ý ngh a rút ra i v i b n thân:ĩ đố ớ ả .....................................20
C. K T LU N.Ế Ậ ..................................................................21
TiÓu luËn triÕt
A.GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
Mọi người đều biết, trong lịch sử tư tưởng nhân loại trước Mác đã có không ít cách
tiếp cận khi nghiên cứu sự phát triển của xã hội. Xuất phát từ những nhận thức khác nhau,
với những ý tưởng khác nhau mà có sự phân chia lịch sử tiến hóa của xã hội theo những
cách khác nhau. Chẳng hạn, nhà xã hội học Vi – cô ở Italia (1668-1744) đã phân chia các
thời kì phát triển của xã hội giống như phân chia các giai đoạn của một đời người: thơ ấu,
thanh niên, thành niên và tuổi già. Nhà triết học duy tâm Hê-ghen (1770 -1831) phân chia
lịch sử xã hội loài người thành ba thời kì chủ yếu: thời kì phương Đông, thời kì cổ đại và
thời kì Giéc- ma- ni . Nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng Pháp Phu- ri- ê (1722-1837) chia
lịch sử xã hội thành bốn giai đoạn: giai đoạn mông muội, giai đoạn dã man, giai đoạn gia
trưởng, giai đoạn văn minh. Còn nhà nhân chủng Mỹ Hang- ri Moóc- găng ( 1818-1881 )
lại phân chia xã hội thành ba thời đại : thời đại mông muội , thời đại dã man và thời đại
văn minh..
Mọi người cũng đã quen với những khái niệm : thời đại đồ đồng , thời đại
cối xay gió, thời đại máy hơi nước, và gần đây là các nền văn minh : văn minh nông
nghiệp, văn minh hậu công nghiệp.
Mỗi cách tiếp cận nêu trên có những điểm hợp lí nhất định, và do đó đều
có ý nghĩa nhất định, nhưng chưa nói lên bản chất sự phát triển của xã hội một cách toàn
diện, tổng thể, do đó mà còn hạn chế.
Dựa trên những kết quả nghiên cứu lí luận và tổng kết quá trình lịch sử đã
hình thành nên học thuyết về hình thái kinh tế -xã hội. Hình thái kinh tế- xã hội là một khái
niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định
với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định
TiÓu luËn triÕt
của lực lượng sản xuất và một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những

mối quan hệ sản xuất.
Là sự biểu hiện tập trung của quan niệm duy vật lịch sử, lí luận về hình
thái kinh tế – xã hội nghiên cứu lịch sử xã hội trên cơ sở xem xét cả lực lượng sản xuất, cả
cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, tức toàn bộ các yếu tố cấu thành bộ mặt của một
thời đại: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, kỹ thuật. Do đó, nó cắt nghĩa xã hội
được sáng tỏ hơn, toàn diện hơn, chỉ ra cả bản chất và quá trình phát triển của xã hội.
Trong sự nghiệp đổi mới của Đảng ta hiện nay, Đảng ta đã vạch ra con
đường phát triển của đất nước: "Đảng lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động..."
Đề tài "Học thuyết Mac về hình thái kinh tế – xã hội và sự vận dụng
của đảng ta trong thời kì đổi mới gắn với hoạt động ngân hàng" là một đề tài mang
tính chất sâu rộng và có ý nghĩa vô cùng to lớn trong nhận thức, đánh giá về đường lối
chính sách. Nghiên cứu vấn đề đó là một tất yếu khách quan vì nó không chỉ có ý nghĩa về
phương pháp luận mà còn có giá trị lớn trong thực tiễn.
TiÓu luËn triÕt
B.NỘI DUNG ĐỀ T IÀ
I.TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN
Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác như Lênin đánh giá là thành tựu vĩ đại
nhất của tư tưởng khoa học, trong đó cốt lõi là học thuyết hình thái kinh tế-xã hội. Giai cấp
tư bản không thể chấp nhận được học thuyết này vì trong đó đã luận chứng một cách khoa
học chặt chẽ chế độ tư bản sẽ bị thay thế bằng chế độ cộng sản chủ nghĩa theo quy luật
chung của tiến hóa xã hội, mà chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác đã tìm ra.
Bằng sự nghiêm túc khoa học, chúng ta thấy rằng cho đến nay chưa có học
thuyết nào về tiến hóa xã hội có thể thay thế được học thuyết Mác về hình thái kinh tế-xã
hội. Học thuyết này đem đến cho chúng ta cơ sở phương pháp luận để nhận thức quy luật
phát triển xã hội và một niềm tin khoa học vào lý tưởng cộng sản chủ nghĩa.
Như vậy, chủ nghĩa duy vật của Mác đã nhìn nhận học thuyết hình thái kinh
tế-xã hội là một quy luật phát triển của xã hội.
Từ đó ta đi tới khái niệm: hình thái kinh tế-xã hội
“ Hình thái kinh tế-xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử

dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc
trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một
kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy”
Khi nghiên cứu lịch sử phát triển của xã hội xuất phát từ những nhận thức
khác nhau, với những ý tưởng khác nhau mà có sự phân lịch sử tiến hóa của xã hội theo
những cách khác nhau.
Đơn cử như triết gia duy tâm Hê-ghen(1770-1831) phân kì lịch sử xã hội
loài người thành ba thời kì chủ yếu:Thời kì Phương Đông, thời kì cổ đại và thời kì Grec-
mani. Và như nhà xã hội không tưởng của Pháp là Phu-ri-ê(1772-1831) chia lịch sử xã hội
thành bốn giai doạn: giai đoạn mông
Dựa trên những kết quả nghiên cứu lý luận và tổng thể quá trình lịch sử, các
nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã vận dụng phép biện chứng duy vật để nghiên cứu lịch sử xã
hội, đưa ra quan điểm duy vật về lịch sử và hình thành nên học thuyết về hình thái kinh tế-
xã hội.
Học thuyết hình thái kinh tế-xã hội với tư cách là: " Hòn đá tảng" của xã hội
học Mác Xít nói chung cho phép chúng ta hình dung quá trình phát triển của lịch sử là quá
trình lịch sử tự nhiên.
TiÓu luËn triÕt
Loài người đã trải qua năm hình thái kinh tế-xã hội theo thứ tự hình thái
kinhtế-xã hội cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và
hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa.

Hình thái kinh tế-xã hội có tính lịch sử, có sự ra đời và diệt vong. Chế độ xã
hội lạc hậu sẽ mất đi, chế độ xã hội mới cao hơn sẽ thay thế nó. Đó là khi phương thức sản
xuất cũ đã trở nên lỗi thời, khủng hoảng do mâu thuẫn của quan hệ sản xuất với lực lượng
sản xuất.

Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất kĩ thuật của mỗi hình thài kinh tế-xã
hội. Sự hình thành và phát triển của mỗi hình thái kinh tế, xét cho cùng do lực lượng sản
xuất quyết định. Lực lượng sản xuất qua các hình thái kinh tế- xã hội nối tiếp nhau từ thấp

lên cao.

Quan hệ sản xuất, quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất- là
những quan hệ cơ bản ban đầu và quyết định tất cả mọi quan hệ xã hội khác. Mỗi hình thái
kinh tế- xã hội lại có một kiểu quan hệ sản xuất của nó tương ứng với một trình độ nhất
định của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất là một tiêu chuẩn khách quan để phân biệt
xã hội cụ thể này với xã hội khác, đồng thời tiêu biểu cho một giai đoạn phát triển nhất
định của của lịch sử.
Xuyên tạc, cắt xén nội dung học thuyết để phủ nhận học thuyết.
Điển hình của loại quan điểm này là quy lý luận của Mác thành quyết định luật kinh tế với
nghĩa coi kinh tế là yếu tố duy nhất quyết định sự vận động và phát triển của xã hội. Điều
này đã bị chính Ăng Ghen bác bỏ- Dùng chính lý luận hình thái kinh tế- xã hội để bác bỏ
sự ra đời của các nước xã hội chủ nghĩa, cho rằng nó trái với quá trình lịch sử- tự nhiên
rằng cách mạng tháng Mười "Đẻ non"...do chỗ dựa chưa có ''tất yếu kinh tế" cứ để qua chế
độ tư bản chủ nghĩa rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội rồi chủ nghĩa cộng sản theo đúng quy
luật". Lúc còn sống Lênin đã bác bỏ quan điểm này, song đến nay vẫn tồn tại, kể cả biến
thể của nó là loại quan điểm cho rằng chế độ xã hội chủ nghĩa sụp đổ ở Liên Xô và các
nước Đông Âu là do hệ tư tưởng Mác-Lênin sai trong đó có"lý luận hình thái kinh tế-xã
hội". Đối với nước ta những năm gần đây cũng có một số ý kiến tương tự, cho rằng ta chưa
TiÓu luËn triÕt
có"tất yếu kinh tế" để lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa và để bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa.
Bác bỏ gián tiếp: Loại quan điểm này thể hiện dưới dạng: Chứng minh chủ
nghĩa xã hội không có tương lai, tất yếu bị diệt vong. Chủ nghĩa tư bản là nấc thang cao
nhất của lịch sử xã hội, nó tồn tại vĩnh viễn.

Muốn thay thế học thuyết hình thái kinh tế xã hội bằng học thuyết khác.
Điển hình cho loại quan điểm này là tiếp cận theo nền văn minh. Xã hội phát triển từ nền
văn minh nông nghiệp đến văn minh công nghiệp và văn minh hậu công nghiệp. Sai lầm
căn bản của cách tiếp cận này là "coi trình độ phát triển khoa học, công nghệ, lực lượng

sản xuất là yếu tố quyết định duy nhất bỏ qua vai trò của quan hệ kinh tế, giai cấp, chế độ
chính trị".

Qua đó chúng ta rút ra: ý nghĩa của học thuyết hình thái kinh tế- xã hội và
vấn đề quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Học thuyết hình thái kinh tế- xã hội vạch ra nguồn gốc, động lực bên trong
của sự phát triển xã hội, tìm ra nguyên nhân và cơ sở của sự xuất hiện và biến đổi những
hiện tượng xã hội đặt ra cơ sở lý luận cho khoa học và xã hội học nâng nó lên thành khoa
học thực sự. Chống lại quan điểm duy tâm về lịch sử, coi xã hội là sự kết hợp có tính chất
máy móc của nhiều cá nhân và gia đình, coi sự vận động và phát triển của xã hội là lý do ý
chí của những nhà cầm quyền chi phối, coi kỹ thuật là cái chung quyết định tính chất chế
độ xã hội, là tiêu chuẩn khách quan phân biệt các hình thái kinh tế-xã hội.

Học thuyết hình thái kinh tế-xã hội vũ trang cho chúng ta phương pháp khoa
học để nghiên cứu sự phát triển xã hội qua các chế độ xã hội khác nhau, hiểu rõ cơ cấu
chung của hình thái kinh tế-xã hội và những quy luật phổ biến tác động, chi phối sự vận
động và phát triển của xã hội
.
Rõ ràng, học thuyết Mác về hình thái kinh tế -xã hội là một thành tựu vĩ đại
của khoa học xã hội, là một bước tiến khổng lồ trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Sự
TiÓu luËn triÕt
ra đời của học thuyết này là một cuộc cách mạng trong toàn bộ quan niệm về lịch
sử xã hội.

Học thuyết Mác về hình thái kinh tế- xã hội đối lập với quan niệm trừu
tượng, duy tâm về xã hội. Nó bác bỏ cách miêu tả xã hội nói chung, một xã hội cấu thành
chỉ bởi những con người tự nhiên sinh vật. Nó đánh đổ hẳn quan niệm cho rằng xã hội là
một tổ hợp có tính máy móc, có thể biến đổi tùy ý theo đủ mọi kiểu, một tổ hợp sinh ra và
biến hóa một cách ngẫu nhiên.

Các- Mác đã vận dụng lý luận hình thái kinh tế-xã hội và phân tích xã hội tư
bản, vạch ra các quy luật vận động và phát triển của nó. Từ đó dự báo về sự ra đời của hình
thái kinh tế-xã hội cao hơn là: Cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn thấp là chủ nghĩa xã hội.

Trong công cuộc đổi mới ở nước ta, chúng ta vẫn giữ vững mục tiêu xã hội
chủ nghĩa. Đi lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với xu hướng của thời đại,và tuy nhiên
chúng ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa nên phải trải qua nhiều khâu trung gian, nhiều bước quá độ. Chúng ta
phải trải qua những bước đi tất yếu mà không thể bỏ qua được. Chúng ta phải kế thừa và
phát triển để tạo ra những tiền đề cần thiết cho chủ nghĩa xã hội trên tất cả các mặt: từ lực
lượng sản xuất đến quan hệ sản xuất, từ cơ sở hạ tầng đến kiến trúc thượng tầng.

II. SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG HIỆN NAY
GẮN VỚI HOẠT ĐỘNG NG N H NGÂ À

1. Thực trạng kinh tế:

Những th nh tà ựu v tià ến bộ
:
Nền kinh tế nước ta tiếp tục phát triển và đạt mức tăng trưởng khá.



TiÓu luËn triÕt
Năm 1997, GDP tăng 9% cao hơn bình quân của năm trước là 8,2%. Năm
1999, tăng 4,7%- 5%.

Theo số liệu Ban chấp hành Trung ương Đảng- Hội nghị lần thứ VIII- khóa
8 thì mức độ thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu của nền kinh tế nước ta năm 1999 như sau:
- Tổng sản phẩm trong nước(GDP) tăng 4,7%- 5%

- Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng 5,2%- 5,5%
- Sản lượng lương thực quy thóc đạt 33,8 triệu tấn.
- Giá trị sản lượng công nghiệp tăng 10,3%- 10,5%
- Giá trị các ngành dịch vụ tăng 3,5%- 3,8%
- Kim ngạch xuất khẩu tăng 14,3%
- Lạm phát 2%
- Bội chi ngân sách 4,9%(so với GDP)
- Số hộ đói nghèo giảm 40 vạn hộ.
- Tạo việc làm mới cho 1,2 triệu người.
- Số tỉnh hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ là 58/61 tỉnh.
-Trong hoàn cảnh có nhiều khó khăn và thách thức nhưng nền kinh tế vẫn
duy trì được tốc độ tăng trưởng. Mặc dù GDP năm 1999 tăng 5% so với năm 1998 có kém
hơn so với tốc độ của các năm trước nhưng mức tăng trưởng đã nhích dần từng tháng, từng
quý: Quý I, GDP tăng 4,2%- Quý II tăng 4,5%- Quý III tăng 5%... làm xuất hiện khả năng
chặn đà giảm sút, tuy còn phải phấn đấu rất cao mới biến khả năng đó thành hiện thực.

Đặc biệt giá trị sản xuất nông nghiệp tăng 5,2% so với năm 1998, mức tăng
cao nhất từ trước tới nay và vượt mục tiêu Quốc hội đề ra. Với sản lượng lương thực 33,8
triệu tấn đủ khẳng định khả năng của ngành nông nghiệp với nền kinh tế quốc dân là rất
lớn. Cùng với nông nghiệp trồng trọt các ngành khác như chăn nuôi, đánh bắt thủy sản, hải
sản đều có mức tăng trưởng khá và ổn định.

Về công nghiệp, mặc dù chịu ảnh hưởng của các cuộc khủng hoảng trên thế
giới, cũng như khu vực, thị trường bị thu hẹp, đầu tư nước ngoài giảm nhưng mức tăng
trưởng vẫn duy trỳ trên 10%, đó là một sự cố gắng lớn của toán ngành công nghiệp. Nhất
là sản phẩm quan trọng có nhu cầu lớn và thị trường đạt mức tăng trưởng khá so với năm
TiÓu luËn triÕt
1998: Dầu thô tăng 20,5%, điện tăng 8,2%, thép tăng 11,8%, may mặc tăng 12%, xe đạp
tăng 16,3%, động cơ Diêzen tăng 31%...


Các cân đối kinh tế vĩ mô được duy trỳ tạo điều kiện cho phát triển.

Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao hơn kế hoạch dự kiến, thu hẹp đáng kể
chênh lệch xút nhập khẩu.

Trong điều kiện, bối cảnh kinh tế thế giới giảm sút, thị trường tiêu thụ bị thu
hẹp, giá hầu hết các mặt hàng giảm mạnh nhưng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước
năm 1999 vẫn đạt 10,7 tỷ USD, vượt hai lần so với kế hoạch dự kiến.

Kim ngạch xuất khẩu cả năm đạt 11,3 tỷ USD giảm 2% so với năm 1998
làm cho mức nhập siêu khoảng 600 triệu USD, bằng 5,6% so với kim ngạch xuất khẩu.
Đây là mức thấp nhất trong nhiều năm qua, nhờ có cán cân thanh toán quốc tế cả năm có
được cải thiện, bội thu khá làm cho dự trữ ngoại tệ được tăng lên.

Trong bối cảnh đầu tư nước ngoài giảm do hậu quả của khủng hoảng kinh
tế, tài chính trong khu vực và trên thế giới, với tư tưởng chỉ đạo của TW4 và nghị quyết
TW6 lần 1, chúng ta đã có một bước tiến trong việc phát huy nội lực để bù đắp và bổ xung
một phần thiếu hụt cho đầu tư phát triển do sự giảm sút của đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.

Đánh giá sơ bộ cho thấy tổng đầu tư xã hội năm 1999 đạt 105 ngàn tỉ (tăng
9% so với năm 1998), đây là một sự cố gắng lớn. Nét nổi bật là trong khi vốn đầu tư trực
tiếp từ nước ngoài giảm từ 24,3 ngàn tỉ (năm 1998) xuống còn 18,8 ngàn tỉ đồng (năm
1999) nhưng tổng vốn đầu tư phát triển vẫn tăng 9%. Điều đó nói lên tư tưởng phát huy
nội lực của các Nghị quyết Trung ương bước đầu đi vào cuộc sống.

Nguồn vốn đầu tư phát triển xã hội đã được tập trung đầu tư nhiều hơn cho
nông nghiệp và kinh tế nông thôn, phát triển công nghiệp chế biến và các ngành công
nghiệp then chốt, xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông, bưu điện, giáo dục, khoa học công
nghệ, y tế, văn hóa...

×