Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Dàn ý Giá trị hiện thực và nhân đạo trong Vợ nhặt Văn Lớp 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.95 KB, 29 trang )

Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt

Dàn ý Giá trị hiện thực và nhân đạo trong Vợ nhặt
Dàn ý số 1
I. Mở bài:
● Kim Lân là cây bút viết truyện ngắn chuyên nghiệp, ông tập trung viết về cảnh
nông thơn, hình tượng người nơng dân lao động.
● Vợ nhặt rút từ tập Con chó xấu xí, là truyện ngắn đặc sắc viết về người nơng
dân, miêu tả tình trạng thê thảm của họ trong nạn đói năm 1945, nhưng cũng
ngợi ca bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ. Bởi vậy đây là truyện ngắn
giàu giá trị hiện thực và nhân đạo.
II. Thân bài:
* Giá trị hiện thực
- Phản ánh chân thực cuộc sống của nhân dân ta trước cách mạng tháng tám: nạn đói
khủng khiếp khiến bao người phải chịu cảnh sổ sở:
● Con người chịu cảnh tang thương, cuộc sống ngày càng thê thảm: “Người chết
như ngả rạ”, “ba, bốn cái thây nằm còng queo bên đường”, người sống mặt hốc
hác u tối đi lại dật dờ như những bóng ma, xanh xám như những bóng ma, ...
● Khơng gian chỉ tịa những tiếng khóc hờ, tiếng quạ kêu từng hồi thê thiết.
● Mùi gây của xác người, mùi ẩm mốc của rác rưởi, mùi khét của những đống
rấm.
- Đặc biệt, bữa cháo cám ngày đói nhà anh cu Tràng đã phản ánh cuộc sống thảm hại
của con người.
- Con người trong cái đói, cái khổ phải giành giật lấy sự sống cho chính mình: Tràng
ngày ngày kéo xe cực khổ để sống qua ngày, bà cụ Tứ già cả vẫn phải đi làm, ...
- Nhận xét: ranh giới giữa người và ma, giữa sự sống và cái chết rất mong manh.
Khơng gian xóm ngụ cư không khác biệt nhiều với nghĩa địa
* Bộc lộ niềm xót xa thương cảm đối với cuộc sống bi thảm của những người dân
nghèo trong nạn đói năm 1945
- Cái đói khổ đã khiến cho con người bị rẻ rúng, mất đi giá trị:
● Điển hình là nhân vật người vợ nhặt, vì q túng quẫn thị khơng quan tâm đến


thể danh dự cứ tin vào lời nói đùa của Tràng mà “cong cớn đòi ăn”, còn chấp
Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
nhận theo không Tràng về làm vợ.
● Chính Tràng cũng vậy, vì q nghèo khổ mà khó có thể lấy vợ, đến khi lấy
được vợ cũng là nhờ hoàn cảnh éo le.
* Gián tiếp tố cáo tội ác tày trời của bọn thực dân phát xít đối với nhân dân ta
- “đằng thì chúng bắt nhổ lúa trồng đay, đằng thì chúng bắt đóng thuế”, chúng khơng
cho nhân dân ta con đường sống, đẩy nhân dân đến bước đường cùng.
- Trong đoạn cuối truyện, khi nghe tiếng trống thúc sưu thuế, bà cụ tứ cũng tuyệt vọng
kêu lên rằng: “Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ”
* Trân trọng những khát vọng nhân văn của con người
- Tác phẩm ngợi ca khát vọng sống mãnh liệt của con người: Một mặt ta thấy người
vợ nhặt như mất nhân cách trong cảnh đói khổ, nhưng mặt khác đó lại là khát vọng
sống mãnh liệt của thị, thị không từ bỏ bất cứ cơ hội nhỏ nhoi nào để được sống tiếp,
ngay cả việc theo không người ta về làm vợ.
- Ta thấy ở Tràng là một khát vọng hạnh phúc chân thành, khơng phải vì ngờ nghệch
mà anh dẫn người vợ nhặt về, sâu thẳm bên trong là khát khao có một gia đình như
bao người bình thường khác.
- Truyện ngắn còn thấm đẫm vẻ đẹp của lòng thương người: vì tình thương người
chân thành mà Tràng sẵn sàng mời thị ăn dù khơng dư dả, vì thương người mà bà cụ
tứ chấp nhận người con dâu được nhặt về dù trong cảnh đói khổ.
- Dù bị đẩy đến bước đường cùng, con người vẫn ln có niềm tin vào cuộc sống:
+ Người vợ nhặt nhắc đến cảnh đoàn người phá kho thóc để tạo niềm tin cho bà cụ Tứ
và Tràng, bà cụ Tứ cũng dự tính những chuyện tương lai, khuyên bảo các
* Chỉ ra lối thoát để con người hướng đến cuộc sống tốt đẹp hơn
- Từ câu chuyện phá kho thóc mà người vợ nhặt kể và hình ảnh đám người đói, lá cờ
đỏ trong suy nghĩ của Tràng là những dấu hiệu của cuộc cách mạng, khiến người đọc

có thể tin tưởng vợ chồng Tràng sẽ có mặt trong đồn người vùng lên tổng khởi nghĩa.
III. Kết bài:
● Khái quát giá trị nghệ thuật: xây dựng tình huống truyện đặc sắc, miêu tả tâm lí
nhân vật, ngơn ngữ giản dị gần gũi.
● Tác phẩm thẫm đẫm giá trị nhân văn: thể hiện sự cảm thương sâu sắc với số
phận con người trong đói khổ, lên án tố cáo tội ác thực dân phát xít, từ đó sự

Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
trân trọng của tác giả đối với phẩm chất tốt đẹp của con người.
Dàn ý số 2
I. Mở bài.
– Giới thiệu vắn tắt về Kim Lân và truyện ngắn Vợ nhặt
Vợ nhặt là một trong những truyện ngắn đặc sắc của nhà văn Kim Lân , in trong tập
Con chó xấu xí. Vợ nhặt có tiền thân là truyện Xóm ngụ cư – viết ngay sau Cách
mạng tháng Tám. Bản thảo chưa in thì bị thất lạc, sau này được tác giả viết lại.
II. Thân bài.
1. Giá trị hiện thực của tác phẩm Vợ nhặt
– Bối cảnh của truyện ngắn Vợ nhặt là khung cảnh nơng thơn Việt Nam vào một thời
kì ngột ngạt và đen tối nhất- đó là nạn đói năm Ất Dậu 1945. Bọn thực dân Pháp và
phát xít Nhật buộc người nông dân phải nhổ lúa và hoa màu để trồng đay, phục vụ cho
nhu cầu chiến tranh. Người dân các tỉnh ở đồng bằng Bắc bộ lâm vào nạn đói khủng
khiếp, gần hai triệu người chết đói. Hiện thực đau thương đó đã được phản ánh trong
nhiều truyện của Ngun Hồng, Tơ Hồi và thơ của Văn Cao… Nhà văn Kim Lân
cũng góp tiếng nói tố cáo của mình trong tác phẩm Vợ nhặt.
– Đặc sắc nghệ thuật của nhà văn Kim Lân trong tác phẩm Vợ nhặt là mặc dù khơng
có một dịng nào tố cáo trực tiếp tội ác của bọn thực dân Pháp và phát xít Nhật, hình
ảnh của chúng cũng khơng một lần xuất hiện, nhưng tội ác của chúng vẫn hiện lên một

cách rõ nét. Khung cảnh làng quê ảm đạm, tối tăm. Những căn nhà úp súp . Những
xác chết nằm còng queo bên đường. Khơng khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và
mùi gây của xác người…
– Cuộc sống của người nông dân bị đẩy đến bước đường cùng. Tính mạng của con
người lúc này thật rẻ rúng, người ta “ nhặt” được vợ giống như nhặt cái rơm, cái rác ở
bên đường. Thơng qua tình huống truyện lấy vợ của Tràng, Kim Lân khơng chỉ nói lên
được thực trạng đen tối của xã hội Việt Nam trước Cách mạng , mà cịn thể hiện được
thân phận đói nghèo, bị rẻ rúng của người nông dân trong chế độ xã hội cũ ( Chú ý
phân tích cảnh bữa cơm đón nàng dâu mới ở nhà Tràng vào thời điểm đói kém: giữa
cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối và một đĩa muối ăn với cháo…rồi nồi “
chè khoán” nấu bằng cám.) Ở phần cuối của tác phẩm, những nhân vật nghèo khó này
cũng khao khát sự đổi thay về số phận. Chúng ta cũng thấy thoáng hiện lên niềm dự
cảm của tác giả về tương lai, về cách mạng( qua hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng và những
đồn người đi phá kho thóc của Nhật).

Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
2. Giá trị nhân đạo của tác phẩm Vợ nhặt
– Kim Lân đã viết về cuộc sống của người nông dân Việt Nam trước cách mạng với
một niềm đồng cảm, xót xa, day dứt. Nếu khơng có một tình cảm gắn bó thực sự với
người nông dân , không trải qua những năm tháng đen tối ấy, khơng dễ gì viết nên
được những trang sách xúc động và thấm thía đến thế.
– Giá trị nhân đạo của tác phẩm còn được thể hiện ở chỗ, nhà văn đã phát hiện và
miêu tả những phẩm chất tốt đẹp của người lao động. Mặc dù bị xô đẩy đến bước
đường cùng, mấp mé bên cái chết, nhưng những người nông dân vẫn cưu mang, giúp
đỡ nhau, chia sẻ cho nhau miếng cơm, manh áo. Hiện thực cuộc sống càng đen tối bao
nhiêu ( chú ý phân tích cảnh bà cụ Tứ chấp nhận cơ con dâu mới trong lúc gia đình
cũng đang rất khó khăn, không biết sống chết lúc nào, để làm nổi rõ tình người của

họ).
– Kim Lân cũng thể hiện một sự trân trọng đối với khát vọng sống, khát vọng hạnh
phúc và mái ấm gia đình của người nơng dân.
Trong hồn cảnh khó khăn, nhưng bà cụ Tứ và vợ chồng Tràng vẫn ln hướng tới
một cuộc sống gia đình đầm ấm, hạnh phúc ( cần chú ý những chi tiết diễn tả tâm
trạng bà cụ Tứ, thái độ của Tràng, vợ Tràng trong bữa ăn, rồi nhà cửa , sân vườn đều
được quét tước , thu dọn sạch sẽ, gọn ghẽ).Một cái gì mới mẻ, khác lạ đang đến với
mỗi thành viên trong gia đình bà cụ Tứ và hé mở trước họ một niềm tin về tương lai.
III. Kết bài.
– Vợ nhặt là một tác phẩm thành công của nhà văn Kim Lân. Qua tác phẩm này,
chúng ta không chỉ nhận thấy tài năng của nhà văn, sự hiểu biết sâu sắc, cặn kẽ của
ông về cuộc sống của người nơng dân, mà điều quan trọng hơn đó chính là cái tâm, cái
tấm lịng gắn bó thiết tha, sâu nặng của Kim Lân đối với những người lao động nghèo
khó trước Cách mạng.
Giá trị hiện thực và nhân đạo trong Vợ nhặt - Mẫu 1
Kim Lân là một nhà văn tài năng và đặc biệt ông bén duyên với những tác phẩm mang
tính chất rất giản dị đặc biệt là các tác phẩm về những số phận khó khăn. Tác phẩm
“Vợ nhặt “ là một trong số những tác phẩm tiêu biểu mà trong đó tác giả đưa ra cho ta
những cách nhìn rất chân thực về người nơng dân trong cảnh đói nghèo ,tù túng. Tác
phẩm đã thể hiện rất rõ hai giá trị,giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực rất sâu sắc.
Với tư cách là một nhà văn của nông thôn, Kim Lân là người rất hiểu người nông dân,
lại là người trong cuộc của cái nạn đói khủng khiếp này, Vợ nhặt được tái hiện là một
bức tranh cô đọng mà đầy đủ, khái quát mà cụ thể, khắc sâu thành ấn tượng rõ nét.
Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
Qua tác phẩm ta có thể thấy bức tranh tồn cảnh về nạn đói khủng khiếp năm 1945
với cảnh người đói "bồng bế, dắt díu nhau xanh xám như những bóng ma, và nằm
ngổn ngang khắp lều chợ", "bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những

bóng ma", và sau đó là "người chết như ngả rạ", "thây nằm cịng queo bên đường",
"khơng khí vẩn lên mùi gây của xác người", rồi "mùi đốt đống rấm ở những nhà có
người chết theo gió thoảng vào khét lẹt" và "tiếng hờ khóc tỉ tê trong đêm khuya"…
như thế cái đói đó đã tràn đến xóm ngụ cư, ùa vào gia đình anh Tràng, bủa vây và đe
dọa số phận từng con người, không trừ một ai.
Tác phẩm cũng vẽ ra “Bức tranh về số phận những con người trên bờ vực thẳm của
nạn đói: "những khn mặt hốc hác u tối trong "cuộc sống đói khát", "khơng nhà nào
có ánh đèn, lửa", đến cả trẻ con cũng ngồi ủ rũ dưới những xó đường khơng buồn
nhúc nhích. Trong gia đình Tràng thì bà cụ Tứ già lão khơng làm được gì, anh con trai
đẩy xe bò thuê để kiếm sống qua ngày, người con dâu "áo quần tả tơi như tổ đỉa, gầy
sọp hẳn đi, hai con mắt trũng hoáy, cái ngực gầy lép nhơ hẳn lên"… Số phận của họ
có khác gì "cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ
dại” và bữa cơm ngày đói với nồi cháo cám "đắng chát và nghẹn bứ trong cổ"…
Vợ nhặt của Kim Lân còn là niềm khát khao tới cháy bỏng với tổ ấm gia đình trọn
vẹn. Niềm khát khao tổ ấm gia đình được thể hiện chân thực và có chiều sâu qua tâm
trạng nhân vật Tràng: từ trên bờ vực thẳm của cái chết, họ đã dám khát khao đến tổ ấm
gia đình, đến một cuộc sống đích thực và cao đẹp của con người. Cho nên, tuy "chợn"
khi nghĩ "thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có ni nổi khơng, lại cịn đèo
bịng", nhưng Tràng vẫn "Chậc, kệ!" và dẫn vợ về nhà. Trong tác phẩm Vợ nhặt “Anh
vừa xấu hổ lại vừa tự hào khi đưa vợ đi qua xóm ngụ cư, bởi vì có "một cái gì mới mẻ,
lạ lắm, chưa từng thấy" dâng lên "ôm ấp, mơn man khắp da thịt..,"; và nhất là, trong
buổi sáng đầu tiên khi có vợ, Tràng thấy cuộc đời mình bỗng nhiên thay đổi hẳn: "Hắn
thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng", "một nguồn vui sướng, phấn
chấn đột ngột tràn ngập trong lòng", "bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy
hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này". Đây là đoạn văn đầy cảm hứng
nhân đạo với các nhân vật của ơng. Chính vì u thương chính vì khát khao có một
mái ấm gia đình nên con người ta biết quý trọng những thứ xung quanh hơn.
Ở “Vợ Nhặt” giá trị hiện thực tuy chưa rõ nét nhưng đã hiện ra ở cuối truyện trong ý
nghĩ của Tràng: "cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng
trước có lá cờ đỏ to lắm". Đồn người đi phá kho thóc Nhật và lá cờ của Việt Minh.

Đây là hiện thực nhưng cũng là ước mơ của những người giống như Tràng.
Không những truyện thể hiện giá trị hiện thực mà còn là giá trị nhân đạo sâu sắc. ở
đây chúng ta có thể nhận ra tình thương yêu giai cấp, sự cưu mang lẫn nhau của
những người nghèo khổ được thể hiện rất cao đẹp và cảm động qua tấm lòng bà cụ Tứ
đối với con trai và con dâu. Vượt lên tình thương con – nhất là đổi với người đàn bà lạ
Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
bỗng nhiên thành con dâu mới – đó là tình thương u giai cấp của những người
nghèo khổ. Bà cụ tứ đã gọi thị là "con", tơn trọng thị, nói chuyện thân mật với thị
ngay đêm đầu gặp mặt. Và sáng hôm sau, bà cụ tứ cố tạo ra niềm vui cho con trai và
con dâu vui. Trong tác phẩm” Chi tiết nồi cháo cám thật cảm động trong bữa cơm
ngày đói đón dâu mới. Khơng chỉ là tấm lịng người mẹ thương con mà trong tình
thương ấy cịn có cả đức vị tha cao cả.
Truyện kết thúc với một cái kết đầy gợi mở đã tạo cho người đọc những cảm hứng
trong tìm tịi và chiêm nghiệm. Dưới ngịi bút tài hoa của tác giả Kim Lân chúng ta có
cơ hội đắm chìm trong khơng gian ấy, và nhận ra những vẻ đẹp của hai giá trị lớn: giá
trị hiện thực sâu sắc và giá trị nhân đạo cao cả.
Giá trị hiện thực và nhân đạo trong Vợ nhặt - Mẫu 2
Kim Lân đã có lần tâm sự "Ý nghĩa của truyện: trong sự túng đói quay quắt, trong bất
cứ hồn cảnh khốn khổ nào, người nông dân ngụ cư vẫn khao khát vươn lên trên cái
chết, cái thảm đạm để mà vui, để mà hi vọng" (Cách mạng, kháng chiến và đời sống
văn học - NXB Tác phẩm mới, 1985)
Với một ý đồ như thế, Kim Lân chọn nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu làm bối cảnh
cho truyện thì quả là đắc địa. Vợ nhặt trước hết là thiên truyện nói về cái đói. Chỉ mấy
chữ "Cái đói tràn đến..." đủ gợi lên hoài niệm kinh hoàng cho người dân xứ Việt về
một thảm hoạ lớn của dân tộc đã quét đi xấp xỉ gần một phần mười dân số trên đất
nước ta. Đúng như chữ nghĩa Kim Lân, hiểm hoạ ấy "tràn đến", tức là mạnh như thác
dữ. Cách tả của nhà văn gây một ám ảnh thê lương qua hai loại hình ảnh: con người

năm đói và khơng gian năm đói. Ơng đặc tả chân dung người năm đói "khn mặt hốc
hác u tối" nhưng đáng sợ nhất là có tới hai lần ơng so sánh người với ma: "Những gia
đình từ những vùng Nam Định, đội chiếu lũ lượt bồng bế , dắt díu nhau lên xanh xám
như những bóng ma", và "bóng những người đói đi lại lặng lẽ như những bóng ma".
Kiểu so sánh ấy thể hiện một cảm quan đặc biệt của Kim Lân về cái thời ghê rợn: đó
là cái thời ranh giới giữa người và ma, cái sống và cái chết chỉ mong manh như sợi
tóc. Cõi âm nhồ vào cõi dương, trần gian mất mép miệng vực của âm phủ. Trong
không gian của thế giới ngổn ngang người sống kẻ chết ấy, cái tiếng quạ "gào lên từng
hồi thê thiết" cùng với "mùi gây gây của xác người" càng tô đậm cảm giác tang tóc thê
lương. Quả là cái đói lộ hết sức mạnh huỷ diệt cuộc sống đến mức kinh khủng. Trong
một bối cảnh như thế, Kim Lân đặt vào đó một mối tình thì quả thật là táo bao. Cứ
như thủ thuật "trêu tức" của điện ảnh, Kim Lân tạo ra một "xen" thật bi hài. Khi cái dạ
dày cịn chưa được đầy đủ thì ngay cái sản phẩm tinh thần kì diệu nhất của lồi người
là tình u cũng làm sao tránh được sự méo mó. Chao ơi, toàn chuyện cười ra nước
mắt: bốn bát bánh đúc ngày đó mà làm nên một mối tình, nồi cám ngày đói đủ làm cỗ
tân hơn...Ngịi bút khắc khổ của Kim Lân không né tránh mà săn đuổi hiện thực đến

Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
đáy, tạo cho thiên truyện một cái "phông" đặc biệt, nhàu nát, ảm đạm , tăm tối và phải
nói là có phần nghiệt ngã.
Nhưng quan tâm chính của nhà văn khơng phải là dựng nên một bản cáo trạng trong
Vợ nhặt, mà dồn về phía khác, quan trọng hơn. Từ bóng tối của hoàn cảnh, Kim Lân
muốn tỏa sáng một chất thơ đặc biệt của hồn người. Mảng tối của bức tranh hiện thực
đau buồn là một phép đòn bẩy cho mảng sáng về tình người tỏa ra ánh hào quang đặc
biệt của một chủ nghĩa nhân văn tha thiết cảm động.
Trong văn chương, người ta nhấn mạnh chữ tâm hơn chữ tài. Song nếu cái tài không
đại đến một mức độ nào đó thì cái tâm kia làm sao bộc lộ ra được. Vợ nhặt cũng thế:

tấm lòng tha thiết của Kim Lân sở dĩ lay động người đọc trước hết là nhờ tài dựng
truyện và sau đó là tài dẫn truyện. Tài dựng truyện ở đây là tài bạo nên tình huống
truyện độc đáo. Ngay cái nhan đề Vợ nhặt đã bao chứa một tình huống như thế. Trong
một bài phỏng vấn, Kim Lân đã hào hứng giải thích: "Nhặt tức là nhặt nhạnh, nhặt vu
vơ. Trong cảnh đói năm 1945, người dân lao động dường như khó ai thốt khỏi cái
chết. Bóng tối của nó phủ xuống xóm làng. Trong hồn cảnh ấy giá trị của một con
người thật vơ cùng rẻ rúng, người ta có thể có vợ theo, chỉ nhờ mấy bát bánh đúc bán
ngoài chợ - đúng là "nhặt được vợ như tơi nói trong truyện " (Báo văn nghệ số 19,
ngày 8 -5- 1993 -tr5). Như vậy thì cái thiêng liêng (vợ) đã trở thành rẻ rúng (nhặt).
Nhưng tình huống truyện cịn có một mạch khác: cái chủ thể của hành động "nhặt" kia
là Tràng, một gã trai nghèo xấu xí, dân ngụ cư đang thời đói khát mà đột nhiên lấy
được vợ, thậm chí được vợ theo thì quả là điều lạ. lạ tới mức nó tạo nên hàng loạt
những kinh ngạc cho xóm làng, bà cụ Tứ và chính bản thân Tràng nữa: "cho đến bây
giờ hắn vẫn cịn ngờ ngợ như khơng phải như thế . Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?".Tình
huống trong gợi ra một trạng thái tinh tế của lịng người: trạng thái chơng chênh khó
nói - cái gì cũng chập chờn, như có như khơng. Đây là niềm vui hay nỗi buồn? Nụ
cười hay nước mắt?... Cái thế đặc biệt của tâm trạng này đã khiến ngòi bút truyện
ngắn của Kim Lân mang dáng dấp của thơ ca.
Dựng truyện hay chưa đủ. Tài dựng truyện giống như tài của anh châm ngịi pháo. Có
lửa đốt, châm đúng ngịi nhưng pháo có nhiều quả điếc thì vẫn cứ xịt như thường. Cho
nên tài dựng truyện phải gắn với tài dẫn truyện nữa mới tạo sự sâu sắc, hấp dẫn. Tài
dẫn truyện của Kim Lân thể hiện qua lối sử dụng ngôn ngữ nông dân đặc biệt thành
công, qua lời văn áp sát vào tận cái lõi của đời thực khiến mỗi câu chữ như được
"bứng" ra từ chính cái ngồn ngộn của cuộc sống. Song quan trọng nhất vẫn là ở bút
pháp hiện thực tâm lý. Phải nói, tình huống truyện trên kia thật đắc địa cho Kim Lân
trong việc khơi ra mạch chảy tâm lý cực kỳ tinh tế ở mỗi nhân vật. Rất đáng chú ý là
hai trường hợp: bà cụ Tứ và Tràng. Đây là hai kiểu phản ứng tâm lý trước một tình thế
như nhau, song không ai giống ai. Trước hết là Tràng, một thân phận thấp hèn nhưng
lại là một chú rể có thể coi là hạnh phúc. Hạnh phúc đích thực bao giờ cũng gây một


Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
chấn động tâm lí lớn. Chấn động ở Tràng tạo một mạch tâm lý ba chặng. Khởi đầu là
ngỡ ngàng. Hạnh phúc gây men ở Tràng thành cảm giác mới mẻ kì diệu. Cảm giác ấy
hút lấy toàn bộ con người hắn: vừa lặn vào tâm linh (Trong người êm ái lửng lơ như
người ở trong giấc mơ đi ra) vừa tỏa ra, vật chất hóa thành cảm giác da thịt (Một cái gì
đó mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ơng nghèo khổ ấy, nó ơm ấp, mơn man
khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng). Với cây bút hiện
thực, những đoạn văn như thế đã đạt đến "thần bút", vì trạng thái người viết như nhập
vào làm một với trạng thái nhân vật (cịn gọi là năng lực "hóa thân" trong văn xuôi,
năng lực "nhập thần" trong thơ ca). Rồi cái ngỡ ngàng hạnh phúc kia cũng nhanh
chóng đẩy thành niềm vui hữu tình cụ thể. Đó là niềm vui về hạnh phúc gia đình - một
niềm vui giản dị nhưng lớn lao khơng gì sánh nổi. Chẳng thế mà một người nổi tiếng
như Tsecnưsepxki từng mơ ước: "Tôi sẵn sàng đánh đổi cả sự nghiệp nếu biết rằng
trong một căn phịng nhỏ ấm áp nào đó, có một người đàn bà đang ngóng đợi tơi về ăn
bữa tối". Chàng thanh niên nghèo hèn của Kim Lân đã thực sự đạt được một niềm vui
như thế: "Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng.
Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng với vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ
ấm che mưa che nắng. Một nguồn sung sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong
lòng". Một niềm vui thật cảm động, lẫn lộn cả hiện thực lẫn giấc mơ. Điều này thì anh
Tràng của Kim Lân cịn may mắn hơn Chí Phèo của Nam Cao: hạnh phúc đã nằm gọn
tay Tràng, còn Thị Nở mới chấp chới tầm tay Chí Phèo thì đã bị cái xã hội đen tối
cướp mất. Có một chi tiết rất đắt của Kim Lân: "Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn
cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà". So với cái dáng "ngật
ngưỡng" mở đầu tác phẩm, hành động "xăm xăm" này của Tràng là một đột biến quan
trọng, một bước ngoặt đổi thay cả số phận lẫn tính cách của Tràng: từ khổ đau sang
hạnh phúc, từ chán đời sang yêu đời, từ ngây dại sang ý thức. Chẳng thế mà Kim Lân
đã thấy đủ điều kiện đặt vào dòng suy nghĩ của Tràng một ý thức bổn phận sâu sắc:

"Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận lo lắng cho vợ con
sau này". Tràng đã thực sự "phục sinh tâm hồn" - đó là giá trị lớn lao của hạnh phúc.
Cô Kiều xưa "xăm xăm băng lối vườn khuya một mình" thì táo bạo đấy mà vẫn cứ
chênh vênh, đơn độc thế nào. Cái xăm xăm của Tràng mới thực khỏe, tự tin làm sao!
Bình luận truyện Vợ nhặt, khơng hiểu sao có một câu rất quan trọng của Kim Lân mà
mọi người cứ bỏ qua. Đó là câu kết truyện: "Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói
lả và lá cờ đỏ bay phấp phới...". Một câu kết như thế, chứa đựng bao sức nặng về nghệ
thuật sẽ sa vào lối kết cấu khép của văn học hiện thực phê phán. Sự bổ sung chi tiết
này tạo ra một kết cấu mở khiến Vợ nhặt thực sự vượt qua phạm trù của văn học 1930
- 1945 để bước tới phạm trù của nền văn học mới. Nhờ thế, thiên truyện đã đóng lại
mà một số phận mới vẫn tiếp tục được mở ra. Cái "lá cờ đỏ" kia như tín hiệu của một
sự đổi đời. Nhân vật Tràng tiếp tục vận động về phía niềm tin, về phía cuộc sống. "Lá
cờ đỏ" như gợi mở một sự thanh toán triệt để ở Tràng một số phận bế tắc kiểu anh
Pha, chị Dậu, Chí Phèo... Chi tiết này không phải là một mơ ước viển vông, một ảo
Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
tưởng cổ tích mà có cơ sở chắn chắn từ trong hiện thực đời sống.
Q trình tâm lý của cụ Tứ có phần còn phức tạp hơn nhân vật Tràng. Nếu ở đứa con
trai, niềm vui làm chủ, tâm lý phát triển theo chiều thẳng đứng phù hợp với một chàng
rể trẻ tuổi đang tràn trề hạnh phúc thì ở bà mẹ, tâm lí vận động theo kiểu gấp khúc,
hợp với những nỗi niềm trắc ẩn trong chiều sâu riêng của người già từng trải và nhân
hậu.
Cũng như con trai, khởi đầu tâm lý ở bà cụ Tứ là ngỡ ngàng. Anh con trai ngỡ ngàng
trước một cái dường như không hiểu được. Cái cô gái xuất hiện trong nhà bà phút đầu
như một hiện tượng lạ. Trạng thái ngỡ ngàng của cụ Tứ được khơi sâu bởi hàng loạt
những câu hỏi nghi vấn: "Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn
bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con trai mình thế kia? Sao lại chào mình bằng
u? Khơng phải con cái Đục. Ai thế nhỉ? Rồi lại: "Ô hay, thế là thế nào nhỉ". Trái tim

người mẹ có con trai lớn vốn rất nhạy cảm về điều này, vậy tại sao Kim Lân lại để cho
nhân vật người mẹ ngơ ngác lâu đến thế? Một chút quá đà, một chút "kịch" trong ngòi
bút Kim Lân? Không, nhà văn của đồng nội vốn không quen tạo dáng. Đây là nỗi đau
của người viết: Chính sự cùng quẫn của hoàn cảnh đã đánh mất ở người mẹ sự nhạy
cảm đó.
Nếu ở Tràng, sự ngỡ ngàng đi thẳng tới niềm vui thì ở bà cụ Tứ, sự vận động tâm lý
phức tạp hơn. Sau khi hiểu ra mọi chuyện, bà lão "cúi đầu im lặng". Cái thương của bà
mẹ nhân hậu mới bao dung làm sao: "Biết chúng nó có ni nổi nhau sống qua được
cơn đói khát này khơng?". Trong chữ "chúng nó" , người mẹ đã đi từ lòng thương con
trai sang con dâu. Trong chữ "cúi đầu", bà mẹ tiếp nhận hạnh phúc của con bằng kinh
nghiệm sống, bằng sự trả giá của một chuỗi đời nặng nhọc, bằng ý thức sâu sắc trước
hoàn cảnh, khác hẳn anh con trai tiếp nhận hạnh phúc bằng một nhu cầu, bằng một
ước mơ tinh thần phơi phới.
Rồi tình thương lại chìm vào nỗi lo, tạo thành một trạng thái tâm lý triền miên day
dứt. Tác giả xoáy vào dòng ý nghĩ của bà mẹ: nghĩ đến bổn phận làm mẹ chưa trịn,
nghĩ đến ơng lão, đến con gái út, nghĩ đến nỗi khổ đời mình, nghĩ đến tương lai của
con... để cuối cùng dồn tụ bao lo lắng, yêu thương trong một câu nói giản dị "Chúng
mày lấy nhau lúc này, u thương quá". Trên đống buồn lo, niềm vui của mẹ vẫn cố ánh
lên: Cảm động thay, Kim Lân lại để cái ánh sáng kì diệu đó tỏa ra từ ...nồi cháo cám.
Hãy nghe người mẹ nói: "chè đây - bà lão múc ra một bát - Chè khoán đây, ngon đáo
để cơ". Chữ "ngon" này cần phải cảm thụ một cách đặc biệt. Đó khơng phải là xúc
cảm về vật chất (xúc cảm về vị cháo cám) mà là xúc cảm về tinh thần: ở người mẹ,
niềm tin về hạnh phúc của con biến đắng chát thành ngọt ngào. Chọn hình ảnh nồi
cháo cám, Kim Lân muốn chứng minh cho cái chất người: trong bất kì hồn cảnh nào,
tình nghĩa và hy vọng khơng thể bị tiêu diệt. Con người vẫn muốn sống cho ra sống,
và cái chất người thể hiện ở cách sống tình nghĩa và hy vọng. Nhưng Kim Lân không
Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt

phải là nhà văn lãng mạn. Niềm vui của cụ Tứ vẫn cứ là niềm vui tội nghiệp, bởi thực
tại vẫn nghiệt ngã với nồi cháo cám "đắng cay và nghẹn bùi".
Thành công của nhà văn là đã thấu hiểu và phân tích được những trạng thái khá tinh tế
của con người trong hoàn cảnh đặc biệt. Và vượt lên hoàn cảnh vẫn là một vẻ đẹp tinh
thần của những người nghèo khổ. Cái thế vượt hoàn cảnh ấy tạo nên nội dung nhân
đạo độc đáo và cảm động của tác phẩm. Thông điệp của Kim Lân là một thông điệp
mang ý nghĩa nhân văn. Trong tiểu thuyết nổi tiếng Thép đã tôi thế đấy, nhà văn Nga
Nhicơlai Ơxtrơpxki đã để cho nhân vật Paven Coocsaghin ngẫm nghĩ: "Hãy biết sống
cả những khi cuộc đời trở nên không thể chịu được nữa". Vợ nhặt là bài ca về tình
người ở những kẻ nghèo khổ, đã "biết sống" cho ra người ngay giữa thời túng đói
quay quắt.
Thơng điệp của Kim Lân đã được chuyển hóa thành một thiên truyện ngắn xuất sắc
với cách dựng tình huống truyện và dẫn truyện độc đáo, nhất là bút pháp miêu tả tâm
lí tinh tế, khiến tác phẩm mang chất thơ cảm động và hấp dẫn.
Giá trị hiện thực và nhân đạo trong Vợ nhặt - Mẫu 3
Nông thôn và nông dân vốn là đề tài quen thuộc của thể loại truyện ngắn tưf xưa và
nay. Dù ta phân loại dòng văn học tiểu thuyết theo phương diện nào cũng khơng thể
bỏ qua dịng tiểu thuyết về nơng thơn. Với đề tài đó, nhiều nhà văn đã trở nên nổi
tiếng và học cũng đã cho ra đời nhiều tác phẩm có giá trị. Chẳng hạn trước Cách mạng
tháng Tám có tác phẩm Tắt đèn của Ngơ Tất Tố, tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao, rồi
tác phẩm Con trâu của Trần Tiêu... Những tác phẩm này đã được viết với nội dung
đơn giản nhưng mang tư tưởng khá sâu sắc. Trong số những nhà văn viết về nông thơn
đó, có một người tuy viết sau và viết ít, nhưng khi tác phẩm vừa ra đời thì đã cho mọi
người ưa thích và hoan nghênh. Đó chính là truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim
Lân. Với truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân đã viết rất chân thật và hết sức sắc sảo và để
lại ấn tượng sâu đậm trong lịng người đọc. Thơng thường một tác phẩm chỉ có thể
đứng vững khi nhà văn có nội dung mới, cách nói mới. Tác phẩm Vợ nhặt của Kim
Lân cũng vậy.
Trước hết, mới qua cái tựa đề Vợ Nhặt thôi mà nó cũng đã mang lớp ý nghĩa, nó gây
cho độc giả một sự chú ý hết sức đặc biệt trước khi thưởng thức tác phẩm. Bởi xưa

nay trên thế gian người ta nói là nhặt được cái này, cái nọ chớ có ai nói là nhặt được
vợ bao giờ. Vả lại, lấy vợ vốn là một trong ba việc khó nhất đời của người đàn ơng:
"tậu trâu, lấy vợ, làm nhà". Bởi vì việc dựng vợ, dựng chồng phần nhiều được tổ chức
thế này thế nọ, hết sức long trọng. Ấy vậy mà anh Tràng tự nhiên nhặt được cơ vợ thì
quả thật là việc bất ngờ, lý thú. Và với cái nội dung đó thì chỉ có cái nhan đề Vợ nhặt
mói nói đúng và sát với diễn biến câu chuyện mà thôi. Cũng với nhan đề độc đáo đó

Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
mà Kim Lân đã nói lên được thân phận con người lao động nơng dân trong những
năm bốn mươi lăm đói kém đến nỗi vợ mà người ta có thể nhặt được một cách dễ
dàng như nhặt một cọng rơm, cọng cỏ vậy.
Một điều quan trọng hơn góp phần tạo nên sự thành cơng của tác phẩm đó chính là
nghệ thuật dựng truyện. Đọc qua những trang truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân một
sự tưởng tượng hết sức phong phú cứ gợi và diễn ra trong tâm trí của chúng ta. Một
bức tranh nơng dân trong những năm bị cái đói hồnh hành của một phần tư đất nước,
cứ như rõ mồn một. Nhân dân lao động bị đói, tiều tuỵ đáng thương cứ hiện lên trước
mắt. Còn nỗi đau đớn nào hơn khi chứng kiến cái cảnh " Cái đói đã tràn về" trẻ con vì
đói khát mà "chúng ngồi ủ rũ khơng buồn nhúc nhích". Trẻ em vì thế, người lớn phải
trơi dạt nay đây mai đó. Một cọng rau cho đỡ đói cũng khơng, đâu tới hạt cơm hạt
thóc... bởi thế những góc tường, phố chợ người đói nằm "la liệt như ngã rạ" càng kinh
tởm và đớn đau khi có "cái mùi gây gây của xác người chết".
Kim Lân đã dân truyện dựng cảnh hiện thực một cách độc đáo như vậy nhưng về
phương diện khác cách xây dựng nhân vật và diễn biến tâm lí nhân vật lại càng độc
đáo hơn. Nhân vật Tràng hiện lên qua trang văn với đầy đủ những gì chân thật nhất
của người nơng dân - người nơng dân bị đói khát: "Chiếc áo vắt trên vai , dường như
mỏi mệt, vật vã của buổi chiều đè nặng trên cái lưng to của hắn". Ôi tiếng "hắn" cái
tiếng xưng gọi mà ta đã quen thuộc ở Chí Phèo của Nam Cao nay lại hiện lên trước

mắt: "Hắn ngồi khóc, khóc rồi chửi, hắn chửi ai? Hắn chửi đời, chửi trời, chửi cả làng
Vũ Đại, chửi cả những thằng cha mẹ nào đẻ ra hắn... ." Tiếng hắn vẻn vẹn vậy thôi,
ghê tởm ư? Thù ghét ư? Khinh bạc ư? Không ! Cả hai nhà văn Kim Lân và Nam Cao
đều gợi lên tiếng hắn với tất cả niềm đau xót, thương cảm ,trân trọng. Ai đã một lần
đọc Vợ nhặt,làm sao không xúc động và có thể quên được một nhân vật - bà cụ Tứ mẹ anh Tràng.
Không biết được chuyện con mình - Tràng - nhặt được vợ mang về tâm trạng của cụ
diễn biến thật phong phú, phức tạp. Trong những ngày tháng bị cái đói bất hạnh, bà
thấu hiểu. Bà rất ý thức về việc dựng vợ, dựng chồng cho con mình "phải làm thế này,
thế nọ". Nhưng trời ơi " cái khó bó cái khơn". Con người ta có thấu hiểu cái lo lắng
đến đâu thì cũng chỉ là con số không. Bởi vậy, cụ Tứ chỉ biết nghĩ "tủi thân, tủi phận"
mà thôi. Bà thương con mình rồi thương con dâu. Cun nhìn người đàn bà lịng đầy
thương xót. Hỡi ơi ! Có ai thấu hiểu cho cụ khơng ? Tình thương u, sự đồng cảm,
chịu đựng hồn cảnh khơng chỉ riêng ai - cái đói cái khát - đã khiến lịng cụ khơng
nghĩ gì khác, lời nói đầy xúc động của cụ "Chúng mày lấy nhau lúc này"... thương quá
! Sao nó mặn mà , sâu đậm đến vậy.Hồn cảnh đói khát đến chết người vậy mà nổi lên
cái nền ấy một khối đầm ấm yêu thương làm sao, có lẽ truyền thống ngàn đời của dân
tộc "Thương người như thể thương thân", "Lá lành đùm lá rách" được Kim Lân gửi
gắm qua những trang văn xúc động này.

Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
Việc Tràng đã có vợ vừa là niềm vui, vừa là nỗi lo của bà cụ Tứ. Có cha mẹ nào khơng
sung sướng, hạnh phúc khi con cái của mình đủ lơng đủ cánh trải qua thời niên thiếu
nay trưởng thành đã có vợ có chồng... . Cịn lo là lo vì hồn cảnh hiện tại từ trước đến
giờ chỉ có hai mẹ con, nạn đói hồnh hành vốn đã khó đủ ăn nay thêm một miệng ăn
lại càng khó khăn vất vả thêm. Tuy vậy, niềm vui vẫn là phần nhiều "khuôn mặt bủng
beo của bà rạng rỡ hẳn lên", "bà cụ nói tồn chuyện vui, chuyện tương lai sau này", bà
cố giấu nỗi lo để cho con dâu được vui vẻ. Tuy vậy bà vẫn "nghẹn" lời. Bà vẫn tin

tưởng ở con, ở tương lai rạng rỡ hơn. Một câu nói đầy tự tin của cụ "Tụi mày đang
bảo nhau mà làm ăn may ra trời cho khá hơn khơng... có ai giàu ba họ có ai khó ba đời
đâu". Quả là một sự tin tưởng hồn tồn khách quan, có căn cứ, khó khăn rồi nhất
định sung sướng, hạnh phúc. Nếu nói như Hồ Chí Minh trong Trời hửng thì cũng
chẳng khác nào: Hết mưa là hửng nắng lên thôi, hết khổ là vui vốn lẽ đời. Vì thực tế là
như vậy, hình ảnh lá cờ đỏ tung bay cùng với đám người cướp kho thóc ở cuối truyện
cũng hiện lên trong tâm trí Tràng đã mở ra một số phận nhân vật một khung trời mới
đi làm cách mạng với những thắng lợi vang dậy non sông như Cách mạng tháng Tám,
Điện Biên Phủ sau này.
Với cách dựng truyện độc đáo, xây dựng nhân vật với sự chuyển biến tâm lý, tinh tế
Kim Lân đã thành công đáng kể với truyện ngắn Vợ Nhặt. Có thể với nhân vật, tình
tiết câu chuyện đi qua số phận nhân vật là sự mở đầu cho ý thức đấu tranh, giác ngộ
cách mạng. Dù chỉ thơng qua một vài câu nói đến "lá cờ đỏ', "Việt Minh" nhưng Kim
Lân đã thành công được và khơng để cho số phận nhân vật mình tối tăm bế tắc như
chị Dậu - anh Pha như Chí Phèo, anh kép Tư Bền... trước đó.
Tóm lại , đồng cảm với Kim Lân, xót thương, cảm thơng cho những con người trong
Vợ nhặt, ta hãy hát cùng Tố Hữu ca khúc vốn là truyền thống của dân tộc Việt Nam
ngàn đời:
Có gì đen trên đời hơn thế
Giá trị hiện thực và nhân đạo trong Vợ nhặt - Mẫu 4
Vợ nhặt là một trong những truyện ngắn hay nhất của Kim Lân và văn học Việt Nam
sau năm 1945, truyện được in trong tập Con chó xấu xí năm 1962. Vốn xuất thân từ
làng quê Việt Nam nên Kim Lân đã viết nên Vợ nhặt bằng tất cả tâm hồn, tình cảm
của một con người là con đẻ của đồng ruộng. Truyện được xây dựng với nhiều tình
huống gây ấn tượng mạnh đối với người đọc. Song nổi bật trong tác phẩm là giá trị
hiện thực và nhân đạo.
Truyện đã phản ánh được những mặt cơ bản của hiện thực xã hội Việt Nam những
ngày trước Cách mạng tháng Tám 1945. Chỉ thơng qua tình huống “Nhặt được vợ của
Tràng”, truyện đã tái hiện được bức tranh về nạn đói thê thảm của người dân Việt
Tổng hợp: Download.vn



Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
Nam “từ Quảng Trị đến Bắc kỳ hai triệu người bị đói”. Ở đây mở đầu truyện là cảnh
“cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ vùng Nam Định, Thái
Bình đội nón lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm
ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong
làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm chỏng queo bên đường.
Khơng khí vẩn lên một mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người… Dưới
gốc đa… những người đói dật dờ lặng lẽ đi như những bóng ma. Tiếng quạ… cứ gào
lên từng hồi thê thiết”.
Qua đây, người đọc cũng có thể hình dung được bộ mặt thật của bọn phát xít, thực dân
và tay sai của chúng. Điều này được gói gọn trong một câu nói đầy phẫn uất của bà
mẹ già “Tiếng thúc thuế đấy. Đằng thì nó bắt giồng đay, bằng thì nó bắt đóng thuế.
Giời đất này khơng chắc gì đã sống qua được đâu các con ạ!…”.
Tác phẩm còn phản ánh được một hiện thực cơ bản khác. Đó là tấm lòng người dân
hướng về cách mạng và sự vận động của cuộc sống hướng về tương lai. Giữa những
tiếng trống thúc thuế dồn sưu dồn dập là hình ảnh “những người nghèo đói ầm ầm kéo
nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm” vụt hiện lên trong ỷ nghĩ của
Tràng. Nó báo hiệu một bình minh mới của cách mạng sẽ đến.
Bên cạnh nội dung hiện thực rộng lớn là giá trị nhân đạo sâu sắc. Qua tình huống
truyện độc đáo, qua tâm lý và số phận nhân vật, tác phẩm không cần đao to búa lớn
vẫn tố cáo được một cách sâu sắc tội ác tày trời của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã
gây nên nạn đói thảm khốc khiến hai triệu người phải chết đói. Bóng đen tử thần bao
trùm lên tất cả, đè nặng lên số phận mỗi người dân và mọi xóm làng. Trong bối cảnh
bi thảm ấy, giá trị con người quá rẻ mạt. Nếu như trong truyện thơ Tiễn dặn người
yêu, cô gái Thái bị ép duyên, đã đau khổ thở than: “Ngẫm thân em chỉ bằng thân con
bọ ngựa” thì ở đây người đàn bà mà Tràng “nhặt được” chỉ bằng mấy bát bánh đúc,
một bữa cơm no và hai hào dầu. Nạn đói đã đẩy con người đến chỗ xem miếng ăn là
tất cả. Ngay cả đến cái chuyện tỏ tình thường vẫn mang màu sắc tình tứ, e lệ, duyên

dáng, thì giờ đây cũng chỉ còn trơ trọi là một câu chuyện lăn xả vào miếng ăn. Vì đói
khát cùng đường mà khơng cịn giữ được sự e thẹn thông thường của người phụ nữ
Việt Nam. Chỉ mấy bát bánh đúc và một lời nói “tầm phào” của gã đàn ơng xa lạ, mà
người đàn bà kia đã “ton ton” chạy theo để trở thành vợ nhặt của Tràng. Ý nghĩa nhân
đạo không chỉ được tốt ra từ sự cảm thơng cho thân phận khổ đau của người dân
nước Việt mà cịn được tốt ra từ sự tố cáo ấy.
Truyện Vợ nhặt còn cho ta thấy rằng người dân lao động vốn có bản chất lành mạnh,
luôn luôn hướng về ánh sáng với một niềm tin bất diệt. Dù hồn cảnh có hiểm nghèo
bi thảm tuyệt vọng đến đâu, dù có kề bên cái chết, vẫn khát khao hạnh phúc, tổ ấm gia
đình, vẫn hướng về sự sống và hy vọng ở tương lai tươi sáng. Đúng như tác giả đã có
lần phát biểu: “Trong sự túng đói quay quắt, trong bất cứ hồn cảnh khốn khổ nào,
Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
người nông dân ngụ cư vẫn khao khát vươn lên trên cái chết, cái ảm đạm mà vui mà
hy vọng”…”Những người đói họ không nghĩ đến cái chết, mà nghĩ đến cái sống”. Vợ
chồng Tràng vẫn lấy nhau giữa cảnh ngổn ngang xác người chết đói là vì vậy. Chút
hạnh phúc nhỏ nhoi, mong manh của hai người tuy bị bủa vây, bởi cái đói, cái chết
nhưng “sự sống chẳng bao giờ chán nản”, vẫn là bất diệt, vần sinh sôi nảy nở từ bãi
tha ma sặc mùi tử khí. Hạnh phúc tình u vẫn như làn gió xn thổi về làm xơn xao
sự sống. Trong một lúc Tràng dường như quên hết những cảnh ê chề tăm tối trước
mắt, những tháng ngày đầy đe doạ phía trước. Lúc này trong lịng hắn chỉ cịn tình
nghĩa với người đàn bà. Một cái gì lạ lắm… nó ơm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng.
Sáng dậy thấy nhà cửa đổi khác, hắn cảm thấy lâng lâng và thấy từ đây phải có trách
nhiệm hơn với người thân và chính cuộc đời mình, Ở bà cụ Tứ càng có những biểu
hiện cảm động hơn. Niềm vui vì có con dâu, vì hạnh phúc của con và niềm tin ở cuộc
sống đã làm cho người mẹ nhanh nhảu hơn “Cái khuôn mặt u ám, bủng beo của bà
bỗng rạng rỡ hẳn lên”.
Qua truyện Vợ nhặt, Kim Lân còn cho ta thấy trong hoạn nạn, con người lao động,

càng yêu thương nhau hơn và dù trong cảnh khó khăn, khốn cùng, họ vẫn giữ được
phẩm chất đẹp đẽ “đói cho sạch, rách cho thơm”. Cuộc sống khắc nghiệt đọa đầy con
người, bắt họ phải sống cuộc sống của lồi vật, nhưng nó khơng thể dập tắt được phần
người, rất người trong lòng bà mẹ khốn khổ kia. Ba mẹ con Tràng đã tìm thấy niềm
vui trong sự nương tựa, cưu mang nhau mà sống. Tình vợ chồng, mẹ con sẽ là động
lực giúp họ sức mạnh vượt qua cơn hoạn nạn khủng khiếp này.
Như vậy “những con người đã vượt qua mặc cảm đói nghèo, tủi hờn để khẳng định sự
sống, chắc chắn sẽ đi theo tiếng gọi của Việt Minh để giành sự sống cho mình trong
cách mạng. Vì “Đảng ta… hồn người”. Chọn tình huống vợ nhặt do nạn đói rùng rợn
gây nên, Kim Lân “khơng nhằm miêu tả sự mất giá, tha hố con người, ngược lại đã
khẳng định khát vọng sống còn và phẩm giá của họ. Tình yêu cuộc sống của những
con người nằm bên bờ cái chết đã trở thành nguồn sáng, nguồn ấm áp sưởi ấm lịng
người, thơi thúc họ đi tự cứu lấy đời mình”. Và cách mạng, Đảng đã dang đôi tay nhân
hậu cứu vớt họ thật đúng lúc:
Kiếp người cơm vãi cơm rơi
Biết đâu nào đất phương trời mà đi
Lần đếm bước đến khi hửng sáng
Mặt trời kia cờ Đảng giương cao
(Tố Hữu)

Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
Giá trị hiện thực và nhân đạo trong Vợ nhặt - Mẫu 5
Vợ nhặt được rút ra từ tập Con chó xấu xí, xuất bản năm 1945. Đây là tác phẩm xuất
sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác của ông, đồng thời cũng là một những tác phẩm tiêu
biểu viết về đề tài người nông dân và thể hiện đầy đủ quan điểm sáng tác của tác giả.
Tác phẩm thấm đẫm giá trị hiện thực và nhân đạo.
Trước hết giá trị hiện thực của tác phẩm được thể hiện trong việc Kim Lân đã tái hiện

thành cơng nạn đói khủng khiếp năm 1945. Nạn đói năm 1945 phần lớn người dân đã
bị đẩy tới cái chết. Kim Lân đã tập trung tất cả bút lực của mình để tạo dựng bối cảnh,
khơng khí nạn đói ấy. Trong văn ơng cái đói, cái chết đã hiện hình, nổi cộm sắc nét tạo
nên những ám ảnh ghê rợn. Ấn tượng về cái đói cái chết đã được Kim Lân tạo dựng từ
nhiều yếu tố, nhưng ấn tượng nhất là thị giác, khứu giác và thính giác. Ở thị giác, ơng
đã hai lần sử dụng hình ảnh đầy sức ám ảnh: bên cạnh những người chết như ngả rạ, là
những người còn sống vật vờ như những bóng ma. Ở đây cái đói đã trở thành nỗi ám
ảnh thường trực, giữa sự sống và cái chết là ranh giới vơ cùng mong manh. Nạn đói đã
vắt kiệt toàn bộ sự sống của con người để hiện hình thành những bóng ma dật dờ. Ở
khứu giác, cái đói cái chết trong văn Kim Lân khơng chỉ nhìn thấy mà cịn có thể ngửi
thấy đó là mùi gây của xác người và mùi khét lẹt của các nhà đốt đống rấm. Cịn thính
giác cũng là những ấn tượng ghê rợn. Âm thanh của những đàn quạ liên thanh cất lên,
là tiếng hờn khóc tỉ tê của những gia đình có người chết.
Khơng chỉ dừng lại ở đó, giá trị hiện thực còn được thể hiện trong thân phận rẻ rúng
của những người nông dân nghèo. Người đàn bà chết đói, người gầy sọp đi, hai mắt
trũng sâu vào, vì cái đói, vì miếng ăn đã đồng ý lấy Tràng một cách nhanh chóng.
Chính cái đói đã khiến người đàn bà ấy mất đi danh dự, sự e thẹn vốn có của một
người con gái, mà trở thành một kẻ chỏng lỏn, vì miếng ăn sẵn sàng đánh mất lịng tự
trọng của mình. Chỉ với vài bát bánh đúc và một lời nói vu vơ, thị đã chạy đến híp mắt
cười tình, đánh mất đi sự e lệ, kín đáo và chấp nhận về làm vợ của Tràng khi khơng hề
biết đến tính cách, con người của Tràng ra sao. Trong hồn cảnh bị cái đói, cái chết
dồn đuổi, thị sẵn sàng bám víu vào bất cứ thứ gì đảm bảo sự sống cho thị. Những chi
tiết mà Kim Lân miêu tả đã cho thấy, người vợ nhặt là một người nông dân khốn khổ,
bị đẩy đến bước đường cùng nên nhân cách và lòng tự trọng đã bị tha hóa.
Đám cưới với mỗi người là một nghi thức quan trọng nhất trong cuộc đời, nhưng đám
cưới của Tràng và người vợ nhặt lại diễn ra hết sức sơ sài, sơ sài đến mức đáng
thương. Bữa cơm đầu tiên của nàng dâu mới là nồi cháo cám đắng ngắt mà mọi người
ngồi ăn khơng ai nói với nhau một câu.
Nhưng bên cạnh những mảng màu xám ngắt của hiện thực, ta còn thấy tác phẩm ánh
lên giá trị nhân đạo sâu sắc. Trong tăm tối, khi cái đói đeo đuổi tất cả mọi người,

tưởng chừng như người ta chỉ quan tâm đến sự sống chết của mình, thì người nông
Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
dân Việt Nam vẫn sẵn sàng dang tay cứu vớt những con người có số phận bất hạnh
hơn mình. Nó thể hiện rất rõ truyền thống yêu thương đùm bọc “lá lành đùm lá rách”
của nhân dân ta.
Tấm lòng nhân đạo của nhà văn trước hết thể hiện trong sự bao dung, tình yêu thương
mẹ con Tràng dành cho người vợ nhặt. Tràng mặc dù có ngoại hình xấu xí nhưng lại
có tấm lòng nhân hậu, yêu thương con người. Dù chỉ làm cơng việc tạm thời, khơng
có ruộng đất nhưng Tràng sẵn sàng mua đồ ăn cho người đàn bà không quen biết.
Tràng thương cảm cho người đàn bà khi nhìn thấy hình dáng tiều tụy hẳn đi của thị.
Và nhất là Tràng còn đồng ý đem người đàn bà ấy về nhà làm vợ của mình, dù trong
Tràng lúc ấy cũng thống chút lo âu. Việc lấy vợ của Tràng khơng phải là một chuyện
ngẫu nhiên mà đó là cả một mạch vận động hợp lý. Lần đầu gặp gỡ, Tràng lần đầu tiên
nhận được sự quan tâm, đó là cái híp mắt cười tình của một người con gái. Đến lần
thứ hai, Tràng xót xa khi người đàn bà phốp pháp lần trước đã biến mất, thay vào đó là
một kẻ quần áo rách như tổ đả, gầy hẳn đi. Sự thay đổi bất ngờ nhanh chóng ấy đã dấy
lên trong Tràng lòng thương cảm, với bản chất lương thiện và sự đồng cảm của những
người đồng cảnh ngộ, Tràng đã nhanh chóng quyết định đưa người phụ nữ đó về nhà
để làm vợ của mình. Quyết định nhanh chóng, bất ngờ đó vừa thể hiện khát khao hạnh
phúc của Tràng, vừa là sự cưu mang, nghĩa cử cao đẹp mà Tràng dành cho người phụ
nữ khốn khổ, bất hạnh hơn mình.
Lấy vợ là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời Tràng, bằng những cử chỉ hết sức đơn
giản, nhưng cũng đủ cho thấy sự trân trọng của Tràng với người vợ nhặt. Anh cho chị
ăn một bữa thật no, mua một cái thúng con và mua ít dầu về đốt cho sáng. Hành động
mua hai hào dầu đó cịn như thắp lên một tương lai, hi vọng mới cho hai vợ chồng.
Đặc biệt, sáng hôm sau khi lấy vợ, Tràng đã có những sự thay đổi hồn tồn. Tràng
thấy trong người lửng lơ, một niềm vui khó tả, khi lần đầu tiên được sống và cảm

nhận niềm hạnh phúc gia đình. Và niềm hạnh phúc đó đã dẫn đến những biến chuyển
trong nhận thức của Tràng, Tràng dấy lên tinh thần trách nhiệm với gia đình. Ý thức
được vai trị trụ cột của mình, cùng tham gia với vợ và mẹ để xây dựng cuộc sống
mới.
Còn với bà mẹ của Tràng, có con dâu trong hồn cảnh éo le này làm bà vô cùng ngỡ
ngàng, nhưng sau giây phút bất ngờ, bà đã hiểu ra mọi chuyện. Bằng tình yêu thương
với người con trai, sự cảm thông với người vợ nhặt bất hạnh, bà hiểu rằng người ta chỉ
dựng vợ gả chồng khi ăn nên làm ra, chứ không ai lấy vợ trong cái đói. Nhưng cùng
với tình u thương con bà cịn tự trách mình, thân phận làm mẹ nhưng lại không lo
nổi hạnh phúc cho con. Thương con, lo lắng cho con bao nhiêu bà lại càng ngậm ngùi,
xót xa cho thân phận người đàn bà kia bấy nhiêu. Bà khơng nhìn người con dâu mới
bằng ánh mắt cay nghiệt, phán xét mà là cái nhìn đầy cảm thơng, bao dung: “Người ta
có gặp bước khó khăn, đói khổ, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có

Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
được vợ”. Như vậy, bà cụ khơng chỉ là hiện thân của tình mẫu tử cao cả thiêng liêng
mà còn là hiện thân của tình người ấm áp, bao dung, bà đã đưa bàn tay yêu thương để
nâng đỡ bao bọc cho những thân phận khốn khổ dù cuộc sống của mình cịn mn vàn
khó khăn.
Khơng dừng lại ở đó, giá trị nhân đạo của tác phẩm cịn được nhìn nhận từ góc của
người vợ nhặt. Người phụ nữ này bị cái đói dồn đuổi đến bước đường cùng, nhưng
với lòng ham sống, cơ đã cố bám víu đến cùng, cho dù phải biến thành thân phận vợ
nhặt. Khát khao được sống đó cho thấy một trái tim khỏe mạnh, một nghị lực sống
kiên cường và bền bỉ ở người phụ nữ này. Như vậy, qua ba nhân vật Tràng, bà mẹ và
cô vợ nhặt Kim Lân đã một lần nữa khẳng định lối sống nhân ái, giàu tình cảm và
lịng vị tha của nhân dân ta. Khơng chỉ vậy, trong họ cịn tồn tại sức sống mãnh liệt,
sẵn sàng vượt qua mọi đói khổ, khó khăn.

Cuối cùng giá trị nhân đạo của tác phẩm thể hiện ở cuối bài với hình ảnh lá cờ đỏ
phấp phới trong sự tiếc rẻ của nhân vật Tràng. Chắc chắn với tinh thần lành mạnh,
lòng yêu cuộc sống Tràng và vợ sẽ tham gia hoạt động cách mạng. Hình ảnh lá cờ đó
như một gợi mở về tươi lai tương sáng đang đón đợi họ ở phía trước.
Bằng nghệ thuật miêu tả bậc thầy, Kim Lân đã vẽ ra bức tranh hiện thực tàn khốc về
nạn đói năm 1945, khi mạng người bị rẻ rúng đến cùng cực. Nhưng đằng sau bức
tranh hiện thực đen tối ấy là ánh sáng của lịng nhân đạo, tình u thương, sự bao bọc,
chở chở lẫn nhau giữa những con người khốn khổ. Sự hòa quyện giữa hai giá trị hiện
thực và nhân đạo đã tạo nên sự thành công cho tác phẩm.
Giá trị hiện thực và nhân đạo trong Vợ nhặt - Mẫu 6
Trong những tác phẩm văn học Việt Nam, ngoài những nội dung sâu sắc mà tác giả
gửi gắm qua thì những tác phẩm đó cịn thể hiện những giá trị hiện thực và những tâm
tư của tác giả. Và trong tác phẩm “Vợ nhặt’’ cũng vậy, ngồi việc tái hiện lại bức tranh
ngày đói mà con người hiện lên thê thảm thì Kim Lân cịn thổi vào trong bức tranh đó
nhiều giá trị hiện thực và nhân đạo.
Trước hết, truyện ngắn “Vợ nhặt” mang giá trị hiện thực sâu sắc. Tác phẩm đã phản
ánh chân thực nạn đói 1945 khủng khiếp. Đó là một trong những thời kỳ đen tối nhất
của nước ta. Cảnh tang thương ảm đạm của nạn đói được Kim Lân diễn tả cụ thể và
sinh động. “Những gia đình từ những vùng Nam Định…người chết như ngả rạ”. Chỉ
với những câu văn ngắn ngủi mà Kim Lân cho thấy được ranh giới của sự sống và cái
chết rất mong manh. Người sống thì thoi thóp, người chết thì như ngả rạ. Bức tranh
ngày đói hiện lên như găm sâu vào từng khúc thịt của người đọc bởi quá thê thảm và
khủng khiếp. Kim Lân khơng né tránh sự thật mà ơng nhìn vào thẳng vấn đề để diễn tả
những tang thương này.
Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
Đồng thời, truyện ngắn “Vợ nhặt” cho chúng ta thấy được thân phận rẻ rúng của con
người cùng với sự thê lương của số phận người nơng dân trong hồn cảnh bấy giờ.

Điều này được thể hiện rõ nhất qua nhân vật người vợ nhặt. Cái đói cái nghèo đã đùn
đẩy tới mức chỉ sau hai lần gặp Thị theo Tràng về làm vợ với mâm cỗ ra mắt là 4 bát
bánh đúc và một câu bơng đùa. Chỉ vì miếng ăn, cái đói cái nghèo mà đưa đẩy số phận
của một con người. Để rồi Tràng lấy vợ mà Kim Lân gọi là “nhặt vợ” như nhặt những
đồ vật chẳng có chút giá trị nào trên đường.
Bên cạnh những giá trị hiện thực sâu sắc nhà văn Kim Lân còn gửi vào những trang
văn của mình tấm lịng nhân đạo thiết tha. Mỗi câu chữ của nhà văn thể hiện đều thấm
đượm lòng thương cảm của nhà văn đối với số phận bi thảm của con người. Mỗi một
nhân vật mà tác giả xây dựng đều cho thấy được niềm xót thương, cảm thơng với cuộc
đời con người trong nạn đói ấy. Có nhiều lúc người đọc có thể cảm nhận được như tác
giả nhập thân và chính nhân vật để chia sẻ và cảm thơng với cuộc sống của họ. Có
những câu văn khi đọc lên còn thấy tác giả dường như rưng rưng xúc động. Chẳng
hạn khi miêu tả tâm trạng của các thành viên trong bữa cơm ngày đói, Kim Lân miêu
tả: “Một nỗi tủi hờn len vào tâm trí của mỗi người”.
Bên cạnh đó, nhà văn cịn phát hiện, trân trọng và ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn của con
người trong nạn đói năm 45 ấy. Mặc dù cái đói, cái nghèo truy đuổi ráo riết như vậy
nhưng ở họ vẫn sáng lên tư chất của những con người có vẻ đẹp tâm hồn. Ở bà cụ Tứ
là lòng yêu thương con sâu sắc, lòng nhân ái và đức hi sinh cao cả. Ở nhân vật Tràng
để lại cho người đọc bởi vẻ chất phác, hiền lành, thật thà. Còn ở người phụ nữ làm “vợ
nhặt” kia lại là sự đảm đang, biết điều và hiền hậu. Đặc biệt người làng xóm ngụ cư
hiện lên là những người đầy tình nghĩa làng xóm, họ quan tâm và động viên Tràng. Để
có thể thấy rằng, bức tranh tối mịt ngày đói ấy vẫn le lói thứ ánh sáng của tình người.
Chấp nhận trong hồn cảnh “một sống hai chết” ấy nhưng con người vẫn không đầu
hàng số phận.
Kim Lân còn nâng niu và trân trọng khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của người
nông dân. Ham sống là khát vọng mang tính nhân bản của con người. Kim Lân đã
phát hiện và khẳng định điều đó ở nhân vật Thị. Thị cố gắng chạy thoát sự rượt đuổi
của tử thần. Việc Thị theo Tràng về làm vợ trong hoàn cảnh ấy quả thực khơng đáng
khinh mà nó là khát vọng sống chính đáng của con người. Đồng thời, qua tác phẩm,
nhà văn còn lên án mạnh mẽ đối với bọn thực dân, phát xít. Chính thực dân Pháp và

phát xít Nhật đã đẩy nhân dân lao động ta vào cảnh khốn cùng.
Giá trị hiện thực và nhân đạo trong Vợ nhặt - Mẫu 7
Vợ nhặt có tiền thân là truyện dài Xóm ngụ cư được tác giả hồn thành khá lâu sau
Cách mạng tháng Tám theo đơn đặt hàng của tờ báo Văn. Vợ nhặt là một trong những

Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
tác phẩm đặc sắc của Kim Lân viết về nông thôn và người dân nông thôn trước Cách
mạng tháng Tám năm 1945. Một trong những giá trị cơ bản làm nên sự thành cơng
của tác phẩm kể đến chính là giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
Tác phẩm lấy bối cảnh của truyện là khung cảnh nông thôn Việt Nam trong cái năm
mà những người lớn tuổi vẫn quen gọi là năm đói – đó là nạn đói khủng khiếp năm
1945 – khiến cho hơn hai triệu đồng bào ta từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ chết đói. Có thể
nói, đến bây giờ nhắc lại chúng ta cũng không khỏi cảm thấy rùng mình.
Truyện bắt đầu bằng khung cảnh “tối sầm lại vì đói khát (…) khơng khí vẩn mùi ẩm
thối của rác rưởi và mùi gây của xác người” ở cái xóm ngụ cư khi cái đói bắt đầu tràn
đến: những đứa trẻ con nhà nghèo “ngồi ủ rũ dưới những xó tường khơng buồn nhúc
nhích”, những người sống thì “xanh xám” dật dờ lặng lẽ đi lại như những bóng ma
dưới những gốc gạo, cịn người chết thì vô số “Không buổi sáng nào người đi chợ, đi
làm đồng mà không gặp ba bốn cái thây nằm cong queo bên đường”, những ngơi nhà
thì “úp súp, tối om, khơng nhà nào có ánh đèn lửa”.
Một cảnh tượng thật thê lương, ảm đạm, tối tăm, ngột ngạt. Đặc sắc nghệ thuật của
nhà văn ở đây là khơng hề có một dòng nào tố cáo trực tiếp tội ác của bọn thực dân,
phát xít (chúng bắt dân ta nhổ lúa trồng đay) nhưng những tội ác dã man của bọn
chúng vẫn hiện lên trong từng trang viết.
Trong hồn cảnh đó cuộc sống của người dân lao động luôn luôn bị cái chết rình rập,
đe dọa và có lẽ khó có ai có thể thốt ra khỏi cái chết. Tính mạng của họ lúc này thật
vô cùng rẻ rúng, người ta có thể “nhặt” được vợ như nhặt được một thứ gì đó ở ngồi

đường, người ta có thể bỏ qua cả nhân phẩm để mà có được cái ăn.
Qua tình huống anh cu Tràng “nhặt” được vợ, Kim Lân đã phản ánh một cách rõ nét
thực trạng xã hội nước ta những năm trước Cách mạng tháng Tám 1945, đồng thời
cũng phản ánh một cách chân thực thân phận của người dân lao động xã hội cũ. Tràng
chỉ cần hai bận tầm phơ tầm phào và bốn bát bánh đúc cùng với một bữa cơm no nê
ngồi chợ mà có được vợ. Cịn “thị” vì cái đói, vì miếng ăn mà “thị” trở nên cong cớn
và sẵn sàng đánh đổi cả nhân phẩm của mình để được ăn và chấp nhận theo Tràng về
nhà cũng chỉ vì miếng ăn mà thơi.
Đáng chú ý là hình ảnh bữa cơm trong buổi sáng đầu tiên tại nhà Tràng, bữa cơm ra
mắt của nàng dâu mới “giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối và một đĩa
muối ăn với cháo” mà mỗi người chỉ được có hai lưng lưng đã hết và “món tráng
miệng” là một nồi “chè khốn” (cháo cám) với vị đắng chát trong cổ.
Đó là sự đồng cảm, thương xót của nhà văn trước cuộc sống tăm tối của người dân lao
động trong nạn đói, thơng qua đó nói lên tiếng nói tố cáo tội ác dã man của bọn thực

Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
dân phát xít đối với nhân dân ta.
Vợ nhặt thể hiện ra bản chất tốt đẹp của người dân lao động trong sự đói túng quay
quắt, trong bất cứ hồn cảnh khốn khổ nào, “người nông dân ngụ cư vẫn khao khát
vươn lên trên cái chết, cái thảm đạm, mà để vui, mà hy vọng”.
Vợ nhặt cho dù được hoàn toàn thành khá lâu sau năm đói nhưng cảm quan về cái đói
thì vẫn thấm đẫm trong từng trang viết. Thông qua tác phẩm, nhà văn đã thể hiện sự
đồng cảm sâu sắc của mình đối với cuộc sống của những người dân lao động nghèo
khổ trong nạn đói khủng khiếp trên đất nước ta năm 1945. Vợ nhặt vì thế cịn là tác
phẩm mang giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo rất sâu sắc.
Giá trị hiện thực và nhân đạo trong Vợ nhặt - Mẫu 8
Người ta thường nói nghèo thường đi đôi với hèn. Nhưng khi đến với truyện ngắn “vợ

nhặt” của nhà văn Kim Lân, ta sẽ hiểu vẫn có những con người đã sống rất thanh cao,
rất lương thiện trong cái đói khủng khiếp với cái nghèo bần cùng. Khơng những thế,
tác phẩm cịn ẩn chứa giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo vô cùng sâu sắc mà Kim
Lân đã gửi gắm vào đó. Bản thân ông cũng là một người được sinh ra và lớn lên trong
cảnh nghèo khổ, nên hơn ai hết, ông hiểu rất rõ sự kham khổ của mọi người. Vì thế,
trong những trang văn của ơng vẫn thường thấp thống bóng dáng của những người
nơng dân tuy sống khắc khổ nhưng tấm lòng trong sạch.
Trong tác phẩm “Vợ nhặt” cũng vậy, Kim Lân cũng viết về cuộc sống cùng cực của
vùng quê nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Khi đó, người sống và người
chết xuất hiện lẫn lộn nhau. Người chết như ngả rạ, còn người sống dật dờ lang thang
như những hồn ma. Kim Lân miêu tả rất chi tiết: những cái thây nằm còng queo bên
đường, khơng khí vẩn mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người, xóm chợ về
chiều xơ xác hắt hiu, hai bên dãy phố úp sụp tối om khơng nhà nào có ánh đèn ánh
lửa. tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết… Cảnh đói
được nhà văn miêu tả lại quá thê lương và xót xa. Chỉ qua một vài hình ảnh, người
đọc cũng có thể hình dung ra ngay trước mắt mình cảnh những người chết đói nằm rải
rác ngồi đường ngồi chợ, người ta khơng cả nghĩ đến chuyện chơn cất, ma chay.
Cái đói cịn làm cho người ta không dám nghĩ đến chuyện dựng vợ, gả chồng. Khiến
cho Tràng – một người cùng khổ trong nạn đói ấy phải “nhặt” vợ. Trong bữa cơm
ngày đầu của gia đình mới lẽ ra là một mâm cơm dù khơng thịnh soạn thì chí ít cũng
có đầy đủ chút cơm rau dưa muối. Nhưng không, không cơm, không rau, cũng chẳng
dưa cà dưa muối. Bữa cơm ngày đói chỉ có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa
muối ăn với cháo. Mỗi người chỉ ăn được hai lưng bát là hết sạch. Mẹ Tràng phải
mang cháo cám ra cho cả nhà ăn. Nồi cháo cám đắng xít nhưng lại trở thành một thứ
đồ ăn hiếm có.
Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
Chính bọn thực dân phong kiến đã nhẫn tâm bắt người dân phải nhổ lúa trồng đay.

Đay nào có thể ăn được. Rồi các loại sưu cao thuế nặng càng làm cho người dân khổ
cực. Ăn cịn khơng có miếng mà ăn thì lấy đâu ra tiền ra thóc mà đóng thuế. Bọn
chúng đúng là muốn dồn người ta vào bước đường cùng, vào chỗ chết.
Tất cả những điều trên đã làm nên giá trị hiện thực sâu sắc cho tác phẩm. Thế nhưng,
giữa cảnh đời thê lương ấy, tình người và niềm ước mong hạnh phúc vẫn ln rực
sáng trong lịng mỗi người. Đây chính là giá trị nhân đạo rất lớn mà tác phẩm đã mang
lại cho người đọc. Giữa những cái xác ven đường, giữa những người đói dật dờ như
những bóng ma, Tràng và thị lại dắt díu nhau về. Có lẽ sự kiện này có điều gì đó rất
nghịch lý. Ngay chính bản thân Tràng cũng chợn nghĩ ở cái thời buổi này đến bản thân
mình cịn khơng biết có lo nổi khơng mà cịn đèo bịng. Nhưng rồi, Tràng vẫn bước
qua mọi lo lắng, thậm chí là sự sợ hãi, Tràng chậc kệ một cái và cùng thị bước tiếp
trong sự ngỡ ngàng của mọi người.
Cuộc “nhặt” vợ chóng vánh đầy hài hước và rất ngẫu nhiên của Tràng tưởng như một
chuyện đùa nhưng lại chính là điểm mấu chốt thể hiện niềm tin yêu vào cuộc sống, tin
rằng ngày mai cuộc đời sẽ tươi sáng hơn, bớt khổ hơn. Hơn thế nữa, sự kiện này còn
thể hiện tình thương yêu, niềm đồng cảm lớn lao giữa những con người cùng khổ.
Đúng như câu tục ngữ lá lành đùm lá rách, lá rách ít đùm lá rách nhiều. Chỉ có điều
trong cái xã hội này, có lẽ ai cũng rách như ai. Hai con người cùng chung một số phận
nghèo nàn đói khổ, dắt nhau về dù chưa hề có dự tính gì cho tương lai. Trước mắt họ
vẫn chỉ là những xác chết ngổn ngang, những bóng người đói dật dờ. Họ thật can đảm,
hay nói một cách khác là quá liều lĩnh. Bởi trong lúc đói khổ như thế này, có được
miếng ăn đã là một việc lớn lao lắm rồi. Vậy mà họ còn lấy vợ, lấy chồng – một việc
quá lớn lao, quá sức tưởng tượng của mọi người. Nhưng dù sao, điều này cũng khiến
cho những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Có cái gì đó lạ
lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ.
Cảnh “nhặt” vợ tuy đầy bi hài nhưng lại chính là niềm khát khao hạnh phúc của những
con người đang trong tình trạng ngàn cân treo sợi tóc. Sự sống của họ có thể bị cơn
đói nhấn chìm bất cứ lúc nào. Nhưng có lẽ, càng cận kề cái chết bao nhiêu thì niềm
ham sống lại càng cao bấy nhiêu. Tràng và thị đã cùng nhau đi qua cơn đói, cùng bước
qua những xác chết ngổn ngang. Vì niềm hạnh phúc, niềm hy vọng đang tràn ngập

trong họ. Đến ngay cả bà cụ Tứ – mẹ Tràng là người đã trải qua bao nhiêu thăng trầm
trong cuộc sống, bà hiểu hơn ai hết những khó khăn phía trước của đơi vợ chồng trẻ,
nhưng bà vẫn mừng lịng. Hơn nữa, chính bà là người khơi dậy thêm nhiều niềm tin
cho con mình ngay trong những ngày đầu tiên có vợ. Nhất là bữa cơm đầu tiên với
nàng dâu. Dù chẳng có gì cao sang ngồi rau chuối và cháo nhưng họ đã cùng nhau ăn
với tất cả niềm đồng cảm và lòng yêu thương của mình dành cho nhau. Bà nói đến
những chuyện vui: khi nào có tiền ta mua lấy đơi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp kia

Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
làm chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho
mà xem. Một niềm ước muốn thật giản dị, thật đơn sơ nhưng đã có sức thúc đẩy niềm
hy vọng trong Tràng và vợ Tràng rất lớn. Chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại đầm
ấm, hòa hợp như thế. Cháo hết, bà lão nghĩ ngay đến nồi cháo cám. Bà thừa hiểu cháo
cám đắng xít, rất khó ăn. Nhưng giữa lúc vui như thế này, bà đã hào hứng dỗ dành con
ăn cháo cám như một người mẹ dỗ dành cho con nít ăn một thứ gì đó ngon lắm. Bà hồ
hởi: Tao có cái này hay lắm cơ. Bà bưng nồi cháo cám lên, rồi vẫn với giọng vui tươi
ấy: Chè đây. Chè khoán đây, ngon đáo để cơ. Những phút giây vui vẻ dẫu chẳng bao
nhiêu nhưng vẫn là niềm hi vọng lớn lao của cả gia đình. Mỗi người đều tự nghĩ rằng
mình phải có trách nhiệm với căn nhà này.
Nếu như ở ngoài đường, ngoài chợ, người ta đang nằm la liệt, kiệt sức vì sắp chết đói
thì ở đây, trong căn nhà nhỏ bé xơ xác này dẫu cũng đói, cũng thiếu thốn nhưng có
một niềm tin đang được nhóm lên. Họ tin rằng, ngày mai sẽ tươi sáng hơn, nạn đói sẽ
sớm được đẩy lùi. Nhất là khi hình ảnh lá cờ đỏ bay phấp phới, cơng cuộc phá kho
thóc của Nhật nổ ra. Người nơng dân sau bao cam chịu ắt sẽ đứng lên giành lấy độc
lập tự do cho chính mình. Họ sẽ khơng cịn phải đói phải khổ như bây giờ nữa.
Người dân càng khổ cực bao nhiêu thì lịng căm phẫn của họ dành cho bọn đế quốc
càng sâu sắc bấy nhiêu. Trước sau gì bọn chúng cũng sẽ phải trả giá. Đó là một quy

luật tất yếu: có áp bức ắt có đấu tranh. Và đấu tranh vì chính nghĩa vẫn ln luôn
giành thắng lợi.
Như vậy, với giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc, tác phẩm đã gieo vào lịng
những đọc sự xót xa, đồng cảm cho những kiếp nghèo cùng cực. Đồng thời cổ vũ họ
hãy đoàn kết lại rồi tự đứng lên giải phóng cho cuộc đời mình. Kim Lân đã rất thành
cơng khi xây dựng nên câu truyện hấp dẫn này. Cho đến nay, tác phẩm vẫn còn
nguyên giá trị.
Giá trị hiện thực và nhân đạo trong Vợ nhặt - Mẫu 9
Vợ nhặt là một trong những truyện ngắn đặc sắc của nhà văn Kim Lân , in trong tập
Con chó xấu xí. Vợ nhặt có tiền thân là truyện Xóm ngụ cư viết ngay sau Cách mạng
tháng Tám. Bản thảo chưa in thì bị thất lạc, sau này được tác giả viết lại.
Bối cảnh của truyện ngắn Vợ nhặt là khung cảnh nông thôn Việt Nam vào một thời kì
ngột ngạt và đen tối nhất- đó là nạn đói năm Ất Dậu 1945. Bọn thực dân Pháp và phát
xít Nhật buộc người nơng dân phải nhổ lúa và hoa màu để trồng đay, phục vụ cho nhu
cầu chiến tranh. Người dân các tỉnh ở đồng bằng Bắc bộ lâm vào nạn đói khủng khiếp,
gần hai triệu người chết đói. Hiện thực đau thương đó đã được phản ánh trong nhiều
truyện của Nguyên Hồng, Tô Hoài và thơ của Văn Cao… Nhà văn Kim Lân cũng góp
tiếng nói tố cáo của mình trong tác phẩm Vợ nhặt.
Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
Đặc sắc nghệ thuật của nhà văn Kim Lân trong tác phẩm Vợ nhặt là mặc dù khơng có
một dịng nào tố cáo trực tiếp tội ác của bọn thực dân Pháp và phát xít Nhật, hình ảnh
của chúng cũng khơng một lần xuất hiện, nhưng tội ác của chúng vẫn hiện lên một
cách rõ nét. Khung cảnh làng quê ảm đạm, tối tăm. Những căn nhà úp súp . Những
xác chết nằm cịng queo bên đường. Khơng khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và
mùi gây của xác người…
Cuộc sống của người nông dân bị đẩy đến bước đường cùng. Tính mạng của con
người lúc này thật rẻ rúng, người ta “ nhặt” được vợ giống như nhặt cái rơm, cái rác ở

bên đường. Thơng qua tình huống truyện lấy vợ của Tràng, Kim Lân khơng chỉ nói lên
được thực trạng đen tối của xã hội Việt Nam trước Cách mạng , mà cịn thể hiện được
thân phận đói nghèo, bị rẻ rúng của người nông dân trong chế độ xã hội cũ ( Chú ý
phân tích cảnh bữa cơm đón nàng dâu mới ở nhà Tràng vào thời điểm đói kém: giữa
cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối và một đĩa muối ăn với cháo…rồi nồi “
chè khoán” nấu bằng cám.) Ở phần cuối của tác phẩm, những nhân vật nghèo khó này
cũng khao khát sự đổi thay về số phận. Chúng ta cũng thấy thoáng hiện lên niềm dự
cảm của tác giả về tương lai, về cách mạng( qua hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng và những
đồn người đi phá kho thóc của Nhật).
Kim Lân đã viết về cuộc sống của người nông dân Việt Nam trước cách mạng với một
niềm đồng cảm, xót xa, day dứt. Nếu khơng có một tình cảm gắn bó thực sự với người
nơng dân , khơng trải qua những năm tháng đen tối ấy, khơng dễ gì viết nên được
những trang sách xúc động và thấm thía đến thế.
Giá trị nhân đạo của tác phẩm còn được thể hiện ở chỗ, nhà văn đã phát hiện và miêu
tả những phẩm chất tốt đẹp của người lao động. Mặc dù bị xô đẩy đến bước đường
cùng, mấp mé bên cái chết, nhưng những người nông dân vẫn cưu mang, giúp đỡ
nhau, chia sẻ cho nhau miếng cơm, manh áo. Hiện thực cuộc sống càng đen tối bao
nhiêu ( chú ý phân tích cảnh bà cụ Tứ chấp nhận cơ con dâu mới trong lúc gia đình
cũng đang rất khó khăn, khơng biết sống chết lúc nào, để làm nổi rõ tình người của
họ).
Kim Lân cũng thể hiện một sự trân trọng đối với khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc
và mái ấm gia đình của người nơng dân.
Trong hồn cảnh khó khăn, nhưng bà cụ Tứ và vợ chồng Tràng vẫn ln hướng tới
một cuộc sống gia đình đầm ấm, hạnh phúc ( cần chú ý những chi tiết diễn tả tâm
trạng bà cụ Tứ, thái độ của Tràng, vợ Tràng trong bữa ăn, rồi nhà cửa , sân vườn đều
được quét tước , thu dọn sạch sẽ, gọn ghẽ).Một cái gì mới mẻ, khác lạ đang đến với
mỗi thành viên trong gia đình bà cụ Tứ và hé mở trước họ một niềm tin về tương lai.
Vợ nhặt là một tác phẩm thành công của nhà văn Kim Lân. Qua tác phẩm này, chúng
Tổng hợp: Download.vn



Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
ta không chỉ nhận thấy tài năng của nhà văn, sự hiểu biết sâu sắc, cặn kẽ của ông về
cuộc sống của người nơng dân, mà điều quan trọng hơn đó chính là cái tâm, cái tấm
lịng gắn bó thiết tha, sâu nặng của Kim Lân đối với những người lao động nghèo khó
trước Cách mạng.
Giá trị hiện thực và nhân đạo trong Vợ nhặt - Mẫu 10
Trong nền văn học VN hiện đại, Kim Lân là một nhà văn có nhiều đóng góp tích cực
về thể loại truyện ngắn và đề tài nông dân. Mặc dù trong hai giai đoạn sáng tác ông
viết không nhiều tuy nhiên khi nhắc đến ông người đọc không thể không nhớ đến các
truyện ngắn như: Làng, Đứa con người vợ lẽ, Vợ nhặt….
Trong đó có thể nói “Vợ nhặt” là truyện ngắn đặc sắc. Qua câu chuyện Tràng tình cờ
nhặt người đàn bà về làm vợ trong hồn cảnh XH đang diễn ra nạn đói khủng khiếp
Kim Lân đã đặt ra những vấn đề hết sức sâu sắc. Đó là giá trị nhân phẩm của con
người và những phẩm chất tích cực của những người lao động nghèo khổ trong hoàn
cảnh XH tối tăm.
Tràng là một thanh niên có thân phận và địa vị XH thấp kém. Anh có một ngoại hình
xâu, q kệch với đơi mắt nhỏ tí và hai quai hàm bạnh ra. Anh lại mồ côi cha, sống
với bà mẹ già trong một ngơi nhà rúm ró, xiêu quẹo. Bản thân anh cũng khơng có một
nghề nghiệp vững chắc, ổn định. Hằng ngày anh gị lưng kéo xe bị chở thóc mướn để
kiếm miếng ăn nuôi thân và nuôi bà mẹ già. Anh lại thuộc hạng dân ngụ cư, hạng dân
lép vế nhât trong hệ thống làng xã VN trước kia.
Với thân phận và địa vị như thế theo lẽ thường cuộc đời Tràng rồi sẽ tàn lụi trong cảnh
cô đơn, bần cùng nói chi đến chuyện hạnh phúc lứa đơi. Bởi lẽ không một người đàn
bà nào lại dại dột gắn cả cuộc đời mình với một người thanh niên như vậy. Thế nhưng
trong diễn biến câu chuyện Tràng lại có vợ hay nói đúng hơn là tình cờ nhặt được vợ
khơng phải mất tiền tổ chức nghi lễ cưới hỏi theo lẽ thường tình.
Tràng gặp người đàn bà ấy vỏn vẹn chỉ hai lần. Lần thứ nhất khi kéo xe bò vào dốc
tỉnh thấy mấy chị con gái đang ngồi vêu ra, Tràng cất giọng hò chơi một câu cho đỡ
mệt: “Muốn ăn cơm trắng với giò này! Lại đây mà đẩy xe bị với anh ni”. Tràng khơng

có chủ tâm chọc ghẹo cô nào nhưng không ngờ một chị cong cớn hỏi lại Tràng: “Này,
nhà tơi ơi nói thật hay nói khốc đấy?” Rồi chị ta lon ton chạy lại giúp Tràng đẩy xe
bò lên dốc. Lần thứ hai khi Tràng đang ngồi uống nước ở cổng chợ tỉnh, người đàn bà
xuất hiện đột ngột trước mắt Tràng và mắng anh là “điêu”. Ban đầu Tràng không nhận
ra chị là ai khi người đàn bà gợi nhắc Tràng mới nhớ ra. Và bất đắc dĩ Tràng phải mời
chị ăn trầu nhưng chị khơng chịu ăn trầu mà lại địi ăn thứ khác. Tràng đành mời liều:
“Muốn ăn gì thì ăn”. Thế là chị xà xuống ăn một chập hết bốn bát bánh đúc mà chẳng
nói năng gì. Chị ăn xong Tràng ổm ờ nửa đùa nửa thật, tán tỉnh mà như nói chơi: “Này
Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
nói đùa chớ có về với tớ thì ra khn hàng lên xe rồi cùng về”. Nhưng không ngờ
người đàn bà đồng ý . Thế là Tràng và người đàn bà nên vợ nên chồng.
Tràng có vợ là việc khác thường ngồi sức tưởng tượng của mọi người từ người dân
xóm ngụ cư đến bà cụ Tứ và cả chính bản thân Tràng. Càng khác thường hơn nửa vì
sự kiện ấy diễn ra trong cảnh nạn đói và nạn chết đói xảy ra khốc liệt. Bao gia đình ở
Nam Định, Thái Bình phải rời bỏ quê hương dắt díu nhau lên xanh xám như những
bóng ma và nằm ngổn ngang khắp lều chợ, người chết đói như ngã rạ. Khơng buổi
sáng nào, người trong làng đi chợ đi làm đồng không gặp ba, bốn cái thây nằm cịng
queo bên đường. Khơng khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác
người. Nạn đói đã chẳng bng tha ai.
Trong hồn cảnh nạn đói và nạn chết đói đang hồnh hành, một thanh niên có thân
phận và địa vị xã hội thấp kém như Tràng mà vẫn nhặt được vợ nhờ vài bát bánh đúc,
sự kiện đó đã làm nổi bật lên chủ đề của tác phẩm đó là vấn đề nhân phẩm của con
người trong hoàn cảnh xã hội tối tăm. Chủ đề vừa nêu có ý nghĩa phê phán xã hội gây
gắt.
“Vợ nhặt” không chỉ được viết bằng cảm hứng tố cáo vạch tội các thế lực thống trị,
tác phẩm cịn tốt lên tinh thần nhân đạo sâu sắc thể hiện qua cái nhìn phát hiện và
khẳng định những phẩm chất tích cực của người lao động trong hồn cảnh xã hội tối

tăm.
Trước hết đó là khát vọng về hạnh phúc đôi lứa của người lao động cùng khổ. Đọc
lướt qua truyện chúng ta thấy việc Tràng và người đàn bà về chung sống với nhau diễn
ra hình như là hết sức ngẫu nhiên tình cờ nhưng nếu ở cả hai con người khốn khổ ấy
không tiềm ẩn nỗi khát khao về hạnh phúc lứa đơi thì chắc hẳn họ đã không nên vợ
nên chồng và cuộc gặp gỡ ấy có thể dẫn đến một cuộc mua bán đổi chát giữa kẻ có cái
ăn trong tay và một người đang đói khát. Chính khát vọng hạnh phúc đã khơi dậy ở họ
những tình cảm mới lạ.
Trên đường về nhà mặt Tràng có vẻ gì phớn phở khác thường, anh tủm tỉm cười nụ
một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh. Có lúc Tràng quên đi cuộc sống tối tăm ê
chề hằng ngày, quên cả cái đói đang đe doạ. Anh cảm thấy một cái gì mới mẻ lạ lắm
nó ơm ấp mênh mang khắp da thịt. Cịn người đàn bà mặc dù chị có vẻ khó chịu trước
ánh mắt tò mò và những lời trêu chọc trong xóm ngụ cư nhưng vẫn khơng giấu được
vẻ e thẹn.
Đặc biệt là sau đêm chung sống với nhau. Tràng và người đàn bà như được lột xác
biến thành hai con người khác hẳn. Người đàn bà thì trơng hiền hậu đúng mực cịn
Tràng thì cảm thấy một niềm vui sướng phấn chấn tràng ngập trong lòng. Hơn nữa
anh còn ý thức được rằng mình là một người chồng, người chủ gia đình phải có trách
Tổng hợp: Download.vn


×