Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Arachis hypogea

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (898.86 KB, 28 trang )

LỜI CẢM ƠN
Tơi đã hồn thành báo cáo tốt nghiệp vào tháng 4/ 2011
Trong q trình làm việc, tơi đã nhận được sự giúp đỡ và hướng dẫn
tận tình của cô giáo Nguyễn Thị Thảo, của các cán bộ ở Sở nông nghiệp và
phát triển nông thôn Nghệ An, cùng với sự ủng hộ và động viên của các
bạn trong lớp.
Tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Thị Thảo, các cán bộ và
các bạn đã giúp đỡ tôi hồn thành báo cáo tốt nghiệp này.
Tơi xin chân thành cảm ơn !

1


MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Cây lạc tên khoa học là Arachis hypogea. L thuộc họ Đậu Fabaceae,
là một loại cây trồng ngắn ngày có giá trị kinh tế cao.
Lạc là cây cơng nghiệp đồng thời là cây thực phẩm có giá trị kinh tế
xếp thứ 13 trong các loại cây thực phẩm trên thế giới ( Var nell và Moc
Lond, 1975 ).
Những năm gần đây, cây lạc đang được quan tâm, khẳng định và
tăng trưởng rõ rệt, bởi vì người nông dân ngày càng nhận lĩnh được giá trị
kinh tế và giá trị dinh dưỡng của nó.
Trước hết, lạc là nguồn thực phẩm giàu dinh dưỡng cho con người.
Hạt lạc chứa 44 – 56% lipit ( dầu ), 20 – 25% protein, ngồi ra cịn chứa
nhiều loại vitamin và chất khống.
Dầu lạc là một hỗn hợp glyxerit có 80% axit béo không no được
dùng nhiều trong công nghiệp và y học.
Lạc cịn là nguồn thức ăn tốt cho chăn ni: thân, lá lạc tươi chứa
0,3% protein vừa là nguồn thức ăn cho gia súc, vừa là nguồn phân xanh có
giá trị về số lượng và chất lượng, khô dầu lạc là nguồn thức ăn cho lợn và


bò sữa.
Lạc là loại cây họ

Đậu, rễ có nhiều nốt sần chứa vi khuẩn

Rhizobium có khả năng cố định đạm khí trời để cải tạo đất.
Lạc là cây trịng ngắn ngày có khả năng tăng vụ, luân canh, xen canh
với cây trồng khác như ngơ, mía, cây ăn quả…Hơn thế nữa, lạc là cây trồng
thích hợp với nhiều loại đất khác nhau, đặc biệt đối với vùng đồi dốc trồng
lạc có tác dụng hạn chế xói mịn và cải tạo đất rất tốt.

2


Lạc là một trong những mặt hàng có giá trị kinh tế cao. Hiện nay, số
lượng lạc xuất khẩu hàng năm trên thế giới từ 1,3 – 1,7 triệu tấn lạc quả và
350.000 -400.000 tấn dầu lạc.
Ở nước ta, theo Nguyễn Ngọc Quế năm 1993, tổng sản lượng lạc đạt
218.400 tấn. Tuy nhiên, diện tích trồng lạc cịn phân tán, chủ yếu tập trung
ở một số huyện điển hình như huyện Diễn Châu ( Nghệ An ), Hậu Lộc
( Thanh Hóa )…
Mặt khác, so với một số cây trồng khác như lúa, ngô…sự tăng
trưởng về năng suất , sản lượng lạc còn chậm. Sỡ dĩ như vậy là do sự hiểu
biết của người trồng lạc còn hạn chế. Sự đầu tư thâm canh chưa phù hợp
thỏa đáng với nhu cầu sinh trưởng, phát triển của cây lạc. Bên cạnh đó, việc
ứng dụng các thành tựu về di truyền, lai tạo, chọn lọc đối với các giống lạc
chưa được đầu tư, quan tâm đúng mức.
Để đáp ứng nhu cầu của người trồng lạc, bên cạnh việc mở rộng diện
tích trồng lạc, đầu tư thâm canh được chú trọng, trường đại học Nông
nghiệp I, Viện Khoa học Nông nghiệp cùng với các trung tâm khoa học và

khảo nghiệm trên nhiều tỉnh như Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Đồng
Nai… và các nhà khoa học như TS. Lê Song Dự, TS. Trần Đình Long, TS.
Lê Dỗn Diên đã và đang có nhiều cơng trình nghiên cứu về sinh học
giống, kỹ thuật, kinh tế sản xuất lạc.
Sở Nông nghiệp Nghệ An và trường Đại học Vinh đã có một số cơng
trình ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất lạc nhằm nâng cao
năng suất lạc.
Xuất phát từ những lý do trên đây, tơi chọn nghiên cứu đề tài này với
mục đích điều tra thực trạng một trồng lạc tại huyện Nam Đàn – Nghệ An

3


về giống , kỹ thuật, sâu bệnh…để có những biện pháp hợp lý nhằm tăng
năng suất cây lạc
2. Mục đích, yêu cầu của đề tài
- Mục đích: Nhằm điều tra thực trạng trồng lạc ở huyện Nam Đàn,
Nghệ An.
- Yêu cầu: Điều tra giống, kỹ thuật, phân bón, phịng trừ sâu bệnh,
thời vụ, năng suất lạc ở huyện Nam Đàn.

4


Phần I
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU VỀ CÂY LẠC
1.1 Nguồn gốc cây lạc
Khi nói về nguồn gốc của cây lạc, đã có nhiều quan điểm khác nhau.
Một dẫn liệu khách quan đầu tiên về nguồn gốc cây lạc ở châu Mỹ là
năm 1875 E.G Squier đã tìm thấy trong các ngơi mộ cổ ( trước thời C.

Colơmbơ tìm ra châu Mỹ ) ở Ancon, Pachacamac và nhiều nơi khác thuộc
Peru, những hạt và quả lạc đang trồng lúc đó ở Peru.
Ngày nay, căn cứ trên tài liệu về khảo cổ học, về thực vật dân tộc
học, về ngôn ngữ học, về sự phân bố các kiểu giống lạc, người ta đã khẳng
định Arachis hypogeae có nguồn gốc tại Nam Mỹ [ 6].
Theo B. B Hizgrinys, trung tâm trồng lạc nguyên thủy là vùng
Grandchaco nằm trong thung lũng Paraguay và Parama.
Nhà bác học Liên Xô, Vavilop cho rằng Paraguay là trung tâm trồng
lạc nguyên thủy.
Trong khi đó, một số tác giả lại cho rằng lạc có nguồn gốc từ miền
Đơng Bolovia.
Dùng phương pháp phóng xạ, nhiều nhà khoa học đã xác định cây
lạc được trồng cách đây 3.200 – 3.500 năm, nó được ghi vào sổ sách từ thế
kỷ 16.
Người châu Âu đầu tiên viết về cây lạc là Gronzalofe man dez
deoviedoyvaldes ( là tên quan cai trị xứ Hispaniola, nay là nước cộng hòa
Haiti ). Nhiều dẫn chứng cho thấy cây lạc được đưa vào châu Âu từ thế kỷ
16.

5


Năm 1576, Nicolas Monardes ( nhà vật lý ) đã mô tả và ghi chú
giống cây này là: “ được gửi cho tơi từ Peru ”.
Quả lạc được vẽ hình đầu tiên trong cuốn sách của Jandelaet
( 1529 ). Một số tác giả như Maregraue đã mô tả quả lạc được phát sinh từ
rễ còn Poitran (1806 ) và Richard ( 1823 ) đã mô tả quả lạc được phát sinh
từ hoa.
Đầu thế kỷ 14, người Bồ Đào Nha đã nhập cây lạc này vào bờ biển
Tây Phi còn người Tây Ban Nha đã đưa cây lạc từ bờ biển Tây Mehico đến

Philippin, từ đó đưa sang Trung Quốc, Nhật Bản, Đơng Nam Á, Ấn Độ và
bờ biển phía Đơng nước Úc [ 5].
Đầu thế kỷ 18, Nicole đã trồng lạc trong vườn thí nghiệm thực vật
Montpellier và năm 1723 đã thông báo cho Viện Hàn lâm Pháp. Năm 1753,
Clinne đã mô tả dưới tên “ Arachis hypogeae L ”.
Cây lạc vào nước ta bằng con đường nào và từ lúc nào cho đến nay
vẫn chưa có ai quan tâm nghiên cứu.
Năm 1961, Nguyễn Hữu Quán đã đưa ra một nhận định khơng có
dẫn chứng chứng minh là lạc vào nước ta từ Trung Quốc vào đầu thế kỷ 19.
Trong lịch sử cho đến cuối thế kỷ 19, khơng có sử sách nào nói đến
cây lạc, mặc dù trong “ Vân đài loại ngữ ” của Lê Quý Đôn ( 1726 – 1783 )
viết cuối thế kỷ 18 đã nói đến gần 100 loài cây trồng, cây rừng, cây dại
nhưng cũng khơng nói đến cây lạc. Khơng một người châu Âu nào đến
nước ta vào thế kỷ 19 đã ghi nhận thấy có trồng lạc trong những tập viết
của họ. Nhưng có lẽ lạc vào nước ta theo các nhà buôn, nhà truyền giáo
châu Âu.

6


Về mặt sử dụng, người Indieng đã biết ăn lạc bằng nhiều cách khác
nhau như rang, luộc, giã nhỏ nấu canh, ép dầu. Ở châu Âu, năm 1800 đã
xây dựng một số nhà máy ép dầu trong vùng Valencia ( Tây Ban Nha ).
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX nhiều nhà máy ép dầu được xây
dựng khắp Pháp, Đức, Hà Lan…
Năm 1841, lần đầu tiên nhập vào nước Pháp một khối lượng lớn
(700 tấn lạc) cho nhà máy ép dầu Rouen và năm đó được coi là năm đánh
dấu việc sử dụng lạc vào công nghiệp và buôn bán trên thế giới.
1.2. Giá trị của lạc
Lạc là cây cơng nghiệp đồng thời là cây thực phẩm có giá trị kinh tế cao.

Về thành phần hóa học
+ Vỏ quả có: 80 – 90% gluxit
4 – 7%

protein

2 – 3%

lipit

+ Vỏ lụa có: 13% protein
18% xenlulo
1% lipit
2% chất khống
7% sắc tố và vitamin
Lá mầm là bộ phận chính của hạt lạc chứa: 50% Lipit, 30% Protein.
Hai thành phần này chiếm 4/5 trong lá mầm.
Sản phẩm lạc có nguồn protein và dầu cao, lượng vitamin phong
phú, làm thức ăn tốt cho người và gia súc, làm nguồn nguyên liệu cho công
nghiệp chế biến. Riêng đối với nước ta, lạc là mặt hàng có kim ngạch xuất
khẩu tương đối cao.

7


Lạc là cây trồng có hiệu quả kinh tế cao trên đất bạc màu khơ hạn,
nó góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, tạo thêm công ăn
việc làm cho con người và sử dụng hợp lý đất đai, lao động, tiền vốn.
Rễ lạc có nhiều nốt sần, trong đó chứa nhiều vi khuẩn Rhizobium có
khả năng cố định đạm khí quyển, vì vậy sau khi thu hoạch, lạc để lại cho

đất một lượng đạm khá lớn.
Là cây trồng ngắn ngày nên lạc có khả năng tăng vụ và được dùng
để trồng luân canh, xen canh với các cây trồng khác như mía, ngơ, cây ăn
quả. Hơn nữa, lạc là cây trồng thích hợp với nhiều loại đất khác nhau, đặc
biệt là vùng đồi dốc trồng lạc có tác dụng chống xói mịn và cải tạo đất rất
tốt.
Theo Lê Minh Dụ ( 1993 ) trồng cây họ Đậu ở một số loại đất dốc
ổn định sẽ làm tăng nguồn hữu cơ với khống, sắt di động hoặc khơng di
động, tăng hàm lượng lân dễ tiêu trong đất, làm cho hàm lượng photphat
trong đất có sự biến đổi: nhóm photphat canxi tăng lên, nhóm photphat sắt
và nhơm giảm và thể hiện khá rõ nét với các loại đất phiến sét trồng lạc
thuần hoặc xen.
Cây lạc có giá trị kinh tế như vậy cho nên nước ta nói riêng và nhiều
nước trên thế giới nói chung đã và đang chú ý mở rộng diện tích trồng lạc
và tăng năng suất.
1.3 Tình hình sản xuất lạc trên thế giới, trong nước và ở Nghệ An
1.3.1. Tình hình sản xuất lạc trên thế giới
Trong số các cây đậu đỗ của thế giới, lạc có diện tích và sản lượng
đứng thứ hai sau cây đậu tương ( Kris hnam A. 1991).

8


Cây lạc được trồng ở tất cả các châu lục, nhưng chủ yếu tập trung ở
châu Á và châu Phi. Châu Á chiếm 63,17% và châu Phi chiếm 30,81% diện
tích trồng lạc của thế giới. Trong khi đó châu Mỹ chỉ chiếm 5,8%, châu Âu
chiếm 0,22%.
Tình hình sản xuất lạc của thế giới được biểu hiện ở bảng sau:
Bảng 1 : Tình hình sản xuất lạc trên thế giới


Năm

Diện tích (1000 ha)

Năng suất ( tạ/ha)

Sản lượng (1000 tấn)

1991

19,544

11,2

21,879

1996

20,872

13,9

28,958

1997

20,182

13,5


27,289

1998

21,225

14,0

29,819

1999

21,622

13,5

29,263

2000

22,038

13,7

30,210

( Nguồn: Dựa trên dữ liệu của USDA, PS & cơ sở dữ liệu D)
Nhìn chung diện tích, năng suất, sản lượng lạc trên thế giới có xu
hướng tăng lên.
Năm 1995, diện tích trồng lạc trên thế giới là 20.951.000 ha. Sáu

nước có diện tích trồng lạc lớn nhất là: Ấn Độ : 8.450.000 ha, Trung Quốc :
2.988.000 ha, Sênêgan : 925.000 ha, Sudăng : 762.000 ha, Nigiêria :
1.000.000 ha, Mỹ: 688.000 ha.
1.3.2. Tình hình sản xuất lạc ở Việt Nam
Trong 25 nước trồng lạc ở châu Á, Việt Nam đứng thứ 5 sau Ấn Độ,
Trung Quốc, Indonexia, Myanma ( Ngô Thế Dân – 1995).
Năm 1998, diện tích đất trồng lạc đạt cao nhất 269.000 ha. Năng suất
bình quân đạt 14,3 tạ/ha. Lạc được trồng nhiều ở các tỉnh khu 4 cũ (26,4%),
Đông Nam Bộ ( 25,5%), Trung du miền núi phía Bắc (15,7%), Duyên hải

9


Nam Trung Bộ ( 10,7%). Tây Ninh là tỉnh có diện tích trồng lạc lớn nhất
(40.000 ha), sau đó là Nghệ An (26.000 ha).
Bảng 2 : Diện tích, năng suất và sản lượng lạc ở Việt Nam

Chỉ tiêu

Đơn vị tính

Diện tích

1.000 ha

Năng suất

Tạ/ha

Sản lượng


1.000 tấn

1981

1985

1990

1995

1996

1998

120,2 217,7 201,4 259,9 262,7 269,4
8,33

9,5

10,6

12,8

13,58

14,3

100,1 202,1 213.5 332,7 356,7 385,2
Nguồn : Niên giám thống kê Việt Nam [7]


1.3.3. Tình hình sản xuất lạc ở Nghệ An
Trên bình diện cả nước Nghệ An là tỉnh đứng thứ 2 về diện tích và
sản lượng lạc. Trong mười năm (2000 - 2010) sản lượng lạc Nghệ An tăng
lên đáng kể. Các số liệu sản xuất lạc dẫn ra dưới đây có thể chỉ rõ điều đó.
Bảng 3 : Tình hình sản xuất lạc ở Nghệ An trong 10 năm qua

Chỉ tiêu

2006

2007

2009

2010

Diện tích (ha)

29.135

29.829

31.785

32.527

Năng suất (tạ/ha)

15,5


16,9

16,3

17,1

Sản lượng (tấn)

34.196

33.267

35.457

36.890

( Theo báo cáo của sở nông nghiệp và phát triển nông thơn Nghệ An)
Diện tích trồng lạc có sự tăng lên qua các năm, trong thời gian từ
2006 -2010 diện tích trồng lạc đã tăng lên 3.392 ha. Năng suất lạc và sản
lượng cũng tăng lên đáng kể. Tuy nhiên năng suất giữa các xã khơng đồng
đều, có sự khác biệt khá lớn.

10


1.4. Sự sinh trưởng và phát triển của cây lạc
- Sự nảy mầm của cây lạc
Nảy mầm quá trình chuyển biến hạt từ trạng thái nghỉ sang trạng thái
hoạt động. Nó khởi đầu bằng sự hút nước, tiếp đó là hoạt động của các men

phân giải, kết thúc là sự xuất hiện cây mầm. Biểu hiện bên ngoài của sự
nảy mầm là trục phôi dài ra, đâm thủng vỏ hạt và mầm lộ ra ngoài.
Lạc nảy mẩm theo kiểu nâng hạt, lúc đó thân mầm phát triển hình
thành những lá lạc đầu tiên.
- Sự phát triển của thân và chiều cao của cây lạc
Chiều cao thân phụ thuộc vào đặc điểm di truyền của giống và điều
kiện ngoại cảnh. Nhìn chung, các giống có dạng cây bụi thì chiều cao thân
đạt khoảng 70 – 150cm, dạng đứng có chiều cao 40 – 80cm. Cây lạc sinh
trưởng tốt thân thường có chiều cao thích hợp, cân đối với các bộ phận
khác, thân khơng đổ, các đốt phía dưới ngắn, thân mập, cứng.
- Sự phát triển của bộ lá
Trên thân chính số lượng lá có thể đạt 20 -28 lá, tổng số lá trên cây
có thể đạt tới 50 – 80 lá. Lá là nơi chủ yếu diễn ra quá trình quang hợp. Nó
sinh trưởng và phát triển tương ứng với sự sinh trưởng và phát triển của
chiều cao.
- Sự phát triển của bộ rễ
Rễ lạc là rễ cọc gồm một rễ chính ăn sâu và một hệ thống rễ bên rất
phát triển. Trọng lượng rễ lạc thay đổi tùy thuộc điều kiện canh tác, tính
chất đất đai. Ở đất nhẹ, tơi xốp, bộ rễ phát triển thuận lợi, rễ con ra nhiều
và khả năng hấp thụ dinh dưỡng lớn. Ngược lại, ở đất có độ ẩm quá cao, rễ

11


phát triển kém, khả năng hấp thụ dinh dưỡng kém nên cây biểu hiện thiếu
dinh dưỡng, cằn cỗi, lá vàng tía.
- Sự ra hoa và hình thành quả lạc
Thời gian ra hoa của lạc kéo dài 25 – 40 ngày, tùy theo giống và điều
kiện sinh trưởng. Số lượng hoa có thể thay đổi từ 50 – 200 hoa.
Giai đoạn hoa nở rộ thường kéo dài 15 – 20 ngày, trung bình có 5 –

10 hoa/ ngày. Thời gian này có thể có 70 – 90% số hoa trên cây.
Hoa lạc nở vào lúc 7 – 9 giờ sáng nhưng đã được thụ phấn trước đó
7 – 10 giờ. Sau khi được thụ phấn, tế bào cuống hoa phát triển thành tia ( từ
3 – 4 ngày ), tia dài 0,5 – 1cm, vươn dài theo hướng đâm xuống đất sau đó
phình to hình thành quả.
Q trình hình thành quả như sau:
• 5 – 6 ngày: Đầu mút tia bắt đầu phình ngang.
• 9 ngày

: Quả lớn nhanh thấy rõ ở phần cuống.

• 12 ngày

: Quả tăng kích thước gấp 2 lần so với khi 9 ngày.

• 20 ngày : Quả định hướng nhưng vỏ quả còn mọng nước, 2 hạt đã
thấy rõ.
• 30 ngày

: Vỏ quả cứng, săn lại, hạt định hình.

• 45 ngày

: Vỏ quả có gân rõ, vỏ hạt mỏng dần và bắt đầu mang

màu sắc.
• 60 ngày

: Hạt chín hồn tồn và có thể thu hoạch.


1.5. Kỹ thuật thâm canh cây lạc [ 9]
Để có được năng suất lạc cao, ba yếu tố kỹ thuật trồng trọt phải đạt
được đó là:

12


- Đảm bảo mật độ cây
- Tạo nên cây khỏe
- Tạo ra quả nhiều, quả chắc, hạt to và nặng
* Đảm bảo mật độ cây
Muốn đảm bảo mật độ cây cần có hai điều kiện đó là giống phải mọc
mầm khỏe và lượng gieo trồng hợp lý.
+ Giống mọc mầm khỏe biêu hiện ở hai mặt là cây nảy mầm nhanh
và mọc đều. Để có được giống mọc mầm khỏe thì phải có chất lượng hạt
giống tốt đồng thời phải tạo điều kiện cho cây lạc nảy mầm tốt bằng cách
làm đất tơi xốp, xử lý thuốc bệnh, đảm bảo độ ẩm phù hợp.
+ Lượng giống gieo hợp lý: Những căn cứ khoa học để xác định mật
độ trồng lạc cho một vùng là:
• Giống có ba dạng : thân đứng, thân bị và dạng nửa bị.
• Dinh dưỡng trong đất: đất tốt trồng thưa, đất xấu trồng dày.
• Chế độ chăm sóc : thâm canh trồng thưa, quãng canh trồng dày.
• Thời tiết : mùa mưa trồng thưa hơn mùa ít mưa.
• Lượng hạt giống : 200kg lạc vỏ/ ha đối với lạc xuân và 150 kg lạc
vỏ / ha đối với lạc thu.
* Về chăm sóc cây khỏe : Cây lạc khỏe biểu hiện ở sự sinh trưởng
nhanh, thân cứng, khơng có hiện tượng vóng lốp, phát triển đủ hai cặp cành
cấp 2, bốn cành cấp 1 ( đối với kiểu lạc đứng ).
Các biện pháp để chăm sóc cây khỏe:
• Trước hết là phải bón phân đúng lúc, đúng lượng.


13


Đối với phân chuồng và phân lân: Bón 5 – 10 tấn phân chuồng cho 1
ha, ủ mục với supper lân 150 – 200 kg/ha hoặc lân nung chảy 200 – 300
kg/ha, bón trước lúc trồng 1 tháng ( 40 – 50 kg P2O5 /ha ).
Đối với phân đạm: Dùng đạm sunfat tốt hơn các loại khác, lượng bón
80 – 100kg/ha, nếu dùng ure bón 45 – 50 kg/ha.
Đối với phân kali : Liều lượng 50 – 60kg K 2O/ha hoặc bón
kalisunfat với liều lượng 100 – 120kg/ha. Bón cùng với đạm khi cây có 3 –
5 lá.
Phun chất điều hịa sinh trưởng và vi lượng.
Bón canxi lúc sắp ra hoa, liều lượng theo chỉ dẫn.
• Thứ hai là phải xới vun đúng lúc.
Xới đợt 1 lúc lạc có 3 – 5 lá thật.
Xới lần 2 lúc lạc có 7 – 9 lá, sắp ra hoa.
Vun lạc lúc hoa héo ( sau 2 tuần ra hoa ).
• Thứ ba là chọn lọc giống tốt.
• Thứ tư là trồng đúng thời vụ.
• Thứ năm là chọn đất thích hợp: lạc thích hợp nhất với đất cát pha
thịt nhẹ, hàm lượng dinh dưỡng trung bình.
* Vấn đề đảm bảo quả nhiều, quả chắc, hạt to, nặng.
Trên cơ sở chăm sóc cây khỏe đã đảm bảo 80% quả nhiều, quả chắc.
Tuy nhiên muốn cho hạt to, nặng thì phải:
Trước hêt là phải phịng trừ sâu bệnh kịp thời.
Thứ hai là phải chú ý đến vấn đề quản lý nước.

14



Thứ ba là phun thuốc kìm hãm sinh trưởng SMH để cây ngừng sinh
trưởng và tích lũy vào hạt, đồng thời kết hợp phun vi lượng để tăng trọng
lượng hạt, tăng năng suất.
Thứ tư là phải phòng trừ cỏ dại triệt để nhằm tránh sự tranh chấp
dinh dưỡng.
* Vấn đề trồng luân canh và xen canh lạc [6]
Luân canh là trồng lạc liên tiếp nhiều năm ở cùng một chân ruộng,
hậu quả là năng suất giảm dần.
Thí nghiệm ở xã Xuân Giang – Yên Lạc – Vĩnh Phúc, trồng lạc liên
tiếp năng suất giảm rõ rệt: Năm 1956 năng suất là 1080kg/ha (100%), năm
1957 năng suất 810kg/ha (75%), năm 1958 năng suất 405kg/ha (37%), năm
1959 năng suất chỉ còn là 216kg/ha (20%).
Kinh nghiệm cho thấy, không bao giờ trồng lạc quá 3 năm trên một
mảnh ruộng. Ở đất bãi, đất màu nên chuyển sang trồng mía, khoai hoặc rau.
Ở những chân đất khác nên thay lạc bằng khoai lang, ngô hoặc khoai sọ,
không nên trồng đậu, các loại cà, thuốc lá, đay.
Quy trình kỹ thuật trồng lạc xuân:
Lạc xuân + lúa mùa chính vụ
Lạc xuân + lúa mùa sớm + khoai tây
Lạc xuân + lúa mùa sớm + khoai lang đông
Trồng xen là một tập quán lâu đời của nhiều vùng trồng lạc tập trung.
Có thể trồng xen lạc với ngơ, mía, sắn, cây cơng nghiệp và cây ăn quả lâu
năm.
Lạc thường được trồng xen với ngô, hoặc để lấy dây lá làm phân
xanh bón cho lúa hoặc để lấy củ.
Lạc cịn được trồng xen với mía. Lê Song Dự và những người cộng
tác (1969) đã theo dõi trong 2 vụ mía (1964 – 1965 trồng giống POI 3016;

15



1966 – 1967 trồng giống FI34) thấy rằng trong năm 1964 – 1965 cho
1.282kg hạt/ha; 515 kg hạt/ha trong năm 1966 – 1967 và tương ứng với
5.822, 4.513 kg thân lá tươi/ha; đã cung cấp một lượng không nhỏ chất hữu
cơ, đạm, lân cho đất nên sau khi thu hoạch mía ( 1967), lượng mùn trong
đất tăng lên đáng kể.
Ở một số vùng trung du đất đồi thì trồng xen lạc với sắn. Lạc xen sắn
phát triển tốt nếu được bón đủ vơi, lân và kali. Cách trồng này vừa có hiệu
quả kinh tế vừa có tác dụng bồi dưỡng đất đồi dễ bị kiệt màu nếu trồng sắn
liên tiếp nhiều năm.
Lạc còn được trồng xen với nhiều loại cây công nghiệp lâu năm, nhất
là cây ăn quả như cam, quýt… ở các đồi bãi.
1.7. Các giống lạc
Giống là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc
nâng cao năng suất và sản lượng cây trồng. Hiện nay trong sản xuất lạc,
bên cạnh sử dụng các giống địa phương thuần túy như Sen chùm, Sen Nghệ
An… bà con nông dân đã sử dụng thêm các giống mới lai tạo như LO2,
LVT…
- Giống Sen Nghệ An : Là giống địa phương được trồng nhiều năm
tại Nghệ An, có năng suất thấp hơn các giống khác nhưng mức độ trồng
đồng đều, năng suất ổn định và thích nghi tốt với điều kiện khí hậu Nghệ
An, có sức chống chịu sâu bệnh tốt, thời gian sinh trưởng ngắn, trung bình
khoảng 112 ngày.
- Giống Sen lai 75/23 : Là giống lai tạo giữa giống Mộc Châu và
giống Trạm Xuyên. Giống này có khả năng chống chịu sâu bệnh, chịu hạn,
úng, chịu rét tốt. Thời gian sinh trưởng là 120 ngày.
- Giống LO2: Là giống nhập nội của Trung Quốc qua Viện khoa học
nông nghiệp Việt Nam, dược công nhận là giống quốc gia năm 1999.


16


Đặc điểm : Quả to, vỏ quả dày, năng suất khảo nghiệm đạt 34 tạ/ha.
Chiều cao trung bình của cây là 39,1 cm, thích hợp với đất thịt nhẹ. đất cát
pha. Thời gian sinh trưởng khoảng 125 ngày.
- Giống LVT : Là giống nhập nội của Trung Quốc, do GS. Trần Hồng
Uy cùng Viện nghiên cứu chọn tạo.
Đặc điểm : cao khoảng 56 – 63 cm, hạt to trung bình, vỏ lụa màu
trắng hồng, chịu rét khá, thích hợp với đất cát pha, thịt nhẹ.
1.8. Sâu bệnh hại lạc [9]
Sâu bệnh là một trong những nguyên nhân chính làm giảm đáng kể
năng suất lạc. Sâu bệnh có rất nhiều loại. Tùy từng thời kỳ, từng giai đoạn
phát triển của lạc mà bị loại sâu, bệnh này hay bệnh kia phá hoại.
Sâu : Trong suốt thời gian sinh trưởng, cây lạc có thể bị trên 50 loại
sâu phá hoại. Tuy nhiên có một số loại sâu hại chính sau đây:
- Sâu hại lạc lúc nảy mầm và thời kỳ cây con có sâu keo và sâu xám.
Hai loại sâu này gây hại cho lạc từ khi bắt đầu gieo cho đến thời kỳ cây
con. Chúng gây thiệt hại khoảng 10% sản lượng, sâu xám thường ăn cây
non còn sâu keo thường ăn mầm cây con.
- Sâu hại lá, thân và các bộ phận trên mặt đất :
+ Sâu cuốn lá : Thường mỗi con đẻ khoảng 87 – 186 trứng vào chồi
non, thời gian đẻ kéo dài 3 – 7 ngày. Giai đoạn sâu non kéo dài từ 17 – 28
ngày hoàn toàn phụ thuộc vào nhiệt độ. Sâu phát sinh từ khoảng tháng 3
đến cuối tháng 5.
+ Sâu xanh : (Heliothis armigera)
Là loài đa thực, chúng đẻ trứng ở mặt dưới lá và trên tầng lá thấp.
Mỗi sâu cái đẻ từ 95 – 167 trứng. Một con sâu non ăn tới 197 cm 2 lá.
Chúng làm giảm đáng kể diện tích quang hợp của cây và gây hại nặng lúc


17


lạc sắp ra hoa. Tuy nhiên mật độ sâu xanh thường thấp hơn sâu khoang và
sâu cuốn lá.
+ Rầy xanh (Empcasca jlavescons): Rầy trưởng thành nhỏ, dày 3 – 5
mm, màu xanh. Con cái đẻ trứng trong mô của lá, thời gian trứng kéo dài 4
– 7 ngày, sâu non từ 7 – 14 ngày. Mật độ rầy xanh 2con/chồi làm năng suất
giảm 4,9%, có thể giảm tới 15%.
Bệnh:
+ Bệnh nấm mốc : Gồm 2 loại mốc đen và mốc trắng, thường gặp ở
đất có độ ẩm cao. Sau khi gieo, nếu bị nấm mốc tấn công, hạt lạc mất sức
nảy mầm rồi thối nhũn. Có trường hợp lá mầm mọc lên khỏi mặt đất lá
mầm bị đen, nếu bị nặng thì lá mầm bị đen, cịn nếu bị nhẹ thì cây cịi cọc.
+ Bệnh thối đen cổ rể : do nấm Aspergilluniger gây ra.
Triệu chứng : Cây bị héo rũ, nhổ lên cây thường bị đứt ở phần gốc
thân. Bệnh phổ biến ở tất cả các vùng trồng lạc, có thể làm giảm mật độ 40
– 50%.
+ Bệnh đốm nâu ( Cercaspora Arachidis) : Là nấm bệnh gây hại trên
lá và thân,vết bệnh trên lá điển hình màu nâu sáng, gần trịn, xung quanh có
quầng vàng. Bệnh nặng có thể gây rụng lá hàng loạt. Thời tiết mát mẻ, độ
ẩm khơng khí cao thuận lợi cho bệnh phát triển.
+ Bệnh đốm đen (Cercaspora Personatum)
Nấm bệnh gây hại trên lá thân, vết bệnh có hình trịn hoặc gần trịn,
xung quanh vết bệnh có thể có quầng vàng hẹp. Bệnh phát triển mạnh ở
giai đoạn ra hoa và chín. càng về cuối càng nặng, gây rụng lá hàng loạt và
quả chín ép.

18



Phần II
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, địa điểm, thời gian nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu : Để nắm được thực trạng trồng lạc ở huyện
Nam Đàn – Nghệ An, tôi đã tiến hành thu thập, điều tra tất cả các giống lạc
đang trồng và thu hoạch vụ Đông xuân năm 2009 – 2010 từ địa phương
trên để phân tích và nghiên cứu.
- Địa điểm nghiên cứu : Tôi đã nghiên cứu trên địa bàn huyện Nam
Đàn - Nghệ An.
- Thời gian nghiên cứu : Từ tháng 11/ 2010 - 3/ 2011.
2.2. Nội dung nghiên cứu
- Điều tra giống, kỹ thuật, phân bón, phịng trừ sâu bệnh, thời vụ,
năng suất lạc ở huyện Nam Đàn.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết để có những hiểu biết cơ bản về
cây lạc.
- Phương pháp điều tra thực trạng theo mẫu phiếu điều tra
Mẫu 1: Cho từng hộ gia đình
Mẫu 2: Cho từng xã sản xuất lạc
- Phương pháp quan sát để xác định kỹ thuật trồng lạc và phát hiện
các loại sâu bệnh hại lạc.

19


Phần III
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Kết quả điều tra qua mẫu phiếu điều tra
3.1.1. Giống

Bảng 4 : Tình hình sử dụng các giống lạc ở huyện Nam Đàn

Giống lạc
% số lượt hộ sử dụng giống
Sen Nghệ An
39,41
Sen lai 75/23
37,93
LVT
13,5
LO2
9,16
Nhận xét: Qua bảng trên ta thấy nhân dân huyện Nam Đàn phần
lớn còn đang sử dụng giống địa phương (Sen Nghệ An) và giống Sen lai
75/23.
Nhìn chung, nhân dân đã và đang sử dụng các giống mới cho năng
suất cao như LVT, LO2…nhưng tỷ lệ sử dụng còn rất thấp. Một trong
những lý do chính là do chính là cơng tác nhân giống chưa được đầu tư
đúng mức, giống mới chưa được nhân rộng rãi vì vậy bà con sử dụng giống
mới phải chịu giá thành cao.

Hình 1 : Biểu đồ về việc sử dụng các giống lạc ở huyện Nam Đàn

3.1.2. Kỹ thuật thâm canh lạc
3.1.2.1. Thời vụ

20


Đại đa số bà con huyện Nam Đàn gieo trồng lạc xuân vào thời điểm

từ ngày 1 đến ngày 20 tháng 2.
3.1.2.2. Diện tích đất trồng lạc
Kết quả điều travề diện tích các loại đất trồng lạc của một số xã ở
huyện Nam Đàn được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 5 : Diện tích đất trồng lạc của một số xã ở huyện Nam Đàn

Tổng diện

Đất thịt

Đất cát ven

Đất cát pha

tích (ha)

(ha)

sơng (ha)

(ha)

2025

300

1320

405


Xã Nam Cường

180

60

85

35

Xã Xn Hịa

85

36

20

29

Xã Nam Trung

120

0

70

50


Xã Văn Diên

170

20

16

134

Xã Khánh Sơn

60

20

13

27

Địa điểm

Nhận xét : Qua bảng trên ta thấy rằng, diện tích trồng lạc ở huyện
Nam Đàn tương đối lớn, chủ yếu là trồng trên đất cát ven sơng với diện tích
1320 ha, chiếm 65,1% so với tổng diện tích trồng lạc của huyện. Qua đó
cũng cho ta thấy Nam Đàn là một trong những vùng trồng lạc trọng điểm
của Nghệ An.

21



3.1.2.3. Kỹ thuật làm đất
Bà con đã thực hiện cày bừa 2 – 3 lần sạch cỏ, làm đất tơi xốp, lên
luống ruộng khoảng 1,5 – 2m, luống cách luống 30cm.
Về vấn đề tưới tiêu cho lạc : bà con đã đảm bảo đầy đủ nước cho cây
lạc, tạo điều kiện tốt nhất cho cây sinh trưởng và phát triển. Do đó cho
năng suất và chất lượng lạc cao.
3.1.2.4. Sử dụng phân bón
Kết quả điều tra về vấn đề sử dụng phân bón trong trồng lạc của
nhân dân huyện Nam Đàn được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 6 : Tình hình sử dụng phân bón trong trồng lạc ở huyện Nam Đàn

Hữu cơ
Loại phân

Vôi bột

Lân

Đạm

Kali

Mức Mức Mức Mức Mức Mức Mức Mức Mức Mức
1(%) 2(%) 1(%) 2(%) 1(%) 2(%) 1(%) 2(%) 1(%) 2(%)

% số lượt
bón

7,4


92,6

78,3

21,7

70,9

29,1

94,4

5,6

87,6

12,4

Nhận xét : Bà con huyện Nam Đàn đã sử dụng hầu hết các loại
phân để bón cho lạc. Đối với phân hữu cơ, nhìn chung tỷ lệ bón ở mức 2
cao hơn so với mức 1. Đối với các loại phân vô cơ, tỷ lệ bón ở mức 1 lại
cao hơn so với mức 2. Đảm bảo lượng phân bón cần thiết cho cây sinh
trưởng và phát triển.
3.1.3. Sâu bệnh hại lạc
Kết quả điều tra về tình hình sâu bệnh hại lạc cũng như cách phòng
trừ của nhân dân huyện Nam Đàn được thống kê qua các bảng sau đây:

22



Bảng 7 : Kết quả điều tra sâu hại lạc

Thời gian xuất hiện
% số lượt hộ trồng

Sâu keo
5 – 6 lá

Các loại sâu
Sâu xám
Sâu cuốn lá
Sâu xanh
Ra hoa 5 – 6 lá → Ra hoa Ra hoa

19,0%
15,3%
30,9%
34,8%
lạc bị sâu hại
Nhận xét : Trong các loại sâu, việc trồng lạc chịu ảnh hưởng chủ

yêu của hai loại sâu đó là sâu xanh và sâu cuốn lá. Hai loại sâu nay xuất
hiện khi cây vừa ra 5 – 6 lá và kéo dài đến khi cây ra hoa, do đó ảnh hưởng
mạnh đến quá trình sinh trưởng và phát triển bình thường của cây lạc, làm
năng suất lạc giảm đi đáng kể.

Hình 2 : Biểu đồ về tỷ lệ % số lượt hộ trồng lạc bị sâu hại ở huyện Nam Đàn

23



Bảng 8 : Kết quả điều tra các bệnh hại lạc

Nấm mốc
Thời gian xuất
hiện
% số lượt hộ
trồng lạc bị

Cây con

17,2

Thối cổ rể
Cây con→

Loại bệnh
Chết ẻo
5 – 6 lá→

Ra hoa

Ra hoa

19,8

25,5

Thối quả


Đốm nâu

Quả non

Hoa tàn

12,6

24,9

bệnh
Nhận xét : Cây lạc bị hai bệnh chủ yếu đó là bệnh chết ẻo và bệnh
đốm nâu. Riêng bệnh chết ẻo gây ảnh hưởng lớn đến quá trình sinh trưởng
và phát triển của cây lạc vì nó xuất hiện sớm trong q trình gieo trồng lạc
và kéo dài cho đến khi cây ra hoa.

Hình 3 : Biểu đồ về tỷ lệ % số lượt hộ trồng lạc bị bệnh hại ở huyện Nam Đàn

Kết quả điều tra về tình hình phịng sâu, bệnh hại lạc được thống
kê qua bảng sau đây:
Bảng 9 : Kết quả điều tra tình hình phịng trừ sâu bệnh hại lạc ở huyện
Nam Đàn, Nghệ An

24


Loại thuốc trừ sâu

Loại thuốc trừ bệnh


Fastac

Ofatox

Dipterep

Zineb

Daconil

Anvil

56,9

19,8

23,3

20,7

47,8

31,5

% số lượt hộ sử dụng
thuốc phịng trừ sâu
bệnh
Nhận xét : Nhìn chung, bà con huyện Nam Đàn đã sử dụng nhiều
loại thuốc trừ sâu và thuốc trừ bệnh để bảo vệ lạc khỏi sâu bệnh hại. Trong

đó được sử dụng khá nhiều loại thuốc trừ sâu Fastac, chiếm 56,9% và loại
thuốc trừ bệnh Daconil, chiếm 47,8%. Ngồi ra cịn sử dụng Ofatox,
Dipterep, Zineb, Anvil nhưng với tỷ lệ thấp hơn.
Bảng 10 : Kết quả điều tra về diện tích, năng suất và sản lượng lạc ở
huyện Nam Đàn

Tồn

Nam

Xn

Nam

Văn

Khánh

huyện

Cường

Hịa

Trung

Diên

Sơn


Diện tích (ha)

2025

180

85

120

170

60

Năng suất (tạ)

18,0

18,0

19,0

19,1

20,0

17,0

Sản lượng (tấn)


3600

306

152

219,7

320

102

Nhận xét : Qua bảng trên ta thấy, Nam Đàn có diện tích trồng lạc,
sản lượng lạc tương đối lớn nhưng phân bố khơng đồng đều giữa các xã.
Có thể khẳng định rằng Nam Đàn là một trong những vùng trọng điểm sản
xuất lạc của Nghệ An
KẾT LUÂN VÀ ĐỀ NGHỊ
1. Kết luận
Qua điều tra thực trạng trồng lạc ở huyện Nam Đàn, Nghệ An trên 8
xã ở vụ Đông xuân 2009 – 2010, tôi rút ra được một số kết luận sau:

25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×