Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

Tài liệu Bài tiểu luận Hai mươi năm quan hệ ngoại giao Việt - Mĩ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (503.48 KB, 48 trang )

tai lieu, document1 of 66.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - KĨ THUẬT BÌNH DƯƠNG

KHOA KĨ THUẬT - CƠNG NGHỆ

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN: ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

ĐỀ TÀI:
HAI MƯƠI NĂM QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT – MĨ

GIẢNG VIÊN: DỖN THỊ HUỆ
LỚP: D14DO3A
NHĨM: 1

Bình Dương, ngày 13 tháng 10 năm 2015
luan van, khoa luan 1 of 66.


tai lieu, document2 of 66.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - KĨ THUẬT BÌNH DƯƠNG

KHOA KĨ THUẬT - CƠNG NGHỆ

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN: ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM


ĐỀ TÀI:
HAI MƯƠI NĂM QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT – MĨ

GIẢNG VIÊN: DỖN THỊ HUỆ
LỚP: D14DO3A
NHĨM: 1

Bình Dương, ngày 13 tháng 10 năm 2015

luan van, khoa luan 2 of 66.


tai lieu, document3 of 66.

MỞ ĐẦU

Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ
không khởi đầu từ 20 năm
trước, khi hai nhà nước thiết
lập quan hệ ngoại giao, mà đã
bắt nguồn từ trước đó rất lâu.
Tổng thống Thomas Jefferson
là người Mỹ đầu tiên quan tâm
đến nước Việt Nam. Sau đó
hơn
Tàu Peacock từng đến Việt Nam vào thế kỷ 19

thế kỷ rưỡi, Chủ tịch Hồ Chí

Minh đã mở đầu bài diễn văn khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng

hòa bằng một câu nổi tiếng: "Mọi người sinh ra đều có quyền bình
đẳng...", đó cũng là lời mở đầu bản Tun ngơn độc lập của nước Mỹ
năm 1776, và tác giả không phải ai khác ngoài Thomas Jefferson. Bắt
đầu từ số báo này, chúng ta sẽ điểm lại một số cột mốc đáng nhớ trong
mối quan hệ giữa hai quốc gia.

luan van, khoa luan 3 of 66.


tai lieu, document4 of 66.

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT-MĨ TRONG LỊCH SỬ ......................... 1
1.1. QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT – MĨ TRƯỚC NĂM 1954 .................................. 1
1.1.1 "Cha đẻ" của nước Mĩ tìm giống lúa xứ Đàng Trong ........................... 1
1.1.2. Bản hiệp định thương mại dở dang ...................................................... 1
1.1.3 "Đại sứ đặc mệnh toàn quyền" Bùi Viện ............................................... 2
1.1.4 Trong chiến tranh Đông Dương (1945-1954) ........................................ 3
1.2. QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT – MĨ TRONG CHIẾN TRANH CHỐNG MĨ
( 1954 – 1975) .......................................................................................................... 6
1.3. QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT – MĨ GIAI ĐOẠN (1976-1995) .......................... 7

CHƯƠNG 2: SỰ PHÁT TRIỂN QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT MĨ TỪ NĂM
1995 ĐẾN NAY ........................................................................................... 13
2.1. TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ KHU VỰC .............................................................. 13
2.1.1. Xu thế phát triển lấy kinh tế trọng điểm ............................................. 14
2.1.2. Các nước lớn điều chỉnh quan hệ với nhau theo chiều hướng

xây dựng quan hệ bạn bè chiến lược ổn định và cân bằng hướng
về lâu dài. ........................................................................................................ 15
2.1.3. Sự phát triển nhanh chóng của nền thương
mại thế giới. ................................................................................................... 16
2.1.4. Tính quốc tế hóa của nền kinh tế thế giới được tăng cường mạnh
mẽ do q trình quốc tế hóa rất nhanh của nền tài chính thế giới ............ 17
2.2. LỢI ÍCH CỦA HAI BÊN KHI THIẾT LẬP QUAN HỆ NGOẠI
GIAO ....................................................................................................................... 19
2.2.1. Lợi ích của Mỹ khi thiết lập quan hệ ngoại
giao với Việt Nam. .......................................................................................... 19
luan van, khoa luan 4 of 66.


tai lieu, document5 of 66.
2.2.2. Lợi ích của Việt Nam khi quan hệ với Mỹ ........................................... 22
2.3. QUÁ TRÌNH BÌNH THƯỜNG HÓA QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT – MĨ ....... 23
2.4. NHỮNG NỖI BẬT SAU KHI BÌNH THƯỜNG HĨA QUAN HỆ NGOẠI GIAO
VIỆT – MĨ ................................................................................................................ 25
2.4.1. Về chính trị - ngoại giao ....................................................................... 25
2.4.2. Kinh tế và Thương mại ........................................................................ 29
2.4.2.1 Tình hình Kinh tế thương mại song phương Việt – Mĩ giai
đoạn (1995 – 2000) ................................................................................. 29
2.4.2.2. Tình hình Kinh tế thương mại song phương Việt – Mĩ giai
đoạn 2000 đến nay ................................................................................. 33
2.4.3. Quốc phòng và An ninh ....................................................................... 34
2.4.4.Văn hóa – xã hội .................................................................................. 37
2.4.4.1 Giáo dục ...................................................................................... 37
2.4.4.2. Y tế.............................................................................................. 38
2.4.4.3. Du lịch và Thể thao ................................................................... 39
2.4.5. Khoa học – Công nghệ ........................................................................ 40

2.5. TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT – MĨ TRONG
TƯƠNG LAI ........................................................................................................... 41
KẾT LUẬN

luan van, khoa luan 5 of 66.


tai lieu, document6 of 66.

CHƯƠNG 1: QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT-MĨ TRONG LỊCH SỬ

1.1. QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT – MĨ TRƯỚC NĂM 1954
1.1.1 "Cha đẻ" của nước Mĩ tìm giống lúa xứ Đàng Trong
Trong cuốn US - Vietnam 1787 - 1941, tác giả Hopkins Miller viết rằng
sau khi tuyên bố độc lập (1776), Chính phủ Hoa Kỳ lần đầu tiên đã biết đến
xứ "Cochinchina" tức là "Đàng Trong". Tháng 7.1787, Công sứ Hoa Kỳ tại
Pháp lúc bấy giờ là Thomas Jefferson đang ở Paris tham gia các cuộc đàm
phán thương mại đã ngỏ ý muốn mua giống gạo của xứ Đàng Trong. Ông đã
viết một lá thư cho bạn ở Mỹ: "Ông Poivre người thầu thuế vùng Ile-de France, đang đi thăm nhiều nước châu Á, Ông cho biết là ở Đàng Trong
trồng nhiều giống lúa, có ba giống cần nước, có ba giống mọc ở vùng
cao". Ý định của Jefferson lúc đó rất rõ ràng: "Lúa cạn Đàng Trong nổi
tiếng là trắng thơm và phát triển tốt, tôi sẽ cố cho đem về ít lúa Đàng
Trong". Và vị tổng thống tương lai của Hoa Kỳ lúc đó đã liên hệ với con trai
của Nguyễn Ánh là Hoàng tử Cảnh để tìm giống lúa. 8Do khơng đi tới kết quả
nên 4 tháng trước khi cách mạng Pháp bùng nổ (1789) Jefferson tiếp tục viết
thư cho Malesherbes - chính khách Pháp và cũng là nhà nghiên cứu thực
vật học - với nội dung: "Nếu ngài có thể bận tâm kiếm cho tơi ít giống lúa
Đàng Trong thì thật quả là ông có công lớn đối với đồng hương của
tôi". Nhưng cuối cùng Malesherbes đã không giúp được Jefferson.
1.1.2. Bản hiệp định thương mại dở dang

Năm 1829, khi Tổng thống Andrew Jackson lên nhậm chức, một phái bộ
do Edmund Roberts được đích thân tổng thống cử sang đem theo dự thảo
hiệp định thương mại để có thể thay mặt Chính phủ Mỹ ký với triều đình nhà
Nguyễn. Đầu tháng 1.1832 chiến hạm Peacock chở phái bộ đến Vũng Lấm
(nay thuộc Khánh Hịa) vì cách xa thủ đơ Huế. Vua Minh Mạng lệnh cho Viện

1

luan van, khoa luan 6 of 66.


tai lieu, document7 of 66.

ngoại lang Nguyễn Tri Phương và Tư vụ Lý Văn Phức mở tiệc khoan đãi long
trọng. Vua chuẩn bị cho lần sau đậu thuyền tại vịnh Trà Sơn (tức Cửa Hàn).
Năm 1836 lần thứ hai phái bộ Mỹ vẫn do Edmund Roberts làm trưởng
đoàn, cập bến vịnh Trà Sơn để xin được yết kiến trình quốc thư. Ngay trong
bức thư đầu tiên này, Tổng thống Andrew Jackson đã nói rõ ý định giao hảo
của Chính phủ Hoa Kỳ "thư này sẽ được trình Bệ hạ bởi ngài Edmund
Roberts, một cơng dân khả kính của Hoa Kỳ, được cử làm đặc sứ mang
trọng trách chuyển tới Bệ hạ những việc hệ trọng của bản quốc. Tôi xin
Bệ hạ bảo hộ cho ông ta trong khi phụng mệnh và đối đãi với ông ta
một cách bao dung và tin cậy, xin hãy hồn tồn tin tưởng vào những
gì mà ông ta nhân danh nhắc lại lời cam đoan về tình hữu hảo và thiện
chí đối với Bệ hạ". Tuy nhiên, chuyến đi mở đường này tiếc thay lại chỉ
dừng lại ở một bữa tiệc chiêu đãi và không giải quyết được vấn đề cụ thể.
Nguyên nhân là do Edmund Roberts bị bệnh và mất đột ngột tại Ma Cao,
khơng hồn thành được nhiệm vụ và cũng bỏ lỡ cơ hội bang giao giữa hai
nước.
1.1.3 "Đại sứ đặc mệnh tồn quyền" Bùi Viện

Có thể xem nhà cải cách Bùi Viện như là một "đại sứ đặc mệnh toàn
quyền" đầu tiên của Việt Nam đi sang Mỹ. Một vị đại sứ đặc mệnh mà điểm
đặc biệt là ra đi chỉ một mình, khơng quốc thư, khơng có tùy tùng chính thức.
Một vị đại sứ được quyền tùy ý lựa chọn nước mình đến, và tồn quyền
quyết định vấn đề trao đổi thảo luận.
Nửa cuối thế kỷ XIX, trong lúc Thiên Hoàng Minh Trị đang đưa nước
Nhật Bản tiến mạnh mẽ vào con đường duy tân thì tình hình nước Việt Nam
ngày càng có nguy cơ mất nốt Trung Kỳ, Bắc Kỳ. Vua Tự Đức nhu nhược
trước âm mưu mở rộng xâm lược của thực dân Pháp, bác bỏ đề nghị cách
tân của Nguyễn Trường Tộ và nhiều nhà cách tân tâm huyết khác. Tuy vậy,
ơng vẫn muốn nắm tình hình phương Tây để liệu điều chỉnh chính sách nên
2

luan van, khoa luan 7 of 66.


tai lieu, document8 of 66.

Vua Tự Đức cử Bùi Viện, một nhà nho thức thời và năng động, đi ra nước
ngoài.
Tháng 7.1873 Bùi Viện vượt biển ra đi, sau hai mươi ngày lênh đênh
trên biển ông đến được Hồng Kông. Đầu tiên Bùi Viện đến Lãnh sự Mỹ tại
Hồng Kông. Tại đây ông kết giao với một sứ giả Mỹ và được ông này giúp đỡ
để tiếp kiến Tổng thống Mỹ. Sau đó ơng rời Hồng Kơng sang Nhật Bản và
đến cảng Yokohamaxuống tàu đi Mỹ. Bùi Viện đến San Francisco rồi đến thủ
đô Washington. Ở đây ông được Tổng thống Mỹ Ulysses Grant tiếp và hứa
sẽ giúp Việt Nam bảo vệ đất nước. Nhưng Bùi Viện khơng có quốc thư ủy
nhiệm nào để có ký kết hiệp ước liên kết. Thất vọng, Bùi Viện đành xuống
tàu quay về nước.
Chuyến đi Mỹ lần thứ hai của Bùi Viện là vào năm 1875. Có trong mình

quốc thư của Vua Tự Đức, ông hy vọng sẽ đạt những điều mong muốn. Tuy
nhiên, bối cảnh trên thế giới lúc này các nước đế quốc đã thỏa thuận xong
việc phân chia phạm vi thế lực lần thứ nhất. Pháp cũng đã đứng vững ở
Việt Nam. Cịn Mỹ thì có bao nhiêu việc cần ổn định trong nước sau nội
chiến, tình hình quốc tế cũng chưa có lợi cho họ. Bùi Viện lại ơm mối thất
vọng trở về.
Nếu trước đây Edmund Roberts hai lần tới Việt Nam mà đại sự khơng
thành thì Bùi Viện cũng hai lần sang Mỹ mà cũng trở về tay không, hai nước
vẫn chưa thiết lập được quan hệ ngoại giao. Khi nước Việt Nam trở thành
thuộc địa của Pháp, Mỹ đặt lãnh sự quán tại Sài Gòn và Hà Nội trong lúc đó
họ cai trị Philippin sau khi đánh bại Tây Ban Nha.
1.1.4 Trong chiến tranh Đông Dương (1945-1954)
Cả hai cuộc tiếp cận lịch sử đều thất bại và từ đó Hoa Kỳ từ bờ Thái
Bình Dương đứng nhìn q trình chủ nghĩa thực dân Pháp bóc lột nhân dân
Việt Nam cho tới khi nó bị gót sắt của chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản đè bẹp
trong chiến tranh thế giới thứ II.
3

luan van, khoa luan 8 of 66.


tai lieu, document9 of 66.

Nằm dưới sự đô hộ, cai trị của chủ nghĩa thực dân Pháp, nhân dân Việt
Nam đã không ngừng đấu tranh để giành lại độc lập tự do và khi cách mạng
Tháng 8 - 1945 thắnglợi hoàn toàn, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời
đã chấm dứt hơn 80 năm chế độ Pháp thuộc. Nhưng ngay sau khi giành
được độc lập, theo qui định của Hiệp ước Postdam, Đông Dương chia làm 2
khu vực để giải giáp quân Nhật: khu vực phía Bắc từ vĩ tuyết 16 trở lên, khu
vực phía Nam từ vĩ tuyến 16 trở xuống. Quân Tưởng Giới Thạch kéo vào

miền Bắc Việt Nam, quân Anh kéo vào miền Nam Việt Nam đại diện cho lực
lượng đồng minh giải giáp quân Nhật.
Ngay trong thời kỳ này, giữa Việt Nam và Mỹ cũng bắt đầu có quan hệ
bang giao thơng qua hợp tác tích cực chống quân đội Phát xít. Trong chiến
tranh thế giới thứ hai, khi nước Mỹ tham gia đồng minh, đang trong hàng ngũ
lực lượng dân chủ toàn thế giới chống phe trục: Đức - Ý - Nhật, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chủ động đặt quan hệ với Mỹ. Trong suốt thời gian lưu lại Trung
Quốc, sau khi được chính quyền Tưởng Giới Thạch trả tự do (1943-1944),
Hồ Chí Minh đã làm quen với một số sỹ quan Mỹ đang hoạt động ở Trung
Quốc. Trong chuyến đi Côn Minh, Trung uý Mỹ Charles Fenn gặp Hồ Chí
Minh ngày 17/3 rồi lại gặp ngày 20/3 Fenn ngỏ ý mong muốn được Việt Minh
giúp đỡ. Hồ Chí Minh nhận lời nhưng nói khơng có phương tiện thơng tin. Do
sự sắp xếp của Fenn, Hồ Chí Minh gặp tướng Claire I.Chennault, tư lệnh
qn đồn khơng qn 14 của Mỹ. Ngày 27/4 Hồ Chí Minh trên đường về
nước gặp thiếu tá Archimeder L.A.Patti thuộc tổ chức OSS tại một làng nhỏ
gần Tĩnh Tây (Trung Quốc). Cùng đi với Người là 2 người Mỹ: Franckie Tan,
gốc Hoa và Maxim.
Ngày 16/7, thiếu tá Thomas cùng một số người Mỹ nhảy dù xuống làng
Kimlung và được bố trí ở Tân Trào (Tuyên Quang). Số người Mỹ này làm
việc liên lạc với cơ quan Mỹ ở Côn Minh và huấn luyện kỹ thuật cho một số
cán bộ quân sự của quân giải phóng. Người Mỹ cũng đã cung cấp cho Việt
Minh một số vũ khí, thuốc men bằng cách thả dù xuống khu căn cứ Việt Bắc
4

luan van, khoa luan 9 of 66.


tai lieu, document10 of 66.

hoặc đưa đến Nam Ninh (Trung Quốc) để Việt Minh chuyển về nước. Đến

tháng 8 thì nhóm Thomas theo qn du kích của Hồ Chí Minh xuôi về Hà Nội,
trở thành nhân chứng của một trong những sự tích thần kỳ nhất trong lịch sử
Việt Nam - ngày Việt Nam tuyên bố độc lập.
Với cương vị Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, lại trực tiếp
phục trách cơng tác ngoại giao, Hồ Chí Minh đã thảo bản tuyên bố về chính
sách ngoại giao trong đó khẳng định chủ trương quan hệ hồ bình hữu nghị
với tất cả các nước trên thế giới, trên cơ sở bình đẳng, tơn trọng độc lập chủ
quyền của mỗi nước. Với Mỹ, Hồ Chí Minh tiếp tục duy trì những quan hệ đã
có trong chiến tranh. Nhân dân Chính phủ Việt Nam, Người đã gửi hàng chục
bức thư, điện, cơng hàm tới Tổng thống Truman, Chính phủ và Bộ Ngoại
giao Mỹ. Nội dung của các văn bản ấy xoay quanh vấn đề yêu cầu Mỹ ủng hộ
nền độc lập của Việt Nam, khẳng định sự hợp tác của Nhà nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà.
Tháng 10/1945 Tổng thống Truman ra tuyên bố 12 điểm về chính sách
đối ngoại của Mỹ, Hồ Chí Minh đã bày tỏ thái độ hoan nghênh và mong muốn
Chính phủ Mỹ sẽ thực hiện đúng tinh thần của Bản tuyên bố, ủng hộ chủ
quyền của các dân tộc nhược tiểu. Song lúc này Chính phủ Mỹ đã ngả hẳng
sang chủ trương ủng hộ Pháp trở lại Đông Dương. Những cố gắng trong
quan hệ ngoại giao chính thức với Mỹ đã khơng đạt kết quả. Tuy vậy, Việt
Nam vẫn luôn chú ý đến việc giữ tôn trọng của Chính phủ mình đối với vai trị
của Mỹ trong đồng minh, sự có mặt của đại diện phái bộ Mỹ trong các buổi lễ
ký Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946 cũng như trong các văn bản mà Chủ tịch
Hồ Chí Minh gửi cho Chính phủ Mỹ đã nói lên điều đó.
Trong thời gian này, tuy quan hệ ngoại giao chính thức khơng thành
cơng nhưng quan hệ của Việt Nam với Chính phủ Mỹ vẫn có dấu hiệu khả
quan thơng qua hình thức ngoại giao nhân dân mà điển hình là Hội hữu nghị
Việt - Mỹ.

5


luan van, khoa luan 10 of 66.


tai lieu, document11 of 66.

Ngày 2/9/1947, trong thư gửi Việt - Mỹ ái hữu hội, Hồ Chủ Tịch đã viết:
"Chúng ta không bao giờ quên sự hợp tác giúp đỡ thân ái của các bạn
người Mỹ hồi chúng ta du kích chống Nhật và chúng ta mong rằng sự
hợp tác đó được tiếp tục trong cuộc tranh đấu của chúng ta chống thực
dân phản động Pháp giành thống nhất và độc lập. Chúng ta mong rằng
Hoa Kỳ, nước đầu tiên đã tranh đấu cho nền độc lập và dân chủ của
quốc gia,... sẽ giúp chúng ta trong công cuộc đấu tranh giải phóng hiện
nay và trong cơng cuọc kiến thiết xây dựng sau này".
Trong chiến tranh Đông Dương (1945-1954), Mỹ đã giúp Pháp trong
cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam và tái chiếm thuộc địa của họ. Đến cuối
chiến tranh, 80% chiến phí chủ yếu của Pháp do Mỹ tài trợ, lên đến 1,5
tỷ USD. Trong trận Điện Biên Phủ, Mỹ trực tiếp chở khoảng 16 ngàn
quân Pháp vào Điện Biên Phủ và hỗ trợ không quân cho quân đội Pháp. Nhờ
điều đó mà thực dân Pháp mới có thể duy trì được cuộc chiến.
1.2. QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT – MĨ TRONG CHIẾN TRANH CHỐNG MĨ
( 1954 – 1975)
Trong Chiến tranh Việt Nam (1954-1975), sau khi Pháp thua, Mỹ đã thế
chân Pháp can thiệp trực tiếp vào Việt Nam dựng lên chính quyền tay sai
Ngơ Đình Diêm đã chứng tỏ rõ ràng ý đồ của Mỹ. Ngày 23/10/1954, khi
Eisenhour gửi bức thư cho Ngơ Đình Diệm cam kết Mỹ ủng hộ hoàn toàn và
sẽ viện trợ đối với chế độ của ơng ta. chính phủ Mỹ hậu thuẫn Việt Nam
Cộng hòa chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa rồi cả Mặt trận Giải phóng
miền Nam.
Mỹ có tham gia Hội nghị Geneve năm 1954 với một phái đoàn do Bedell
Smith làm trưởng đoàn nhưng cũng như phái đoàn Quốc gia Việt Nam,

khơng ký bản hiệp định. Khi chính phủ Đệ nhất Cộng hịa Việt Nam của Tổng
thống Ngơ Đình Diệm từ chối tổng tuyển cử, Hoa Kỳ cũng ủng hộ lập trường
đó. Dựa trên thuyết Domino trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh Hoa Kỳ tăng
viện trợ cho Việt Nam Cộng Hịa. Đến năm 1963 có hơn 16.000 cố vấn quân
6

luan van, khoa luan 11 of 66.


tai lieu, document12 of 66.

sự Hoa Kỳ và đến đầu năm 1965 thì Tổng thống Lyndon B. Johnson cho đổ
bộ lực lượng Thủy quân lục chiến, chính thức tham chiến. Đến năm 1973, đã
có trên 600.000 binh lính Mỹ và đồng minh chiến đấu trên chiến trường miền
Nam Việt Nam.
Năm 1967 ta mở mặt trận ngoại giao phối hợp với mặt trận quân sự và
mặt trận chính trị cùng đánh Mỹ. Ta tăng cường đồn kết với Liên Xơ và
Trung Quốc cùng các nước xã hội chủ nghĩa khác, củng cố và phát triển mặt
trận nhân dân Đơng Dương, đồn kết với phong trào phản chiến ở Mỹ, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Tuy nhiên, Nhà nước Việt Nam luôn luôn phân biệt rõ bạn - thù, phân
biệt rõ nhân dân Mỹ với những nhà cầm quyền của Mỹ theo đuổi chính sách
chiến tranh. Mục đích của nhân dân Việt Nam là đấu tranh để giành độc lập
tự do, đem lại hạnh phúc cho dân tộc và chung sống hồ bình với cộng đồng
thế giới trên cơ sở bình đẳng, hữu nghị. Vì vậy Chính phủ và nhân dân Việt
Nam sẵn sàng đàm phán với điều kiện là quân Mỹ phải rút khỏi cuộc chiến
tranh Việt Nam. Với mục đích đó, ta chủ trương buộc địch xuống thang từng
bước, giành thắng lợi từng phần. Sau thắng lợi tết Mậu Thân (1968), Mỹ
buộc phải ngồi vào bàn đàm phán, mở cho ta cục diện vừa đánh vừa đàm,
kết hợp đấu tranh quân sự và ngoại giao, tạo điều kiện cho thắng lợi sau này.

Sau bốn năm kiên trì đấu tranh, thương lượng, vào năm 1973, Mỹ phải
ký Hiệp định Paris, với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và rút quân chính quy ra
khỏi chiến trường miền Nam Việt Nam.
Trong cuộc chiến này, quân đội Hoa Kỳ đã gây ra nhiều tội ác đối với
dân thường Việt Nam, mà nghiêm trọng nhất là chất độc màu da cam (chất
độc DIOSIN) gây ra hậu quả đến ngày nay.
1.3. QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT – MĨ GIAI ĐOẠN (1976-1995)
Khoảng tháng 6 năm 1975, Việt Nam có nhờ Liên Xơ chuyển cho Mỹ
một thơng điệp khơng chính thức: "Lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
7

luan van, khoa luan 12 of 66.


tai lieu, document13 of 66.

tán thành có quan hệ tốt với Mỹ trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau. Trên tinh
thần đó, phía Việt Nam đã tự kiềm chế trong khi giải phóng, tạo cơ hội
cho người Mỹ khơng bị cản trở trong việc tiến hành di tản nhân viên
của họ. Phía Việt Nam đã cố gắng làm mọi sự cần thiết để không làm
xấu đi quan hệ với Mỹ trong tương lai. Khơng có sự thù địch với Mỹ ở
Việt Nam và Việt Nam cũng không muốn thấy như vậy ở phía Mỹ". Tiếp
theo đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói trước Quốc hội: "Việt Nam mời
gọi Hoa Kỳ bình thường hóa và u cầu chính quyền Mỹ chi tiền tái thiết
như đã hứa".
Ngày 7 tháng 5 năm 1976, Tổng thống Gerald R. Ford đề nghị Quốc hội
Hoa Kỳ tạm ngưng cấm vận Việt Nam trong sáu tháng để tạo điều kiện cho
việc đối thoại giữa hai nước. Ngày 8 tháng 5 năm 1976, Bộ trưởng Ngoại
giao Henry Kissinger gửi công hàm cho Quốc Vụ khanh Bộ Ngoại
giao Nguyễn Cơ Thạch, đề nghị thảo luận vấn đề bình thường hóa quan hệ

hai nước
Ngày 6 tháng 1 năm 1977, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đưa ra lộ trình ba
bước bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Và phía Hoa Kỳ cũng đưa ra
điều kiện để nối lại bang giao là Việt Nam phải làm đầy đủ hồ sơ về lính Mỹ
mất tích (MIA), trao trả hài cốt lính Mỹ. Phía Việt Nam cũng địi Hoa Kỳ phải
bồi thường chiến tranh, trong khi đó Hoa Kỳ cho rằng Việt Nam đã vi
phạm Hiệp định Paris nên không thể bàn đến khoản tiền bồi thường.
Trong 2 năm 1975-1976, Mỹ 3 lần phủ quyết việc Việt Nam gia nhập
Liên Hiệp Quốc Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân
hàng phát triển Châu Á (ADB). Mỹ làm ngơ trước thiện chí mà Chính phủ ta
đã nhiều lần bày tỏ để tạo điều kiện cho 2 bên có thể gặp nhau, nhằm giải
quyết vấn đề còn lại giữa 2 bên.
Năm 1977, khi Jimmy Carter nhậm chức tổng thống, ông đã nỗ lực đẩy
mạnh việc bình thường hóa quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ. Tháng 3 năm 1977,
Carter gửi một phái đoàn sang Hà nội do ông L.Woodcook dẫn đầu để bàn
8

luan van, khoa luan 13 of 66.


tai lieu, document14 of 66.

về việc nối lại bang giao. Ngày 17 tháng 3 năm 1977, tại Hà Nội, Phó Thủ
tướng Nguyễn Duy Trinh đã tiếp Leonard Woodcock. Ngày 4 tháng 5 năm
1977, chính quyền Carter đồng ý để Việt Nam vào Liên Hiệp Quốc.
Ngày 3 tháng 5 năm 1977, phiên đàm phán đầu tiên giữa hai phái đoàn
Việt Nam - Hoa Kỳ đã diễn ra tại Paris. Phía Việt Nam khăng khăng địi Mỹ
phải chi 3,25 tỷ đơ-la bồi thường chiến tranh. Phía Hoa Kỳ đề nghị bình
thường hóa trước, viện trợ sau. Trưởng đoàn đàm phán Phan Hiền báo cáo
với ông Nguyễn Cơ Thạch, ông Thạch thuyết phục Bộ Chính trị nhưng khơng

được.
Trong khi các cuộc đàm phán giữa Việt Nam và Hoa Kỳ chưa có một
chút biến chuyển gì thì tình hình quốc tế có nhiều thay đổi. Khi Biên giới Tây
Nam được đặt trong tình trạng chiến tranh và Trung Quốc đã được Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là kẻ thù, Việt Nam bắt
đầu nhận thấy vai trò quan trọng của việc bình thường hóa với Hoa Kỳ, một
siêu cường trên thế giới. Đầu năm 1978, tại Tokyo, ông Phan Hiền thứ
trưởng Ngoại giao Việt Nam tuyên bố: "Việt Nam sẵn sàng bình thường
hóa vơ điều kiện với Hoa Kỳ". Nhưng lúc này Mỹ và Trung Quốc bắt đầu có
sự hợp tác để đi đến bình thường hố quan hệ, Mỹ đã bàn với Trung Quốc
để xây dựng mối quan hệ chiến lược lâu dài giữa 2 nước trong đó có cả việc
phối hợp để chống Liên Xơ. Cuối 1978, Trung Quốc và Mỹ xúc tiến đàm phán
để bình thướng hoá quan hệ. Đối với Việt Nam, Tổng thống Mỹ J.Carter đã
quyết định xếp lại kế hoạch đàm phán. Vậy là cơ hội thiết lập quan hệ ngoại
giao Việt - Mỹ một lần nữa lại tuột khỏi tầm tay và bị bỏ lỡ.
Trong một nỗ lực cuối cùng, tháng 10 năm 1978, Nguyễn Cơ Thạch hối
thúc các nhà đàm phán Hoa Kỳ ký thỏa thuận bình thường hóa. Nhưng Hoa
Kỳ đã từ chối khéo: "Mỹ không thay đổi lập trường bình thường hóa
quan hệ với Việt Nam, nhưng phải chậm lại vì cần làm rõ ba vấn đề: sự
thù địch của Việt Nam với Campuchia; Hiệp ước Việt-Xơ và tình trạng
gia tăng thuyền nhân Việt Nam". Tuy nhiên theo ông Trần Quang Cơ viết
9

luan van, khoa luan 14 of 66.


tai lieu, document15 of 66.

trong hồi ký "Hồi ức và suy nghĩ" thì: "Tơi nghĩ, thực ra Mỹ đã quyết định
dứt bỏ q trình đàm phán bình thường hố quan hệ với Việt Nam từ

khi Việt Nam tham gia khối Comecon, tháng 6-1978, và sau đó, ký hiệp
ước với Liên Xơ". Sau đó thì việc bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ bị gián
đoạn bởi các cuộc Chiến tranh biên giới Tây Nam và Chiến tranh biên giới
Việt - Trung.
Trong thập niên tám mươi chính quyền của Tổng thống Reagan (19801988) phản đối việc bình thường hóa cho đến khi có sự xác nhận Việt Nam
đã rút hết quân ở Campuchia và có sự hợp tác đầy đủ của Việt Nam trong
việc tìm kiếm những người Mỹ mất tích.
Ngày 20/1/1988 Tổng thống Regan tuyên bố: Trong khung cảnh một giải
pháp cho vấn đề Campuchia bao gồm Việt Nam rút hoàn toàn quân đội ra
khỏi Campuchia, Mỹ sẵn sàng đi vào bình thường hố quan hệ với Việt Nam
trên cơ sở tiến bộ trong vấn đề MIA trở lại trại cải tạo.
Năm 1989, Tổng thống Bush đắc cử và đã quyết định thay đổi chính
sách đối với Việt Nam, mở ra một thời kỳ mới với nhiều hy vọng.
Ngày 26/9/1989, Việt Nam hoàn thành việc rút quân khỏi Campuchia.
Ngày 6/8/1990 đối thoại Việt - Mỹ vòng 1 giữa đại sứ Trịnh Xuân Lãng
và Phó trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao K.Quyn về quan hệ Việt - Mỹ.
Từ ngày 29 đến 30/9/1990 Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch gặp
Bộ trưởng Ngoại giao Giêm UBây - Cơ tại Niu Joóc.
Ngày 9/4/1991, phía Mỹ đưa ra lộ trình (Roadmaping) bốn bước bình
thường hoá quan hệ với Việt Nam lần đầu tiên đưa ra cơng khai, chính thức
chính sách đối với Việt Nam.
Ngày 20/4/1991, Tướng Vétxi vào Việt Nam lần 2, bàn về vấn đề lập văn
phòng MIA tại Hà Nội.

10

luan van, khoa luan 15 of 66.


tai lieu, document16 of 66.


Ngày 25/4/1991 phía Mỹ tuyên bố lần đầu tiên viện trợ 1 triệu USD giúp
Việt Nam về lĩnh vực chân tay giả.
Ngày 23/10/1991 Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm gặp bộ trưởng
Ngoại giao Mỹ Giêm Bây - Cơ tại Pari nhân dịp ký Hiệp định Pari về Campuchia.
Từ 31/1/1992 đến 1/2/1992 đặc phái viên tướng G. Vét - xi vào Việt Nam
lần thứ tư bàn về các biện pháp thúc đẩy vấn đề MIA và các vấn đề khác
trong quan hệ Việt - Mỹ.
Ngày 8/10/1992 Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm gặp ngoại
trưởng Mỹ Eagleburger và Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Chenry lần đầu tiên tại
Bộ ngoại giao Mỹ trao đổi về quan hệ giữa hai nước.
Ngày 23/10/1992, Tổng thống Bush tuyên bố rằng Mỹ sẽ nhanh chóng
tiến tới bình thướng hố, kể cả bãi bỏ cấm vận, nếu những tấm ảnh và bằng
chứng mà Việt Nam trao có thể bổ xung cho việc giải quyết số phận các quân
nhân Mỹ bị mất tích, những người mà Mỹ tin rằng Việt Nam có những tin tức
cuối cùng.
Năm 1993, Bill Clinton đắc cử Tổng thống Mỹ. Chính quyền của Clintơn
cũng kế thừa chính sách "lộ trình" của chính quyền G.Bush, trong đó cốt lõi
của q trình bình thường hố quan hệ vẫn là "tốc độ và qui mơ" của q
trình bình thường hố bị tác động bởi sự hợp tác của Việt Nam về vấn đề
POW/MIA. Tuy rằng lộ trình 4 giai đoạn cho quá trình bình thường hố quan
hệ với Việt Nam do chính quyền Mỹ cơng bố tháng 4/1991 khơng chính thức
được coi là bản chỉ dẫn tuyệt đối cho việc cải thiện quan hệ 2 nước nhưng
trên thực tế nhiều bước đi đã diễn ra theo đúng lịch trình này. Ở giai đoạn 3,
có 2 điều kiện Việt Nam phải thực hiện là:
Một là tiếp tục ủng hộ và khuyến khích sự ủng hộ của Chính phủ Phnơm
Pênh với Hiệp định hồ bình Campuchia, rút hết các cố vấn, lực lượng quân
sự Việt Nam ra khỏi Camuchia.

11


luan van, khoa luan 16 of 66.


tai lieu, document17 of 66.

Hai là Giải quyết các trường hợp POW/MIA không trùng khớp thông tin.
Trên thực tế, điều một Việt Nam đã hoàn thành và điều hai cũng được giải
quyết tích cực với sự giúp đỡ to lớn của Việt Nam. Phía Mỹ đã thực hiện đầy
đủ các điều ghi trong khoản 3: Huỷ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận kinh tế đối với
Việt Nam ngày 3/2/1994, mở văn phòng liên lạc và ngoại giao tại Hà Nội và
mời Việt Nam lập văn phòng tại Washingtơn cũng như ủng hộ các cơ quan
hành chính quốc tế viện trợ để đáp ứng các nhu cầu cơ bản của con người ở
Việt Nam.
Ở giai đoạn 4, khơng có địi hỏi bổ xung yêu cầu Việt Nam thực hiện
trong giai đoạn này, Mỹ sẽ lập quan hệ ngoại giao cấp Đại sứ với Việt Nam,
xem xét việc giành chế độ tối huệ quốc cho buôn bán với Việt Nam của Mỹ.
Ngày 28/1/1995, Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Mỹ chính thức thông
báo mở cơ quan liên lạc ở thủ đô 2 nước.
Với nỗ lực và thiện trí của cả hai bên, 7/1995 chính thức bình thường
hố quan hệ ngoại giao. Đây là một bước đi quan trọng đáp ứng nguyện
vọng của nhân dân hai nước, phù hợp với xu thế phát triển hiện nay của
tình hình quốc tế, đồng thời góp phần vào sự nghiệp hồ bình, ổn định và
phát triển ở Đông Nam Á.

12

luan van, khoa luan 17 of 66.



tai lieu, document18 of 66.

CHƯƠNG 2: SỰ PHÁT TRIỂN QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT MĨ TỪ
NĂM 1995 ĐẾN NAY

2.1. TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ KHU VỰC
Sau khi trật tự hai cực tan rã, tình hình thế giới đã có nhiều diễn biến
thay đổi với những nét nổi bật là :
Một là, thế giới phát triển nhanh chóng theo hướng đa cực, tuy vậy cục
diện đa cực chưa hẳn đã hình thành mà đang trải qua thời kỳ quá độ từ Trật
tự cũ để tiến tới một Trật tự mới. Có người dự đoán thời kỳ quá độ này phải
kéo dài trong nhiều năm, có thể từ 30 đến 50 năm, bởi sự chuyển đổi cục
diện thế giới lần này mang đặc điểm mới, quan trọng nhất là không trải qua
chiến tranh như các cục diện trước kia. Thế giới hiện đang trong tình hình
"một siêu cường, nhiều cường quốc", đó là các nước Mỹ, Tây Âu (EU)
Nhật Bản, Nga và Trung Quốc.
Hai là, sự tan rã của Liên Xô đã tạo ra cho Mỹ một lợi thế tạm thời. Là
cực duy nhất còn lại, Mỹ ra sức củng cố vị trí siêu cường, mưu đồ giữ vai trị
chi phối bá chủ thế giới. Nhưng mặt khác, tuy là cực duy nhất cịn lại, nhưng
tình hình thế giới lại khơng phải là thế giới một cực. Mỹ đã bị suy yếu tương
đối, mâu thuẫn lớn nhất của Mỹ là giữa tham vọng bá chủ và khả năng thực
hiện của nó. Rõ ràng là Mỹ không muốn sự phát triển của thế giới theo chiều
hướng đa cực, ra sức điều chỉnh chính sách đối nội và đối ngoại, tăng cường
năng lực cạnh tranh, xây dựng Trật tự thế giới mới do Mỹ lãnh đạo, làm cho
sự thay đổi của thế giới đi theo quỹ đạo có lợi cho Mỹ.
Ba là, hịa bình thế giới được củng cố, nguy cơ chiến tranh thế giới bị
đẩy lùi rõ rệt, nhưng hịa bình ở nhiều khu vực bị đe dọa, thậm chí ở nhiều
nơi xung đột quân sự, nội chiến diễn ra ác liệt. Đó là các mâu thuẫn về sắc
13


luan van, khoa luan 18 of 66.


tai lieu, document19 of 66.

tộc, tôn giáo, tranh chấp lãnh thổ... vốn bị che đậy dưới thời chiến tranh lạnh
nay bộc lộ thành xung đột gay gắt. Phần lớn những mâu thuẫn, tranh chấp
này đều có căn nguyên lịch sử, nên việc giải quyết khơng thể nhanh chóng
và dễ dàng.
Từ những thay đổi của tình hình thế giới, tuy Trật tự quốc tế mới chưa
hình thành, nhưng trong gần một thập kỷ sau chiến tranh lạnh, có thể thấy
những xu thế mới phát triển nổi bật trên thế giới là :
2.1.1. Xu thế phát triển lấy kinh tế trọng điểm
Bài học của thời kỳ chiến tranh lạnh đã chứng tỏ phương pháp quan hệ
quốc tế lấy đối đầu chính trị - qn sự là chủ yếu khơng cịn phù hợp, phải
chịu nhiều tổn thất hoặc thất bại như hai nước Mỹ - Xô và "một bị thương
một bị mất". Trong khi đó, phương thức lấy hợp tác và cạnh tranh về kinh tế
- chính trị là chính lại thu được nhiều tiến bộ, kết quả như các nước Đức,
Nhật và NIC. Sự hưng thịnh hay suy vong của một quốc gia được quyết định
bởi sức mạnh tổng hợp của quốc gia đó, mà chủ yếu là thực lực kinh tế và
khoa học - kỹ thuật.
Vì vậy, sau chiến tranh lạnh, tất cả các quốc gia đều đang ra sức điều
chỉnh chiến lược phát triển và tập trung mọi sức lực vào ưu tiên phát triển
kinh tế. Trong thời điểm hiện nay, kinh tế trở thành trọng điểm trong quan hệ
quốc tế, cạnh tranh sức mạnh tổng hợp quốc gia thay thế cho chạy đua vũ
trang đã trở thành hình thức chủ yếu trong đọ sức giữa các cường quốc.
Những cân nhắc về địa - kinh tế trên mức độ nào đó đã vượt q tính tốn về
địa - chính trị.
Các nước ngày càng nhận thức sâu sắc rằng, sức mạnh của mỗi quốc
gia là một nền sản xuất phồn vinh, một nền tài chính lành mạnh và một nền

cơng nghệ có trình độ cao và đó mới là cơ sở để xây dựng sức mạnh thật sự
của mỗi quốc gia.

14

luan van, khoa luan 19 of 66.


tai lieu, document20 of 66.

Trong tác phẩm "Sự hưng thịnh và suy vong của các cường quốc"
xuất bản năm 1988, Paul Kennedy nhà sử học Mỹ đã nghiên cứu nguyên
nhân quy luật hưng thịnh và suy vong của các nước lớn trên thế giới trong
500 năm gần đây. Tác giả nhấn mạnh, các nguồn lực kinh tế, sự phát triển
khoa học - kỹ thuật, sức mạnh quân sự tạo nên sức mạnh tổng hợp của đất
nước, quyết định vị trí quyền lực của đất nước trong cục diện thế giới. Sự
phát triển hay suy thoái của các yếu tố này tạo nên sự hưng thịnh và suy
vong không chỉ của các cường quốc mà cả các quốc gia khác trong một thế
giới phức tạp đan xen và phụ thuộc nhau.
2.1.2. Các nước lớn điều chỉnh quan hệ với nhau theo chiều hướng xây
dựng quan hệ bạn bè chiến lược ổn định và cân bằng hướng về lâu dài.
Đây là đặc điểm chủ yếu và nổi bật của quan hệ giữa các nước lớn trong
thời kỳ sau chiến tranh lạnh. Sự điều chỉnh ấy là to lớn và sâu sắc. Xuất phát
từ lợi ích chiến lược căn bản của mình, các cường quốc tiến hành điều chỉnh
lại chính sách đối ngoại để tìm chỗ đứng tốt nhất, xây dựng khn khổ quan
hệ mới ổn định lâu dài, xác lập các điều kiện quốc tế có lợi hơn, mở rộng hệ
thống an ninh quốc gia, tạo ra khơng khí quốc tế để xây dựng kinh tế nước
mình như mục tiêu chủ yếu trong quá trình điều chỉnh
Tháng 7/1997, Thủ tướng Nhật Bản Hashimoto đề ra ba nguyên tắc đối
với Nga là "Tin cậy lẫn nhau, cùng có lợi, hướng về lâu dài". Với quan hệ

Nhật - Trung, ông đưa ra bốn nguyên tắc : "Hiểu biết lẫn nhau, tăng cường
đối thoại, mở rộng hợp tác, hình thành trật tự chung" (9/1997). Về phía
Trung Quốc, đầu tháng 11/1997, khi sang thăm Nhật Bản, Thủ tướng Lý
Bằng lại đưa ra năm nguyên tắc trong quan hệ với nước này là :"Tôn trọng
lẫn nhau, không can thiệp vào cơng việc nội bộ của nhau; tìm kiếm
điểm chung, gác lại bất đồng, giải quyết thỏa đáng những vấn đề bất
đồng; tăng cường đối thoại, tăng thêm hiểu biết lẫn nhau; tạo thuận lợi
và cùng có lợi, phát triển sự hợp tác kinh tế; hướng tới tương lai, đời
đời hữu nghị". Cuối tháng 10/1997, khi sang thăm Mỹ, Chủ tịch nước CHND
15

luan van, khoa luan 20 of 66.


tai lieu, document21 of 66.

Trung Hoa Giang Trạch Dân đã đổi bốn câu trong cuộc gặp cấp cao đầu tiên
vào năm 1993 "Tăng thêm tín nhiệm, giảm bớt phiền phức, phát triển
hợp tác, không đối đầu" thành "Tăng cường hiểu biết, mở rộng nhận
thức chung, phát triển hợp tác, cùng tạo ra tương lai". Giữa hai nước
Liên bang Nga và Trung Quốc đã có nhiều cuộc gặp gỡ cao cấp. Trong bản
tuyên bố thứ 5, hai nước chủ trương xây dựng quan hệ đối tác chiến lược,
thực hiện chính sách láng giềng hữu nghị. Tổng thống Pháp Jacques Chirac
chủ trương xây dựng "Quan hệ đối tác toàn diện" giữa Pháp và Trung
Quốc. Ông cũng kiến nghị với châu Âu thiết lập "Quan hệ đối tác đặc biệt
với Nga...".
2.1.3. Sự phát triển nhanh chóng của nền thương mại thế giới.
Thương mại thế giới đã tăng 5 lần trong 23 năm (1948-1971), trong khi
chỉ tăng 10 lần trong 100 năm trước đó (1850-1948). Thương mại thế giới
tăng nhanh hơn sự tăng trưởng của kinh tế thế giới. Từ những năm 50 đến

những năm 70, tốc độ phát triển kinh tế của thế giới là 5,9%, nhưng tốc độ
phát triển của thương mại thế giới từ 1948 đến 1971 là 7,3%. Thương mại
quốc tế tăng có nghĩa là nền kinh tế của các nước trên thế giới quan hệ chặt
chẽ và phụ thuộc lẫn nhau, tính quốc tế hóa của nền kinh tế thế giới tăng lên.
Ngoại thương đóng vai trị rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế của
các nước trên thế giới. Những nước xuất khẩu nhiều nhất thì cũng là những
nước có nền kinh tế phát triển nhất. 24 nước công nghiệp phát triển của Tổ
chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) chỉ chiếm 14,5% dân số thế giới,
nhưng sản xuất ra 71,4% tổng sản phẩm thế giới và nắm 60% xuất khẩu thế
giới. Ngoại thương chiếm từ 40-60% tổng sản phẩm của các nước Tây Âu.
Cuộc cách mạng về liên lạc viễn thông với những máy tính, vệ tinh viễn
thơng, sợi quang học và việc vận chuyển cực nhanh của điện tử đã thúc đẩy
mạnh mẽ q trình tồn cầu hóa nền kinh tế thế giới. Đã hình thành một hệ
thống liên lạc tồn cầu. Tốc độ thơng tin tồn cầu được tăng lên hàng triệu
16

luan van, khoa luan 21 of 66.


tai lieu, document22 of 66.

lần. Khơng có hệ thống này thì khơng thể ra đời những cơng ty xun quốc
gia và khơng thể có cuộc cách mạng về tài chính trên thế giới.
2.1.4. Tính quốc tế hóa của nền kinh tế thế giới được tăng cường mạnh
mẽ do quá trình quốc tế hóa rất nhanh của nền tài chính thế giới.
Việc chấm dứt tình trạng chia cắt thế giới thành hai hệ thống xã hội đối
lập nhau càng thúc đẩy nền kinh tế thế giới trở thành tồn cầu hóa
Ngày nay hầu như ở khắp các lục địa, khu vực đều có các tổ chức liên
minh kinh tế với những quy mô lớn, nhỏ khác nhau. ở châu Âu, lớn nhất là
Thị trường chung châu Âu hình thành từ 1975. Tháng 12/1992 Hiệp định

Mastricht thành lập Liên minh châu Âu (EU), thành lập liên minh kinh tế và
quyết định thống nhất về tiền tệ và phát hành đồng tiền chung EURO vào
tháng 1/1999. 24 nước công nghiệp phát triển thành lập Tổ chức hợp tác và
phát triển kinh tế OECD vào tháng 12/1960 và nay bao gồm 29 nước. ở châu
Mỹ, năm 1994 thành lập Thị trường tự do thương mại Bắc Mỹ (Mỹ, Canađa,
Mêhicô) và đang mở rộng cả châu Mỹ thành một thị trường tự do. Trước đó,
năm 1975 các nước Mỹ La tinh thành lập Tổ chức hệ thống kinh tế Mỹ La
tinh (SELA) với 26 nước thành viên nhằm phối hợp các kế hoạch phát triển,
tạo điều kiện cho những quá trình liên kết và trao đổi thông tin giữa các
nước. ở Đông Nam Á, tổ chức ASEAN được thành lập năm 1967, đã trở
thành ASEAN - 10 và hình thành một khu vực thương mại tự do (ASEANAFTA) trong vòng 15 năm. Năm 1985, bảy nước ở Nam Á và Ấn Độ,
Pakixtan, Băngla Đét, Nêpan, Sri Lanca, Butan và Cộng hòa Manđivơ thành
lập Hội hợp tác khu vực Nam Á (SAARC) với mục tiêu là góp phần phát triển
kinh tế và văn hóa, tiến bộ xã hội ở Nam Á thông qua sự hợp tác nhiều bên
Tuy nhiên, trong quá trình hợp tác và hội nhập vào nền kinh tế thế giới
có khoảng cách giữa các nước giàu và nước nghèo là rất lớn dẫn đến sự
phát triển không đồng đều giữa các nước. Những nước nghèo và kém phát
triển sẽ bị cạnh tranh trong tình trạng bất bình đẳng bởi các nước giàu có
vốn, khoa học kỹ thuật cao sẽ luôn đặt ra những điều kiện khắt khe khi hợp
17

luan van, khoa luan 22 of 66.


tai lieu, document23 of 66.

tác kinh tế mà với khả năng của mình các nước nghèo chưa thể đáp ứng
được. Do vậy vấn đề đặt ra là các nước có nền kinh tế kém phát triển như
nước ta phải làm thế nào để vượt qua những thách thức mà lại tận dụng
được các mặt lợi của quá trình hội nhập và những thành tựu mới của khoa

học công nghệ để cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước thành cơng.
Đối với khu vực Châu Á - Thái Bình Dương trong thời kỳ sau chiến tranh
lạnh đã khiến toàn thế giới coi trọng, đó là sự phát triển năng động của nền
kinh tế khu vực này với tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới. Điều đó khơng
phải là vấn đề mới mà nó đã có ngay từ những năm khi chiến tranh lạnh ở
đỉnh cao nhất. Bắt đầu là "sự thần kỳ" của Nhật Bản vào cuối thập niên 60
và sự xuất hiện của 4 con rồng Châu Á vào cuối thập niên 70, sau đó là Thái
Lan, Malaysia,...
Năm 1989, ở châu Á - Thái Bình Dương cũng đã hình thành khu vực
hợp tác kinh tế APEC gồm 21 nước (thuộc Đơng Bắc Á, Bắc Mỹ, Nam Mỹ,
Nam Thái Bình Dương và ASEAN). Tháng 3/1996 Hội nghị cấp cao châu Âu
và châu Á (ASEM) gồm 25 nước ở châu Âu và châu Á cộng thêm Uỷ viên
Ban châu Âu (EU) lần đầu tiên nhóm họp nhằm liên kết kinh tế hai khu vực
lớn trên thế giới .
Điều mới cần nói ở đây là sau chiến tranh lạnh, kinh tế Châu Á - Thái
Bình Dương vẫn giữ được đà phát triển ngoạn mục đó khơng chỉ với các
nước đi theo nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa mà cả đối với những
nước trước đây vốn có nền kinh tế tập trung bao cấp và nay chuyển sang
kinh tế thị trường nhưng vẫn theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều này có
ý nghĩa rất quan trọng trong việc đánh giá vai trị của Châu Á - Thái Bình
Dương và giúp cho các nước có cơ sở khách quan trong việc hoạch định
chiến lược phát triển của mình trong những thập kỷ tới.

18

luan van, khoa luan 23 of 66.


tai lieu, document24 of 66.


2.2. LỢI ÍCH CỦA HAI BÊN KHI THIẾT LẬP QUAN HỆ NGOẠI GIAO
Việc bình thường hố quan hệ Việt - Mỹ đã có những bước tiến dài khác
xa so với trước nhờ một phần sự tác động của đặc điểm, xu thế của thế giới,
một phần cũng là do lợi ích chiến lược của mỗi nước cùng với sự điều chỉnh
chiến lược của Mỹ kết hợp với đường lối đổi mới, chính sách mở cửa của
Việt Nam. Đây là một trong những nhân tố quan trọng giúp cho việc bình
thường hố quan hệ ngoại giao giữa hai nước được khai thơng.
2.2.1. Lợi ích của Mỹ khi thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
Với một siêu cường như Mỹ muốn nắm giữ vai trò "Người lãnh đạo thế
giới" thì cần phải có sự điều chỉnh chiến lược và sách lược của mình cho
phù hợp với tình hình thế giới.
Tổng thống đầu tiên của nước Mỹ trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh,
người có tham vọng để lại dấu ấn trong lịch sử nước Mỹ bằng một chiến
lược mới thay cho chiến lược "ngăn chặn" của thời kỳ chiến tranh lạnh, đó
là chiến lược "mở rộng dân chủ" của Bill Clintơn. Ngày 27/19/1993 trong
diễn đàn đầu tiên đọc trước Đại hội đồng Liên hợp quốc nói rõ: "Trong chiến
tranh lạnh chúng ta tìm cách ngăn mối đe doạ đối với sự sống còn của
các thể chế tự do,... giờ đây chúng ta tìm cách mở rộng tập hợp các
quốc gia sống dưới các thể chế tự do đó".
Đưa ra chiến lược này, nhưng mức độ áp dụng vào từng khu vực như
thế nào là còn tuỳ thuộc vào tầm quan trọng của khu vực đó đối với Mỹ. Với
khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, Mỹ cho rằng đây là khu vực sẽ đem lại
lợi ích cho nước Mỹ và Mỹ đã đặt khu vực này vào vị trí ưu tiên ngang hàng
với Châu Âu. Bởi lẽ, Châu Á Thái Bình Dương là một trong những khu vực
có nền kinh tế phát triển năng động của thế giới. "Trong thập kỷ này, hơn
60% của sự phát triển kinh tế thế giới là từ Châu Á, khu vực chiếm hơn
1/2 dân số thế giới". Với tổng số 13.400 tỷ USD, Châu Á - Thái Bình Dương
chiếm 54% GDP của thế giới, và do vậy, khu vực này có vị trí ngày càng
19


luan van, khoa luan 24 of 66.


tai lieu, document25 of 66.

quan trọng đối với các nước lớn trong đó có Mỹ. Đặc biệt đây cũng là khu
vực bao gồm hầu hết các nước lớn mà Mỹ phải quan tâm và kiêng nể như
Nga, Nhật Bản, Trung Quốc.
Với Nga, trước đây là đối thủ của Mỹ trong chiến tranh lạnh, hai nước
từng tranh giành vị trí, ảnh hưởng với nhau. Giờ đây, khi Liên Xô mất đi thì vị
thế của Nga thay vào đó khơng cịn ngun vẹn như xưa nhưng tiềm lực về
quân sự của Nga vẫn là điều mà Mỹ đáng quan tâm.
Với Trung Quốc, là một nước có dân số đơng nhất thế giới, là thị trường
tiêu thụ hàng hoá đầy tiềm năng. Thêm vào đó, Trung Quốc lại đang hiện đại
hố qn đội, phổ biến vũ khí hạt nhân tăng ngân sách quốc phòng, đây là
điều mà Mỹ lo ngại và Mỹ đã điều chỉnh lại chính sách đối với Trung Quốc.
Từ chỗ xem Trung Quốc là "là con bài" là "đồng minh thực tế" trong việc
ngăn chặn và kìm chế Liên Xơ sang thành một đối thủ. Đã diễn ra một cuộc
đấu tranh gay gắt trong nội bộ giới cầm quyền Mỹ về hoạch định một chính
sách mới đối với Trung Quốc trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh này. Nhưng
thực tế thì Mỹ đã thi hành chiến lược kép đối với Trung Quốc. Tức là vừa
dính líu vừa kìm chế, Trung Quốc luôn bị coi là vật cản trong bước đường
tiến đến chủ nghĩa bá quyền của Mỹ. Hơn nữa, mối lo ngại tiềm ẩn của Mỹ
về việc Trung Quốc hợp nhất với Đài Loan, Ma Cao thì Trung Quốc sẽ là một
Đại Trung Hoa, điều đó sẽ thách thức đối với vai trò vị thế của Mỹ ở khu vực.
Do vậy, Mỹ cố gắng củng cố vị trí của mình ở khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương nhằm ngăn chặn bất cứ cường quốc nào nổi lên thách thức vai trị vị
trí ảnh hưởng ấy, thực hiện "diễn biến hồ bình" với các nước XHCN cịn lại.
Đối với các nước Đơng Dương, chính sách của Mỹ chuyển từ gây căng
thẳng, chia rẽ các quốc gia sang lôi kéo, thu hút tăng cường ảnh hưởng của

Mỹ với các quốc gia ở khu vực này.
Qua phân tích chính sách của Mỹ với các nước lớn trong khu vực ta
thấy mục tiêu của Mỹ khi quan hệ với Việt Nam không nằm ngồi mục tiêu
chung trong chiến lược tồn cầu hay chính sách với Đông Nam Á của siêu
20

luan van, khoa luan 25 of 66.


×