Tải bản đầy đủ (.pdf) (43 trang)

Chuyên đề tốt nghiệp chuyên khoa cấp i thực trạng chăm sóc bệnh nhân trầm cảm tại khoa bán cấp tính nam bệnh viện tâm thần trung ương 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (388.68 KB, 43 trang )

1

BỘ Y TẾ
TRƯỜNG
NG ĐẠI
Đ HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH

BÙI NGÂN HÀ

THỰC TRẠ
ẠNG CHĂM SÓC BỆNH NHÂN
TRẦM CẢM
T KHOA BÁN CẤP
M TẠI
P TÍNH NAM
N TÂM THẦN TRUNG ƯƠNG 1
BỆNH VIỆN

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ
Đ TỐT NGHIỆP

NAM ĐỊNH - 2018


2

BỘ Y TẾ
TRƯỜNG
NG ĐẠI
Đ HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH


BÙI NGÂN HÀ

THỰC TRẠ
ẠNG CHĂM SÓC BỆNH
NH NHÂN
TRẦM CẢM TẠI KHOA BÁN CẤP
P TÍNH NAM
N TÂM THẦN TRUNG ƯƠNG 1
BỆNH VIỆN
Chuyên ngành
ngành: CHĂM SÓC SỨC KHỎE TÂM THẦN

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
DẪN: ThS.NGUYỄN BÁ TÂM

NAM ĐỊNH - 2018


3

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là báo cáo của riêng tôi. Các kết quả trong chuyên đề là trung thực
và chưa từng ai công bố trong bất kỳ cơng trình nghiên cứu nào khác.
Nam Định, tháng 9 năm 2018
Học viên
Bùi Ngân Hà



4

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành tốt chuyên đề này. Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn ThS. Ngyễn Bá
Tâm : Giảng viên khoa điều dưỡng – hộ sinh – Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định đã
giúp đỡ và hướng dẫn tơi rất tận tình trong suốt thời gian tôi thực hiện chuyên đề này.
Xin được cảm ơn các thầy cô giáo trong bộ môn Tâm thần kinh – Trường Đại học
Điều dưỡng Nam Định, các cán bộ y tế trong 10 khoa lâm sàng của Bệnh viện Tâm thần trung
ương 1 đã giúp đỡ, chia sẻ cho tôi những kinh nghiệm quý báu trong thời gian học tập và làm
chuyên đề này.
Xin được cảm ơn các bạn trong lớp Chuyên khoa 1- khóa V, đã cùng vai sát cánh với
tơi để hồn thành tốt chun đề này.
Xin được cảm ơn những người bệnh, gia đình người bệnh đã thông cảm và tạo điều
kiện cho tôi được thăm khám, tiếp xúc, lắng nghe và thực hiện nghiêm túc những lời khuyên
dành cho họ.
Xin chân thành cảm ơn !
Nam Định, tháng 9 năm 2018
Học viên
Bùi Ngân Hà


5

CÁC TỪ VIẾT TẮT

-

AG: Ảo giác


-

BN: Bệnh nhân

-

CTC: Chống trầm cảm

-

HT: Hoang tưởng

-

RLCXLC: Rối loạn cảm xúc lưỡng cực

-

RLTC: Rối loạn trầm cảm

-

Th.s: Thạc sĩ

-

TTPL: Tâm thần phân liệt

-


TS: Tiến sĩ

-

PGĐ: Phó giám đốc

-

ETP: (Ergothérapeute ) Cán bộ liệu pháp

-

SSRI: Loại thuốc chống trầm cảm 3 vòng và loại thuốc tái hấp thu chọn lọc
Serotonin

-

GDSK: Giáo dục sức khỏe

-

PHCN: Phục hồi chức năng


6

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
1. ĐẶT VẤN ĐỀ

1

2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

3

2.1. Cơ sở lý luận

3

2.2. Cơ sở thực tiễn

4

3. THỰC TRẠNG CHĂM SĨC BỆNH NHÂN TRẦM CẢM TẠI KHOA BÁN
CẤP TÍNH NAM - BỆNH VIỆNTÂM THẦN TRUNG ƯƠNG 1

24

3.1 Giới thiệu về bệnh viện

24

3.2. Nghiên cứu một trường hợp bệnh cụ thể

25


3.3. Một số ưu điểm và hạn chế

31

4. GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT NHẰM CẢI THIỆN CHĂM SÓC

34

NGƯỜI BỆNH TRẦM CẢM
4.1. Đối với nhân viên y tế .

34

4.2. Với mạng lưới y tế cấp cơ sở.

34

4.3. Đối với gia đình người bệnh.

35

4.4. Đối với bệnh viện tâm thần trung ương 1.

36

KẾT LUẬN

37


TÀI LIỆU THAM KHẢO


7

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trầm cảm là trạng thái buồn rầu, chán nản, khơng cịn hứng thú gì trong cuộc sống, ngủ
không ngon, ăn uống nhạt miệng, làm việc không xong tới chót, mặc cảm thua kém, khi rầu rĩ
lâu ngày hay nghĩ đến cái chết. Ngoài ra, người bệnh hay kèm lo lắng, nặng đầu, đau mỏi vai
gáy, ngực hồi hộp, tay chân lạnh.
Rối loạn trầm cảm là một trạng thái bệnh lý hay gặp trong thực hành tâm thần học cũng
như trong thực hành đa khoa. Rối loạn trầm cảm có xu hướng gia tăng và chiếm khoảng 20 30% dân số, trong đó rối loạn trầm cảm chủ yếu chiếm 4,4% (Mỹ), 5,2% ( Italie ), 3,4% (
Nam ) và 6 % ( Nữ ) ở ( Pháp ), ( 2,85%) ở Việt Nam. Hàng năm trên thế giới có tới hàng trăm
triệu người được phát hiện là trầm cảm. Bệnh thường gặp ở lứa tuổi 18 – 44, tuổi khởi phát
trung bình là 25,6, tỷ lệ nữ bị rối loạn trầm cảm cao gấp 3 lần nam. Khoảng 45 – 70% những
người tự sát mắc bệnh trầm cảm và 15 % người bệnh trầm cảm chết do tự sát. Rối loạn trầm
cảm có tỷ lệ tái phát cao. [ 5 ]
Rối loạn trầm cảm do rất nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra, nhiều tác giả cho là có sự
biến đổi của các chất trung gian hóa học trong hệ thống thần kinh trung ương như
Noradrenaline và Dopamine. Các thay đổi nồng độ một số Hormone thyroxin, Corticoid, một
số chất điện giải, hoặc một số thành phần miễn dịch đều có thể gây ra trầm cảm. Trong
những năm gần đây đã có nhiều nghiên cứu về yếu tố di truyền của bệnh rối loạn trầm cảm,
và người ta thấy có sự liên quan giữa trầm cảm với nhiễm sắc thể X và một số nghiên cứu
cũng cho thấy có những biến đổi 3 vùng là Hồi Hải Mã, Hạnh nhân và vỏ não ở những người
bệnh trầm cảm điển hình.
Bệnh trầm cảm để lại gánh nặng cho gia đình và xã hội về sức lao động cũng như về
kinh tế. Theo nghiên cứu của tổ chức y tế thế giới (OMS – 1996), Nakajima hơn 1,5 tỷ người
có những biểu hiện về rối loạn tâm thần trong đó có khoảng 340 triệu người bị rối loạn trầm
cảm sẽ là nguyên nhân gây mất khả năng lao động đứng hàng thứ hai vào năm 2020. Kinh phí
chi cho trầm cảm rất lớn, ở Mỹ chi cho trầm cảm là 45 tỷ đô la, cho tâm thần phân liệt là 65 tỷ

đô la và cho tim mạch là 120 tỷ đô la. Không những thế nhiều người bệnh trầm cảm đã tìm
đến cái chết để giải thốt mọi khổ cực và bi quan về cuộc đời do bệnh gây ra. Do vậy nhiều
nước đã đưa chương trình phịng và chống bệnh trầm cảm vào chương trình quốc gia trong đó
có Việt Nam. Bệnh trầm cảm cũng đã được phân loại một cách chi tiết trong Bảng phân loại
bệnh Quốc tế năm 1992 (ICD.10 mục F32 ), từ các bệnh trầm cảm điển hình nhất đến các


8

bệnh trầm cảm khơng điển hình, bị che đậy bởi các thực thể cũng như các giai đoạn tái diễn
trầm cảm.
Hiện nay người bệnh có rối loạn trầm cảm ngày càng gia tăng, trở thành một vấn đề lớn
của xã hội cần phải tập trung giải quyết. Đây không phải là vấn đề riêng của nghành y tế mà
đòi hỏi sự tham gia của toàn cộng đồng và xã hội, với những người bệnh này thì việc chăm
sóc của điều dưỡng nói riêng và nhân viên y tế nói chung chỉ là một phần nhỏ, mà cần sự
chăm sóc, quan tâm, theo dõi, hỗ trợ của gia đình xã hội, bạn bè cũng như của cả cộng đồng.
Để nâng cao cơng tác chăm sóc người bệnh trầm cảm nam thì cần có cái nhìn tổng thể, một
bức tranh thực về tình hình chăm sóc những người bệnh này từ đó đưa ra được những can
thiệp phù hợp hơn nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc người bệnh.
Do vậy tơi tiến hành nghiên cứu chuyên đề này: “Thực trạng chăm sóc người bệnh
trầm cảm tại khoa bán cấp tính nam - Bệnh viện Tâm thần trung ương 1 ” với mục đích:
1. Tìm hiểu thực trạng về chăm sóc người bệnh trầm cảm tại khoa bán cấp tính nam
Bệnh viện Tâm thần trung ương 1.
2. Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả chăm sóc người bệnh Trầm cảm tại Bệnh
viện Tâm thần trung ương 1.


9

2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Khái niệm về trầm cảm.
Trầm cảm là một bệnh lý y tế liên quan đến tâm trí và cơ thể. Cũng được gọi là rối loạn
trầm cảm chính và trầm cảm lâm sàng, nó ảnh hưởng đến cảm nhận, suy nghĩ và hành xử.
Trầm cảm có thể dẫn đến một loạt các vấn đề tình cảm và thể chất. Có thể gặp khó khăn khi
thực hiện các hoạt động bình thường hàng ngày và trầm cảm có thể làm cho cảm thấy như thể
cuộc sống là không đáng sống.
Trầm cảm là một loại rối loạn tâm thần thường gặp nhất trong các dạng rối loạn tâm
thần, bao gồm nhiều triệu chứng, nhưng hay gặp nhất là sự buồn bã sâu sắc và người bệnh
khơng cịn quan tâm hay thích thú đối với tất cả những gì xảy ra xung quanh hoặc đối với bản
thân mình. Người bệnh ln cảm thấy mệt mỏi, mất hy vọng vào tương lai, nghĩ rằng thế giới
xung quanh dường như lúc nào cũng u ám.
Rối loạn trầm cảm có thể xuất hiện bất kỳ lúc nào nhưng thường gặp nhất là ở lứa tuổi
từ 18 – 44, Nữ dễ bị trầm cảm gấp đơi nam tuy nhiên phát hiện và chăm sóc người bệnh trầm
cảm Nam sẽ khó khăn hơn Nữ.
Trầm cảm nhiều hơn chỉ là cơn nhảy múa, trầm cảm không phải là điểm yếu, cũng
khơng phải là một cái gì đó mà có thể chỉ đơn giản là thể hiện ra. Trầm cảm là một căn bệnh
kinh niên thường đòi hỏi phải điều trị lâu dài, như bệnh tiểu đường hoặc huyết áp cao. Nhưng
khơng được nản lịng, hầu hết những người bị trầm cảm cảm thấy tốt hơn với thuốc, tư vấn
tâm lý hoặc điều trị khác.
2.1.2. Vài nét về lịch sử nghiên cứu bệnh trầm cảm.
Thuật ngữ trầm cảm hay sầu uất “Melancholie” được Hippocrate (460 – 377 trước công
nguyên ) dùng để mô tả một số rối loạn tâm thần có biểu hiện rối loan khí sắc. Năm 1686
Bonet mô tả một bệnh tâm thần mà ông gọi là bệnh hưng cảm – sầu uất “ Maniaco –
Melancoliants ”. Sau đó E. Esquirol tách ra từ các bệnh loạn thần bộ phận (Folies partielles )
một thể trầm cảm và gọi là cơn hoang tưởng ( HT ) buồn rầu. Năm 1882, K. Kahlbaum dùng
thuật ngữ “ Cyclothymia ” ( Bệnh khí sắc chu kỳ ) mơ tả hưng cảm, trầm cảm như các giai
đoạn của cùng một bệnh. E.Kraepelin (1899 ), dựa trên các biểu hiện lâm sàng và tính chất
tiến triển của các bệnh do các nhà tâm thần học Pháp và Đức mô tả, thống nhất lại thành một
thể bệnh và gọi là bệnh loạn thần hưng - trầm cảm. Trước những năm 80 của thế kỷ XX, rối

loạn trầm cảm ( RLTC ) được mô tả như một giai đoạn của bệnh loạn thần hưng – trầm cảm.


10

Các tiến bộ quan trọng trong việc mô tả, phân loại các RLTC trong 30 năm qua đã giúp thúc
đẩy các nghiên cứu quan trọng về dịch tễ, bệnh nguyên và bệnh sinh các RLTC này một cách
chi tiết, hợp lý [ 5 ].
2.2. Cơ sở thực tiễn
2.2.1. Dịch tễ học trầm cảm.
2.2.1.1. Một số nghiên cứu ở các nước trên thế giới.
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã dự đốn rằng năm 2020 sẽ có khoảng 121 triệu người
mắc bệnh trầm cảm, bệnh này cướp đi mỗi năm trung bình 850 000 mạng người và bệnh này
là căn bệnh xếp hạng 2 trong số những căn bệnh phổ biến toàn cầu. Thế nhưng, ngày
10/10/2012 (Ngày Sức khỏe Tâm thần Thế giới) vừa qua, WHO cho biết hiện nay trên thế giới
đã có hơn 350 triệu người đang mắc bệnh trầm cảm và mỗi năm có khoảng 1 triệu người tự tử
(trung bình mỗi ngày có 2900 người tự tử ). Điều này cho thấy số người mắc bệnh trầm cảm
trên thế giới đã tăng quá nhanh trong những năm tháng gần đây.
Theo The Huffing Post, ngày 27/7/2011 thì: Trung bình tỷ lệ dân số mắc bệnh trầm
cảm ở 10 nước giàu là 15% và ở các nước nghèo là 11%. Nước Pháp có tỷ lệ cao nhất là 21%,
trong 5 người Pháp thì có một người bị mắc bệnh trầm cảm trong cuộc đời của họ. Kế đến là
nước Mỹ: 19,2%, Brazil: 18,4%, Hà Lan: 17,9%, NewZealand: 17,8%, Ukraine: 14,6%, Bỉ:
14,1%, Colombia: 13,3%, Lebanon: 10,9 %, Tây Ban Nha: 10,6%, Israel: 10,2%, Đức: 9,9%,
Ý: 9,9%, Hàn Quốc: 9,8%, Ấn độ: 9%, Mexico: 8%, Nhật: 6,6%, Trung Quốc: 6,5%.
Tại Mỹ, hiện nay có khoảng 27 triệu người mắc bệnh trầm cảm ( tăng gấp 3 lần trong
20 năm qua ), mỗi năm có trên 300 000 người tự tử, trong đó chiếm 60% là những người mắc
bệnh trầm cảm.
Tại Châu Âu, số người mắc bệnh trầm cảm và tự tử tăng đột biến vì khủng hoảng, ¼
dân số Châu Âu tương đương ( 215 triệu người ) sẽ bị rối loạn tâm lý bởi cuộc sống quá khó
khăn. Số lượng các ca yêu cầu điều trị chống trầm cảm ở Anh đã tăng tới 28%, từ 34 triệu

người trong năm 2007 lên 43,4 triệu người trong năm 2011.
Với quốc gia Trung Quốc, hàng năm có khoảng 300 000 người tự tử (thực tế có thể là
cao hơn nữa ), đặc biệt tại Trung Quốc khác với các quốc gia khác là nữ tự sát nhiều hơn nam
giới theo tỷ lệ 3:1, ở nông thôn tự tử nhiều hơn thành phố theo tỷ lệ 3:1. [6 ], [ 10 ]
2.2.1.2. Thực trạng về bệnh trầm cảm ở Việt Nam hiện nay.
Tỷ lệ trầm cảm ở Việt Nam hiện tại đang rất phức tạp và có xu hướng gia tăng rất
nhanh và phức tạp. Theo tài liệu của chính phủ Việt Nam thì năm 2000, tỷ lệ mắc bệnh trầm


11

cảm ở nước ta là 2,47% dân số, nhưng hiện nay con số này tăng lên khoảng 15%. Theo báo
cáo của buổi hội thảo quốc tế về “ Vấn đề tồn cầu hóa, thành thị hóa và sức khỏe tâm thần ”
được tổ chức tại Huế vào ngày 25 đến ngày 27/11/2010 thì hiện nay 20% dân số, tức khoảng
18 triệu người Việt Nam đang mắc các chứng bệnh “ Tâm thần hiện đại ”. Theo tác giả La
Đức Cương có khoảng 12 triệu người ( tương đương 15% dân số ) đang có vấn đề về rối loạn
tâm thần, trong đó phần lớn là bệnh trầm cảm, sau đó là bệnh nặng hơn như Tâm thần phân
liệt, nghiện rượu, lạm dụng rượu, ma túy và chậm phát triển trí tuệ. Theo TS. BS Tơ Thanh
Phương thì có khoảng 15% dân số nước ta có vấn đề về sức khỏe tâm thần. Phần lớn bệnh
nhân trầm cảm nặng thuộc lứa tuổi từ 16 – 35 tuổi [ 7 ].
Bệnh trầm cảm là bệnh gây mất sức lao động đứng thứ hai trên thế giới và là nguyên
nhân của 2/ 3 trường hợp tự tử. Điều nguy hiểm là do sự mặc cảm hoặc thiếu hiểu biết về căn
bệnh này, có đến 60% người mắc bệnh trầm cảm không được phát hiện và điều trị trầm cảm
thường gặp ở nữ nhiều hơn nam, xuất hiện ở mọi lứa tuổi. Một cuộc điều tra theo diện hẹp do
viện quân y 103 tiến hành cho thấy tỷ lệ trầm cảm ở người già cô đơn trên 60 tuổi là 50%.
Hậu quả của trầm cảm là rât nghiêm trọng. Theo trung tâm phòng chống khủng hoảng
tâm lý, có tới 25,4% người dân có ý định tự tử; 15,6% có kế hoạch tự tử và thực hiện hành vi
tự tử là 4,2%, tương đương khoảng 3,78 triệu người Việt nam đã thực hiện hành vi tự tử. Trên
thực tế bệnh trầm cảm ở Việt nam cịn tệ hơn thế nếu có điều tra tồn quốc theo đúng tiêu
chuẩn quốc tế.

Tại Viêt Nam sau khi nghiên cứu lại các trường hợp trước đây được chẩn đoán là suy
nhược thần kinh, các bác sĩ nhận thấy phần lớn các bệnh nhân có đủ tiêu chuẩn để chẩn đoán
trầm cảm. Hiện nay tại Bệnh viện Tâm thần trung ương 1 chưa có cơng trình nào nghiên cứu
về dịch tễ lâm sàng các rối loạn trầm cảm trên quy mơ lớn như cấp bộ, hay tồn quốc. Vấn đề
nghiên cứu về dịch tễ lâm sàng trầm cảm vẫn chỉ mang tính cục bộ tại một vài địa phương,
chưa mang tính đại diện cho tỷ lệ trầm cảm của một quốc gia.
2.2.1.3. Một số nghiên cứu ở trong nước.
Hiện nay ở nước ta có một số nghiên cứu về trầm cảm trong nước của một số tác giả
như sau.
- Lã Thị Bưởi, Trần Viết Nghị, Nguyễn Viết Thiêm điều tra trầm cảm tại một phường ở
Hà Nội.


12

- Trần Văn Cường và cộng sự năm ( 2002 ), rối loạn trầm cảm điển hình chiếm 2,8 %
khi điều tra dịch tễ lâm sàng một số bệnh tâm thần thường gặp ở các vùng kinh tế - Xã hội
khác nhau ở nước ta hiện nay.
- Lâm Xuân Điền điều tra trầm cảm tại một phường của thành phố Hồ Chí Minh.
- Tơ Thanh Phương nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và điều trị trầm cảm nặng bằng
Amitriptyline phối hợp với thuốc chống loạn thần.
- Ngô Ngọc Tản, Cao Tiến Đức điều tra trầm cảm tại một phường của Thị xã Hà Đông
– Hà Nội.
- Nguyễn Văn Siêm điều tra trầm cảm tại xã Quất động – Thường Tín – Hà Nội.
2.2.2. Đặc điểm lâm sàng của trầm cảm.
Trầm cảm là một triệu chứng rối loạn tâm thần, có những triệu chứng rõ ràng như: mất
ngủ, mệt mỏi, chán ăn, mất hứng thú trong các sinh hoạt, buồn rầu, khó khăn khi tập trung,
bng xi, vượt xa những cảm xúc buồn bã bình thường mà mỗi người chúng ta thỉnh thoảng
đều trải qua.
Ở phái nam, trầm cảm dễ bị xảy ra khi bị stress do căng thẳng trong công việc hàng

ngày, kinh tế chật vật, ân hận vì lỡ thua cờ bạc, hạnh phúc tan vỡ, người thân mất, thay đổi
chỗ ở, chỗ làm việc, tương lai bấp bênh…Nam giới vẫn thường phải chịu áp lực về sự thành
đạt trong đời nếu không làm được điều này ( bị nép vế trong gia đình hay ở chỗ làm ), nhiều
người ơm nỗi buồn đó một cách lặng lẽ, khơng muốn ngỏ cùng ai do đó dễ bị stress, người
bệnh có những cơn giận dữ đột ngột, khơng kiểm sốt bản thân, khơng thể quyết định được
việc gì.
Ở phái nữ, triệu chứng thường thấy là buồn, âu sầu, hay khóc thờ ơ, khơng thấy thích
thú gì với những cơng việc hàng ngày, kể cả chuyện tình dục, tuyệt vọng hoặc thấy mình
chẳng có giá trị gì, ngủ q nhiều hoặc khơng ngủ được, ngủ li bì đánh thức cũng khơng tỉnh;
không thèm ăn và gầy đi hoặc ăn quá nhiều và béo lên; cảm giác mệt mỏi rã rời hoặc uể oải,
không tập trung chú ý được và không quyết định được làm việc gì, cảm thấy trên thân thể đau
đớn mà điều trị cũng không đỡ.
Các triệu chứng của rối loạn trầm cảm điển hình.
Khí sắc trầm cảm: Khí sắc trầm cảm thường gặp là buồn rầu uể oải, chân tay rời rã,
cảm giác khó chịu, bất an, đuối sức trước cuộc sống, luôn cảm thấy đau khổ, nét mặt ủ rũ hoặc
rơm rớm nước mắt, mệt mỏi, bệnh nhân ( BN ) thấy quá khứ, hiện tại và tương lai chỉ là một


13

màu đen tối, ảm đạm, thê thảm, đơi khi khó tả được cảm giác của mình, cảm thấy mình bị thất
bại, hỏng việc, bất lực, tự đánh giá bản thân thấp kém, khơng có khả năng, là ngõ cụt. [ 5 ]
Các rối loạn nhận thức: Quá trình liên tưởng ở BN chậm chạp, hồi ức xuất hiện khó
khăn, dịng tư duy bị ngưng trệ, khó diễn đạt ý nghĩ của mình thành lời nói, ít hoặc khơng nói.
Cũng có thể là các ý nghĩ tự ti, hèn kém, phẩm chất xấu, phạm nhiều tội lỗi, ý nghĩ bị thiệt hại,
hoặc bị truy hại.
- Các rối loạn tâm thần vận động: Ở những bệnh nhân RLTC nặng, bệnh nhân ngồi
hàng giờ, ít đi lại hoặc nằm im một chỗ ở những nơi yên tĩnh, kín đáo như trong buồng hoặc ở
phịng tối, khơng muốn tiếp xúc với ai, BN cảm thấy nhanh chóng bị kiệt sức khi làm việc gì
đó gắng sức, luôn cảm thấy mệt mỏi, suy nhược, mất nghị lực, luôn phàn nàn về sự mệt nhọc,

đuối sức.
- Các biểu hiện lo âu: BN thường có cảm giác lo lắng, sợ hãi cho các dự định trong
tương lai của họ. Sự lo lắng của BN xuất hiện dưới dạng căng thẳng và sự nguy hiểm, chờ đợi
điều không mong muốn sắp xảy ra, do vậy họ thường có phản ứng tấn công người khác, hoặc
xung động, lo âu và có thể xuất hiện hành vi tự sát.
- Các triệu chứng cơ thể: Các biểu hiện rối loạn cơ thể thường xuyên biến đổi trong
ngày, mệt mỏi thường tăng vào buổi sáng, giảm cân đơi khi nặng nề, có thể giảm tới 10kg
trong một vài tháng (gặp ở nữ ). Giảm trọng lượng có liên quan trực tiếp đến chán ăn, lo âu,
tức ngực, chóng mặt, đau vùng trước tim, cảm giác kiến bị, giảm tình dục, rối loạn kinh
nguyệt, dễ kích thích căng thẳng. Khi trầm cảm nặng BN thường từ chối ăn, đôi khi gặp sự trái
ngược là ăn vơ độ có thể gây ra tăng cân.
- Hành vi tự sát ở bệnh nhân trầm cảm nặng: Có tới 80% BN trầm cảm nặng có ý định
tự sát. Đặc biệt có thể gặp tự sát trong quá trình tiến triển của trầm cảm khi điều trị chưa đạt
kết quả. Việc xác định được nguy cơ tự sát khơng phải là dễ dàng, hơn nữa họ có thể nói dối
những ý định tự sát càng làm cho chúng ta không thể phát hiện được những ý nghĩ và hành vi
của họ. Mức độ nặng nề của nguy cơ tự sát thường có liên quan nhiều giữa cường độ lo âu với
mức độ trầm trọng của trầm cảm. [ 11]
Một số rối loạn trầm cảm.
- Rối loạn trầm cảm khơng điển hình. Bệnh nhân khơng có các biểu hiện của RLTC
điển hình. BN thấy ăn ngon miệng, tăng cân, ngủ nhiều, tăng hoạt động, mệt mỏi kèm theo
đau các chi, cảm thấy như bị liệt, dễ tủi thân.


14

- Trầm cảm ẩn. Bệnh nhân thường phàn nàn về các triệu chứng cơ thể một cách lờ mờ,
không rõ ràng, đau khơng rõ vị trí, thường kêu đau vùng trước ngực, đau nhức xương khớp…..
- Trầm cảm suy nhược. Nổi bật là những nét suy nhược với những ám ảnh sợ bệnh, ám
ảnh mắc bệnh.
- Trầm cảm nhẹ. Các triệu chứng trầm cảm nằm dưới ngưỡng của trầm cảm điển hình.

- Trầm cảm đơi Là trầm cảm điển hình xuất hiện ở bệnh nhân loạn khí sắc.[5]
Các loại trầm cảm chính.
Trầm cảm nhìn chung có 3 loại chính:
- Trầm cảm tâm căn:
Thường gặp nhất là cường độ trung bình và những trầm cảm này có thể gây ra loạn
thần, thường là những hành vi tự sát hoặc muốn chết.
- Trầm cảm nội sinh:
Trầm cảm nội sinh là loại trầm cảm có tính chất hệ thống đối lập với trầm cảm tâm căn
và đáp ứng tốt với điều trị hóa dược.
Một số biểu hiện của trầm cảm nội sinh là.
+ Khơng có phản ứng với biến đổi mơi trường
+ Khí sắc thường xấu hơn vào buổi sáng
+ Mất hứng thú quan tâm sở thích
+ Tự buộc tội hoặc bị tội
+ Thức dậy sớm hoặc mất ngủ giữa đêm
+ Vận động chậm chạp hoặc kích động
+ Ăn khơng thấy ngon, giảm cân
- Trầm cảm triệu chứng.
Thường do các bệnh nội tiết, nhiễm trùng, chấn thương sọ não. Trầm cảm thứ phát do
nguyên nhân bệnh cơ thể, nhất là các bệnh cơ thể nặng
Tất cả các trầm cảm này dễ có ý định tự sát hoặc có hành vi tàn bạo khơng tự chủ được. Để
đánh giá năng lực chịu trách nhiệm cần dựa vào sự nặng nề của trầm cảm có những cơn trong
tiền sử. Một số gợi ý nghĩ tới loại trầm cảm này là:
- Khơng có các yếu tố tác động
- Khơng có tiền sử rối loạn khí sắc và yếu tố gia đình
- Khơng có các biểu hiện bệnh lý tâm căn trong tiền sử
- Trạng thái suy nhược


15


- Có một số triệu chứng gợi ý: Lú lẫn, lo âu, tư duy chậm chạp cùng với đau đầu kín
đáo, động kinh, run… [ 2 ]
2.2.3. Nguyên nhân dẫn đến bệnh trầm cảm.
Nhân tố di truyền.
Các rối loạn khí sắc của trẻ, thanh thiếu niên và người lớn hay gặp trong số thành viên
gia đình họ. Nếu cha mẹ có một người bị trầm cảm thì nguy cơ con cái mắc bệnh trầm cảm
tăng gấp đôi so với con cái của cặp cha mẹ có tiền sử bình thường. Nếu cả hai cha mẹ đều bị
trầm cảm thì xác xuất là 4 lần nguy cơ phát triển rối loạn khí sắc ở trẻ em dưới 18 tuổi. [ 2 ]
Nhân tố mơi trường.
Có ít bằng chứng là vấn đề hôn nhân của cha mẹ, ly thân, ly hôn, anh chị em, vấn đề
cấu trúc gia đình hay kinh tế - xã hội phát hiện ở trẻ em trầm cảm hình như là thứ phát sau
trầm cảm sẽ cải thiện sau khi trầm cảm hồi phục bền vững. [ 2 ]
Nhân tố sinh học.
Trẻ em trước tuổi dậy thì trong một giai đoạn trầm cảm lớn, có tăng khá rõ hocmon
tăng trưởng trong giấc ngủ so với trẻ em bình thường với các trẻ em bị rối loạn cảm xúc khơng
trầm cảm. Các trẻ em này cũng tiết ít hocmon tăng trưởng khá rõ phản ứng giảm đường huyết
do Insulin gây ra so với các bệnh nhân không trầm cảm, hai bất thường trên tồn tại bền vững
ba bốn tháng sau khi trạng thái lâm sàng ổn định và trong trạng thái khơng dùng thuốc. [ 2 ]
Một số thói quen dẫn đến bệnh trầm cảm.
Người bị trầm cảm không thể tìm thấy hứng thú trong bất kỳ cơng việc gì.
Có nhiều yếu tố gây ra trầm cảm, một số trong đó là thể chất, cịn một số khác thuộc về tâm
lý. Dưới đây là một số thói quen dễ dẫn đến trầm cảm:
+ Khơng vận động.
Thoạt nghe có vẻ hơi kỳ lạ, nhưng tập luyện rất quan trọng cho sức khỏe thể chất cũng
như sức khỏe tâm thần.
Lười vận động có thể dẫn đến trầm cảm. con người cứ ru rú trong nhà cả ngày và
không tham gia bất kỳ hoạt động thể chất nào có thể khiến con người ta trở lên lười biếng
hoặc ăn quá nhiều. Lười biếng và thân hình quá khổ là cách chắc chắn là đưa bản thân vào
trạng thái trầm uất, nó khơng chỉ làm giảm khả năng vận động cơ thể mà cịn làm giảm cả sự

tự tin.
+ Chế độ ăn khơng hợp lý.


16

Ăn uống lành mạnh không chỉ tốt cho cơ thể mà cịn tốt cho trí não, những thực phẩm
chứa chất béo omega – 3 được xem là những thực phẩm bổ não vì chúng có vai trị thiết yếu
đối với mơ não khỏe mạnh.
Ngồi ra cịn có nhiều chế phẩm bổ sung. Mặc dù những chế phẩm này không phải lúc
nào cũng ngon miệng, nhưng chúng giúp cho bộ não khỏe mạnh và ngăn ngừa sự tấn công của
bệnh trầm cảm.
+ Ngủ không đúng và stress.
Nếu bạn thường xuyên để mình bị đói ngủ, thì bạn đang tạo ra hồn cảnh lý tưởng cho
bệnh trầm cảm. Nếu không được ngủ đủ, bạn sẽ dễ trở lên bị kích động và hoang tưởng, là nền
tảng cho trạng thái trầm cảm.
Hơn nữa, những người không ngủ đủ thường không làm tốt công việc, khiến họ bị
stress và càng giảm năng xuất.
Khi một người không thể ngủ hoặc không thể làm tốt vai trị của mình, họ sẽ trở lên
thất vọng và cảm thấy bị mắc kẹt thì kết cục là con người sẽ có cảm giác trầm uất. Rất ít người
biết rằng chỉ cần ngủ đủ là có thể ngăn chặn được bệnh trầm cảm.
+ Cuộc sống cô lập.
Sống cô lập là con đường chắc chắn dẫn đến trầm cảm. Khi bạn lảng tránh bạn bè và
người thân vì bất kỳ lý do gì, thì bạn đang tạo ra mảnh đất màu mỡ cho bệnh trầm cảm.
+ Tính hay lo nghĩ.
Suy nghĩ tiêu cực là một trong những nguyên nhân chính của trầm cảm. Thường xuyên
nghĩ về các mối đe dọa, sự chối bỏ, mất mát hay thất bại là cách chắc chắn đưa bạn đến với
bệnh trầm cảm. Với tất cả những áp lực của thế giới ngày nay, lo nghĩ q nhiều đang trở
thành ngịi nổ chính cho bệnh trầm cảm.[2]
2.2.4. Một số nguyên nhân trầm cảm thường gặp ở Việt nam.

Trong cuộc sống hàng ngày.
+ Lý do kinh tế.
Cuối thế kỷ 20 và sang thế kỷ 21 có rất nhiều công ty ( tư nhân ) bị phá sản, có rất
nhiều cá nhân hùn tiền vào cơng ty để hưởng lãi xuất cao, có rất nhiều người dồn tất cả tài sản
vào cơng ty đó với hy vọng làm giàu nhanh chóng. Vụ việc vỡ lở khi mọi người biết bị lừa thì
đã muộn, một số người cảm thấy thất vọng đã định nhẩy lầu tự tử. [ 7 ]
- Tiếp theo là phong trào hụi, họ phát triển mạnh để lừa nhau cũng đã gây thiệt hại nặng
về kinh tế và tinh thần cho những người tham gia, chủ họ lớn nhất ôm tiền bỏ trốn để lại hậu


17

quả cho những chủ họ nhỏ hơn và cho những người tham gia. Rất nhiều gia đình tan cửa nát
nhà, mất nhà, nợ nần chồng chất, vợ chồng bỏ nhau con cái ly tán do vậy khơng ít người bị rối
loạn tâm thần trong đó có trầm cảm phải điều trị.
- Thời gian gần đây một số người có cả nam và nữ bị một số công ty lừa đi lao động
xuất khẩu ở nước ngoài với mức lương cao, họ nhận tiền đặt cọc của những người dân muốn
đi lao động ở nước ngồi, số tiền đặt cọc khơng giống nhau tùy thuộc vào các quốc gia mà họ
muốn đến ( khoảng từ 7000 đến 10000 đô la/ người ). Mỗi đợt khoảng vài chục người chờ đến
hạn mà khơng được đi thì mới biết là mình bị lừa, rất nhiều người đau khổ vật vã vì mất tiền
mà khơng đi được nước ngồi nhằm đổi đời. Mà số tiền đó họ phải đi vay với lãi xuất cao
hoặc vay của ngân hàng nên nhiều người rơi vào trạng thái kích động hoặc trầm cảm cần phải
điều trị.
- Và nạn lô đề với lãi suất tới 70 lần nên có rất nhiều người tham gia khơng kể lứa tuổi
già hay trẻ. Họ lao vào như con thiêu thân càng đánh càng say trúng thì ít mà thua thì nhiều,
thua nhiều thì mong gỡ. Hết tiền thì đánh nợ số tiền nợ ngày càng tăng lên, số tiền mất thì làm
cho kinh tế suy kiệt. Vấn nạn này cũng gây khủng hoảng cho nhiều gia đình nhẹ thì mất nhà
nặng thì bỏ trốn gia đình ly tán để lại gánh nặng cho người ở lại. Với sức ép của chủ nợ cộng
với sự ân hận mất tiền nên nhiều người cũng rơi vào trạng thái kích động hoặc trầm cảm cần
phải điều trị.

+ Lý do về xã hội.
- Do thi trượt: Trầm cảm thường gặp ở những bạn trẻ đã thi trượt vào các trường đại
học hoặc trung học một vài lần, ít khi gặp ở những bạn thi trượt lần đầu.
- Do thất nghiệp: Một số người sau khi đã tốt nghiệp nhưng khơng tìm được việc làm
theo đúng nghành nghề, hoặc bị áp lực là không muốn về nông thôn hoặc miền núi mà chấp
nhận ở lại thành phố để được làm bất cứ cơng việc gì. Họ mong trụ lại ở thành phố và có việc
làm để nuôi sống bản thân và trang trải trong cuộc sống thường ngày.
- Một số cô gái trẻ con nhà nghèo qua công ty môi giới để lấy được chồng nước ngồi,
nhưng khi đến nhà chồng thì cuộc sống lại khơng được như mong muốn họ coi như là Ôsin
trong nhà, bị quản thúc như tù giam lỏng mất tự do. Vỡ mộng họ tìm cách trốn về nước và
khơng ít người trong số họ bị trầm cảm cần phải điều trị.
- Do ly hôn: Nhiều cặp vợ chồng trẻ ở các thành phố lớn họ sống theo kiểu phương tây
yêu rất nhanh và cưới gấp sẵn sàng ly hôn và có xu hướng ly hơn ngày càng nhiều. Chính
ngun nhân này ảnh hưởng đến bộ phận giới trẻ trong xã hội.


18

- Do nghiện ma túy - HIV: Hiện nay tình hình người nghiện ma túy và nhiễm HIV ngày
càng tăng cao trong cộng đồng. mặc dù nhà nước có rất nhiều biện pháp giáo dục và tuyên
truyền đến từng xã, phường, người dân. Nhưng tỷ lệ vẫn không ngừng gia tăng có rất nhiều
người nhiễm HIV đã tìm đến cái chết nhằm giải thoát cho bản thân cũng như gia đìnhcủa
họ[7]
Trong các bệnh viện đa khoa, phịng khám đa khoa.
Khá nhiều bệnh nhân nghĩ rằng mình bị bệnh, họ đã đến các bệnh viện để khám, bác sĩ
cho đơn thuốc nhưng bệnh chỉ ổn một thời gian ngắn rồi bệnh lại như cũ. Họ lại khám ở các
bệnh viện khác hoặc tìm tới các giáo sư nổi tiếng, tìm các loại thuốc tốt nhất nhưng bệnh cũng
không khỏi, mặc dù họ làm đủ các loại xét nghiệm nhưng kết quả trả lời là bình thường, chỉ
đến khi họ tìm đến bác sĩ tâm thần và được là chẩn đoán là trầm cảm thì bệnh mới ổn định.
Ở Việt nam hiện nay còn ảnh hưởng nặng nề bởi định kiến bị tâm thần (vì nếu đó là cơ

gái trẻ mà mang tiếng bị bệnh tâm thần thì khó xin việc cho bản thân và khó lấy chồng , khi cơ
gái trẻ mà phải điều trị trầm cảm ở bệnh viện tâm thần thì gia đình họ sẽ dấu khơng cho ai biết
hoặc là nói đang điều trị ở bệnh viện đa khoa trung ương nào đó, khơng bao giờ họ họ nói là
con họ điều trị ở bệnh viện tâm thần) do vậy người dân rất ngại đến với bác sĩ tâm thần vì họ
sợ bị mang tiếng là bị bệnh tâm thần. Việc dấu bị bệnh tâm thần đã làm cho nhiều bệnh nhân
trầm cảm trở thành mạn tính, vì vậy trong suốt thời gian dài họ không thể làm được gì mà lúc
nào cũng chỉ muốn tìm các bệnh viện tốt, các giáo sư và thầy thuốc giỏi. Khi đã đi nhiều nơi
và khơng cịn ai để hỏi nữa hoặc bệnh ngày càng nặng thì họ mới đến với bác sĩ tâm thần. Mặt
khác các bác sĩ đa khoa hầu như ít phát hiện ra trầm cảm đối với bệnh nhân này. Do vậy gần
đây, được sự quan tâm của nhà nước nên nghành tâm thần đã tăng cường tuyên truyền trên các
phương tiện thông tin đại chúng, các hội nghị, hội thảo có mời đơng đảo các bác sĩ đa khoa
tham dự để bổ xung thêm cho họ kiến thức về trầm cảm. [ 7 ]
Trong các bệnh viện tâm thần.
Trong các bệnh viện chuyên khoa tâm thần thì bệnh tâm thần phân liệt thường chiếm tỷ
lệ lớn, việc phân biệt giữa trầm cảm và TTPL nhiều khi cịn khó khăn và khó khăn nhất là
bệnh viện tâm thần tuyến tỉnh hoặc khoa tâm thần nằm trong bệnh viện đa khoa ).
Có thể là do 2 lý do sau.
- Khó phân biệt giữa triệu chứng âm tính của TTPL với trầm cảm
- Các bác sĩ trẻ mới ra trường và các bác sĩ ở xa trung ương nên khơng có các thơng tin
có tính cập nhật về trầm cảm, thâm niên làm trong nghành tâm thần cịn ít…cho nên chưa có


19

nhiều kinh nghiệm, họ thường nghĩ là bệnh nhân bị TTPL thì n tâm điều trị theo hướng
TTPL mà chính họ không nghĩ là bệnh nhân bị cả bệnh trầm cảm, nghĩa là theo họ thì bệnh
nhân hoặc là bị TTPL hoặc là bị trầm cảm. Do vậy trong quá trình điều trị các bệnh nhân
TTPL có trầm cảm mà không biết thường điều trị rất dai dẳng, bệnh nhân thường xuyên kích
động hoặc thậm chí tự sát nhưng vẫn cho là tự sát do các triệu chứng của TTPL hoặc do chán
sống tâm lý. Vậy việc trang bị cho bác sĩ tâm thần (nhất là bác sĩ trẻ ) kiến thức đồng bệnh lý

giữa trầm cảm và TTPL là cần thiết. [ 7 ]
2.2.5. Tiêu chẩn chuẩn đoán trầm cảm.
Để được chẩn đoán là trầm cảm, phải đáp ứng được các tiêu chí triệu chứng nêu ra
trong chẩn đốn thống kê Manual of Mental Disorders ( DSM ). Thống kê này được công bố
bởi hiệp hội Tâm thần Mỹ và được sử dụng bởi các nhà cung cấp sức khỏe tâm thần để chẩn
đoán các điều kiện tinh thần.
Để được chẩn đốn là trầm cảm phải có năm hoặc nhiều hơn các triệu chứng sau đây. Ít
nhất một trong các triệu chứng phải là tâm trạng chán nản, thất thốt một quan tâm hay niềm
vui. Các triệu chứng có thể dựa vào cảm xúc của riêng bản thân hoặc có thể dựa trên các quan
sát của người khác. Chúng bao gồm:
- Sự yếu tâm trạng nhất trong ngày, gần như mọi ngày, chẳng hạn như cảm thấy buồn,
trống giỗng hoặc rơi lệ.
- Giảm hoặc cảm thấy khơng có niềm vui trong tất cả hoặc gần như tất cả các hoạt động
trong ngày, gần như mỗi ngày.
- Giảm cân đáng kể khi không ăn kiêng, tăng cân, giảm hoặc tăng cảm giác ngon miệng
gần như mỗi ngày (ở trẻ em, khơng đạt được trọng lượng như mong đợi có thể là một dấu hiệu
của trầm cảm).
- Mất ngủ hoặc làm tăng ham muốn ngủ gần như mỗi ngày
- Kích động hoặc trở lên chậm chạp
- Mệt mỏi hay mất năng lượng gần như mỗi ngày.
- Cảm xúc của vô dụng hoặc q nhiều tội lỗi khơng thích hợp hoặc gần như mỗi ngày.
- Vấn đề ra quyết định hoặc khó tập trung suy nghĩ gần như mỗi ngày.
- Thường xuyên suy nghĩ về cái chết hoặc tự tử, hoặc cố gắng tự tử [ 2 ]
Chuẩn ICD – 10 F32
- F 32.0. Giai đoạn trầm cảm nhẹ (người bệnh cảm thấy khơng khỏe và tìm sự giúp đỡ
của bác sĩ, vẫn sinh hoạt bình thường)


20


- F 32.1. Trầm cảm mức trung bình (những yêu cầu công việc, việc nhà không đảm
nhiệm nổi)
- F 32.2. Trầm cảm nặng (Bệnh nhân cần điều trị )
- F 32.3. Trầm cảm nhẹ kèm theo các biểu hiện thần kinh khác
- F 32.8 và F 32.9 : Những giai đoạn trầm cảm [ 2 ]
2.2.6. Những dấu hiệu dự đoán về tiến triển, tái phát của trầm cảm.
Trầm cảm và vấn đề tự sát.
Theo tác giả Kaplan H.I, các yếu tố tâm thần có ý nghĩa cao trong tự sát là nghiện
rượu, ma túy, trầm cảm, tâm thần phân liệt… 95% số bệnh nhân tự sát hoặc tự sát khơng thành
cơng mắc một bệnh tâm thần được chẩn đốn xác định, bệnh nhân bị trầm cảm hoang tưởng
có nguy cơ tự sát cao nhất. Nhiều nghiên cứu cho thấy 30 – 70% tự sát có liên quan đến trầm
cảm, trong 6 tháng đầu tiên của bệnh có khoảng 32% bệnh nhân tự sát và 52% có ý định tự
sát trong năm đầu tiên bị bệnh, nam có tỷ lệ tự sát cao hơn nữ ( gấp 2 – 3 lần ), ý tưởng tự sát
sẽ tăng cao khi kết hợp với hoang tưởng ( bị tội ) mà đặc biệt là TTPL loạn khí sắc cùng với
hoang tưởng và ảo giác.
Theo Leff và Hirsch cho là trầm cảm và TTPL ln ln kết hợp với nhau trong đó các
triệu chứng phân liệt thường rõ rệt hơn còn các triệu chứng trầm cảm bị lu mờ, thường gặp
trong giai đoạn loạn thần cấp và có tới 60% bệnh nhân TTPL trầm cảm có ý tưởng tự sát,
khoảng 10 – 15% bệnh nhân TTPL trầm cảm chết do tự sát [ 6 ]
Bệnh nhân trầm cảm thường phàn nàn về ăn thấy khơng ngon trong khi bệnh nhân chán
ăn vẫn có cảm giác ăn ngon và đói (chỉ mất cảm giác ngon trong giai đoạn nặng của chán ăn
tâm thần) và thường bị ám ảnh bởi béo. Có thể sau nhiều lần tái phát của chán ăn tâm thần thì
bệnh trở lên mãn tính và khi đó có thể xuất hiện trầm cảm có thể tự sát ở bất cứ giai đoạn nào;
giai đoạn khởi phát tại gia đình, giai đoạn cấp tại bệnh viện, giai đoạn ổn định tại bệnh viện
hoặc giai đoạn hồi phục lúc ra viện về gia đình.
Những dấu hiệu dự đốn về tiến triển của trầm cảm.
- Tuổi khởi phát muộn trong giai đoạn đầu tiên sẽ có tiên lượng khơng tốt. Sự tiến triển
của trầm cảm tại người cao tuổi thường là nặng vì có thể kết hợp với nhiều bệnh khác và
thường có tự sát, bệnh thường phức tạp cùng với sự hủy hoại trí tuệ và khó có thể kết hợp với
liệu pháp tâm lý – xã hội để điều trị.

- Giai đoạn của cơn kéo dài cũng như việc điều trị muộn cũng là những yếu tố làm cho
bệnh tiến triển xấu.


21

- Các triệu chứng hoang tưởng đáp ứng kém với thuốc chống trầm cảm đơn thuần.
- Các trạng thái hỗn hợp ít có tiên lượng tốt vì thường che đậy một triệu chứng cơ thể
- Tính chất nặng nề của trầm cảm và có các bệnh nội tiết thường là có tiên lượng tốt và
đáp ứng tốt với điều trị.
- Các yếu tố nhân cách có ảnh hưởng khơng tốt đến tiến triển của trầm cảm
Tiến triển và tiên lượng
Theo một số tác giả nghiên cứu, những giai đoạn trầm cảm ở TTPL có các triệu chứng loạn
thần khơng phù hợp với khí sắc thường có tiên lượng xấu hơn là loạn thần phù hợp với khí
sắc. Khoảng 15% bệnh nhân trầm cảm có ý định tự sát. Trung bình một giai đoạn trầm cảm có
thể kéo dài 10 tháng nếu không điều trị, sau giai đoạn khởi đầu 6 tháng có thể có tới 75% bệnh
nhân xuất hiện giai đoạn trầm cảm lần thứ hai.
Trung bình có 5 đợt trầm cảm trong cuộc đời, có khoảng 50% khỏi hồn tồn, 30%
khỏi từng phần và 20% trở thành mạn tính. Khoảng 20 – 30 % loạn khí sắc phát triển thành
một rối loạn trầm cảm lớn ( trầm cảm đôi ), một rối loạn lưỡng cực II hoặc một rối loạn lưỡng
cực I. Khoảng 1/3 bệnh nhân rối loạn khí sắc chu kỳ trở thành rối loạn khí sắc nặng, đặc biệt
là rối loạn lưỡng cực II. Khoảng 45% các trường hợp hưng cảm tái diễn, nếu không điều trị thì
giai đoạn hưng cảm kéo dài 3 – 6 tháng với một tỷ lệ tái phát cao ( trung bình là 10 giai đoạn
). Tiên lượng nhìn chung là tốt với 15% khỏi, 50 – 60% khỏi từng phần, mặc dù tái phát nhiều
lần nhưng các chức năng tâm thần vẫn bình thường giữa các cơn, khoảng 1/3 trở thành mạn
tính và mất khả năng giao tiếp xã hội [ 5 ]
Tái phát.
Tỷ lệ tái phát sau giai đoạn điều trị trầm cảm cấp là 30% trong năm đầu tiên, 50% năm
thứ 2, 70% năm thứ 3.
Trầm cảm tái phát: Triệu chứng trầm cảm tái phát trong giai đoạn thuyên giảm ( tức là

6 tháng tính từ khi khởi phát giai đoạn trầm cảm )
Trầm cảm tái diễn: Giai đoạn trầm cảm khác xảy ra ngồi 6 tháng ( tính từ khi khởi
phát giai đoạn trầm cảm ), giữa 2 giai đoạn trầm cảm có một thời kỳ lành bệnh nhiều tháng mà
khơng có rối loạn khí sắc đáng kể )
Các dấu hiệu dự đoán nguy cơ tái phát hay tái diễn.
Nhiều tác giả đặc biệt nhấn mạnh đến trầm cảm kết hợp với bệnh cơ thể, tuổi cao, các
trầm cảm hoang tưởng ( Tỷ lệ tái phát tới 1 năm từ 75 – 80% ) hoặc trầm cảm kết hợp với
những nét nhân cách bệnh lý. Trong đó tiên lượng rối loạn cảm xúc lưỡng cực là tốt, tiên


22

lượng cũng tốt nếu như đáp ứng tốt với điều trị chống trầm cảm, khơng có các rối loạn nhân
cách, khơng có các yếu tố sang chấn tâm lý xã hội. Rối loạn cảm xúc lưỡng cực có tỷ lệ tái
phát cao hơn đơn cực, tái diễn cũng cao nếu tuổi cao mới xuất hiện trầm cảm trong giai đoạn
đầu tiên, thời gian xen kẽ giữa các cơn ngắn, trước đó đã có nhiều giai đoạn trầm cảm.
Điều trị bệnh nhân trầm cảm.
Nguyên tắc chung.
Điều trị chống trầm cảm có thể được chia làm 3 giai đoạn.
- Điều trị giai đoạn cấp.
Nhằm làm giảm các triệu chứng của giai đoạn, thầy thuốc thăm khám toàn diện dựa vào
lâm sàng, cận lâm sàng – tâm lý – xã hội. Bác sĩ, Điều dưỡng, cử nhân tâm lý cần kết hợp để
lựa chọn các phương pháp điều trị tích cực.
- Điều trị duy trì.
Nhằm tránh tái phát, là sự kết hợp chặt chẽ giữa thầy thuốc, bệnh nhân và gia đình bệnh
nhân để giúp bệnh nhân tuân thủ điều trị, đánh giá kết quả và phát hiện sớm các dấu hiệu tái
phát.
- Điều trị dự phòng. Nhằm tránh tái diễn bệnh
Điều trị cụ thể.
* Điều trị giai đoạn cấp tính.

Bệnh nhân đang điều trị nội trú, cần phải có thời gian ít nhất là sau 2 – 4 tuần điều trị.
Tùy theo tình trạng của người bệnh mà bác sĩ chọn thuốc và chỉnh liều cho phù hợp. Thường
chọn một trong các thuốc sau:
- Thuốc Serotonin ( SSRI )
+ Amitriptiline 10, 25, 50mg. Liều trung bình 20 – 50mg/ngày.
+ Sulpiride 50mg. Liều trung bình 200 – 400mg/ngày.
+ Nufotin 20mg. Liều trung bình 20mg/ngày.
+ Fluoxetine 20mg. Liều trung bình 60mg/ngày
+ Paroxetine. Liều trung bình 20 – 40mg/ngày
+ Citolopram 20, 40mg . Liều trung bình 10 – 60mg/ngày
+ Phenelzire ( Nardil ). Liều trung bình 15 – 90mg/ngày
+ Zoloft 25mg. Liều trung bình 50 – 200mg/ngày
+ Lustral 50mg. Liều trung bình 50mg/ngày


23

- Lưu ý. Người bệnh lầm lì hay kích động, có ý tưởng tự sát, bỏ thuốc, dấu thuốc,
khơng chịu uống thuốc thì dùng đường tiêm theo y lệnh của bác sĩ.
* Điều trị giai đoạn duy trì:
Khi bệnh nhân ổn định ra viện điều trị tại nhà, nhằm phòng tái phát và giúp bệnh nhân trở lại
tái hòa nhập cộng đồng. Liều thuốc duy trì là liều thấp nhất mà có hiệu quả theo đơn của bác
sĩ.
* Điều tri giai đoạn dự phòng:
Cần cho bệnh nhân uống thuốc đều dặn hàng ngày theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa tâm
thần. Không tự ý điều chỉnh liều thuốc khi khơng có ý kiến của bác sĩ chun khoa.
* Tác dụng phụ của thuốc:
Thuốc điều trị trầm cảm có một số tác dụng phụ làm cho bệnh nhân khó chịu, buồn bực dẫn
đến bỏ thuốc, dấu thuốc, không uống thuốc ảnh hưởng tới quá trình điều trị của bệnh nhân.
Như; Làm giảm khả năng tình dục, đau ngực, khó thở, bồn chồn, đứng ngồi không yên, bứt

rứt, thao thức…Bệnh nhân bị khơ miệng, táo bón, bí tiểu, tiêu chảy, xuất tinh ở nam…
Điều trị tâm lý – xã hội.
* Liệu pháp tâm lý:
Tư vấn tâm lý điều trị trầm cảm là một trọng điểm. Tâm lý là một thuật ngữ chung cho
một cách điều trị trầm cảm bằng cách nói chuyện về tình trạng và các vấn đề liên quan với nhà
cung cấp sức khỏe tâm thần. Tâm lý còn được gọi là trị liệu, trị liệu nói chuyện, tư vấn hay trị
liệu tâm lý.
Thơng qua các buổi nói chuyện, tìm hiểu về các nguyên nhân gây trầm cảm để có thể
hiểu được nó tốt hơn. Cũng tìm hiểu làm như thế nào để xác định và thực hiện thay đổi trong
hành vi khơng lành mạnh hay suy nghĩ, tìm hiểu mối quan hệ và kinh nghiệm, tìm cách tốt
hơn để đối phó và giải quyết vấn đề và đặt mục tiêu thực tế cho cuộc sống. Tâm lý có thể giúp
lấy lại cảm giác hạnh phúc và kiểm soát trong cuộc sống và giúp giảm bớt các triệu chứng
trầm cảm như tuyệt vọng và giận dữ.
Liệu pháp nhận thức hành vi là một trong những liệu pháp thông dụng nhất. Liệu pháp
này giúp xác định niềm tin và hành vi tiêu cực và thay thế bằng hành vi lành mạnh, tích cực.
Nó dựa trên ý tưởng rằng những suy nghĩ của riêng mình khơng phải người khác. Ngay cả khi
một tình huống khơng mong muốn khơng thay đổi, có thể thay đổi cách suy nghĩ và cư xử
theo một cách tích cực. Trị liệu tâm lý giữa cá nhân với nhau là loại tư vấn thường được sử
dụng để điều trị trầm cảm.


24

* Lao động liệu pháp.
Là liệu pháp cận lâm sàng, gồm nhiều phương thức được thực hiện do chỉ định của bác
sĩ, là liệu pháp vừa mang ý nghĩa lao động vừa mang ý nghĩa điều trị giúp người bệnh vượt
qua những trở ngại do bệnh gây ra để tái thích ứng với xã hội bằng việc thực hành những kỹ
thuật thủ công cùng với các liệu pháp nghệ thuật khác , liệu pháp nghệ thuật nhằm thu hút và
dẫn dắt bệnh nhân đến với những đồ vật mà họ thích để họ có thể tự thể hiện đặc tính nghệ
thuật của riêng mình. Con người ln có sự tác động tương hỗ với môi trường xung quanh.

Cán bộ liệu pháp (Ergothérapeute – ETP ) tác động vào những rối loạn vận động hoặc rối loạn
tâm thần do rối loạn sự tương hỗ này. ETP đóng vai trị trung gian do vậy sẽ tạo cho bệnh
nhân tính năng động hơn trong quan hệ của họ ( xã hội, nghề nghiệp, cuộc sống hàng ngày,
trao đổi với người khác ). Các hoạt động này có thể là nghề nghiệp, cuộc sống hàng ngày,
nghệ thuật, thủ cơng, văn hóa xã hội và để cho họ tự chủ trong các hoạt động này. ETP giám
sát bệnh nhân hàng ngày về hành vi, quan hệ với người khác, mức độ độc lập và tính tự chủ để
đánh giá mức độ bệnh tật và chất lượng cuộc sống của họ. Với bệnh nhân thì chất lượng quan
hệ là hàng đầu, ETP phải nắm được toàn bộ con người ( BN ) và đưa ra một đề án cuộc sống
mà bệnh nhân cảm thấy là có liên quan với mình, giải thích những ham muốn và không ham
muốn… do vậy mối quan hệ giữa bệnh nhân và ETP là cần thiết. ETP tác động trong cả một
quá trình lâu dài về phục hồi chức năng, về tái thích nghi, trong những lĩnh vực chức năng và
trong lĩnh vực tâm thần cho đến khi tái hòa nhập xã hội nghề nghiệp. ETP giúp bệnh nhân
khơng có khả năng đưa được cốc lên miệng, khơng có khả năng đánh răng… và như vậy bệnh
nhân sẽ lao động trong sự tự chủ của mình như: đi toilette, ăn uống, mặc quần áo, có thể phục
hồi các rối loạn chức năng về nhận thức, về chức năng truyền đạt: chứng mất sử dụng động
tác, trí nhớ, chú ý, mất nhận thức, sơ đồ cơ thể, định hướng thời gian, không gian. Cuối cùng
là phục hồi chức năng về tâm lý xã hội. [ 9 ]
* Liệu pháp văn hóa giải trí.
Liệu pháp văn hóa giải trí thường sử dụng nâng cao hiệu quả của liệu pháp lao động;
bao gồm.
+ Tổ chức các trò chơi:
- Người bệnh tham gia một cách tích cực, hoặc đóng vai trị là khán giả xem người khác
chơi
- Những bệnh nhân ở trạng thái ức chế cần được đưa vào trị chơi của nhóm bệnh nhân
hoạt bát.


25

+ Tổ chức các cuộc dạo chơi:

- Tổ chức cho bệnh nhân đi tham quan các di tích lịch sử, khu vui chơi giải trí lớn.
- Tổ chức đi thực tế để người bệnh gắn bó với đời sống, với quê hương
+ Tổ chức các cuộc trò chuyện. Như tuyên truyền, giáo dục nhận thức cho người bệnh
+ Tổ chức chiếu phim :
- Chọn phim ngắn , mang nhiều tính chất giải trí
- Phim có nội dung phong phú, tránh phim có nội dung xấu buồn, bế tắc.
+ Tổ chức biểu diễn văn nghệ. Động viên bệnh nhân tham gia hát, múa như ca sĩ và
diễn viên.
+ Liệu pháp âm nhạc:
- Cần phát huy âm nhạc lên cảm xúc, tình cảm người bệnh
- Ép người bệnh tham gia các điệu múa tập thể trực tiếp tạo nên những vận động tích
cực cho người bệnh
- Hát karaoke, nghe nhạc nhẹ cũng là hình thức có tác dụng điều trị rộng rãi nhất cho
người bệnh
+ Hướng dẫn người bệnh thể dục, thể thao có tác dụng phục hồi thể lực và tâm lý hứng
thú cho người bệnh. Nó khơi dậy sự tập trung chú ý, trực tiếp tác động lên cơ quan vận động,
làm lưu thơng khí huyết cho bệnh nhân; bao gồm: đi bách bộ, các bài tập thể dục buổi sáng,
thể dục nhịp điệu, đá bóng, đạp xe đạp… [ 9 ]
Tiên lượng bệnh trầm cảm.
Những giai đoạn trầm cảm có các triệu chứng loạn thần khơng phù hợp với khí sắc
thường có tiên lượng xấu hơn là loạn thần phù hợp với khí sắc. Khoảng 15% bệnh nhân trầm
cảm có ý tưởng tự sát. Trung bình một giai đoạn trầm cảm có thể kéo dài 10 tháng nếu khơng
được điều trị, sau giai đoạn khởi đầu 6 tháng có thể có tới 75% bệnh nhân xuất hiện giai đoạn
trầm cảm lần thứ hai. Trung bình có 5 đợt trầm cảm trong đời, có khoảng 50% khỏi hồn tồn,
30% khỏi từng phần và 20% trở thành mạn tính. Khoảng 20 – 30% bệnh nhân loạn khí sắc
phát triển thành một rối loạn trầm cảm lớn ( trầm cảm đôi), một rối loạn lưỡng cực II, một rối
loạn lưỡng cực I. Khoảng 1/3 bệnh nhân rối loạn khí sắc chu kỳ trở thành rối loạn khí sắc
nặng, đặc biệt là rối loạn lưỡng cực II.
Khoảng 45% các trường hợp hưng cảm tái diễn, nếu khơng được điều trị thì giai đoạn
hưng cảm kéo dài 3 – 6 tháng với một tỷ lệ tái phát cao ( trung bình là 10 giai đoạn ), đối với



×