Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Phân tích lý thuyết bàn tay vô hình của A.Smith. Chứng minh rằng lý thuyết cân bằng thị trường của L.Walras là sự kế tục và phát triển lý thuyết bàn tay vô hình của A.Smith.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (379.37 KB, 23 trang )

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Học phần: Lịch sử các học thuyết kinh tế

ĐỀ TÀI 6: Phân tích lý thuyết bàn tay vơ hình của
A.Smith. Chứng minh rằng lý thuyết cân bằng thị trường
của L.Walras là sự kế tục và phát triển lý thuyết bàn tay
vơ hình của A.Smith.
Giảng viên hướng dẫn :
Sinh viên thực hiện

:

Lớp

: CDDH19-NHA

Mã sinh viên

: 16G401016

Hà nội, ngày tháng năm 2020

1


MỤC LỤC
Sinh viên thực hiện :.............................................................................................1

LỜI MỞ ĐẦU


Trong quá trình phát triển, xã hội loài người đã trải qua những hình thái
kinh tế - xã hội khác nhau. Mỗi giai đoạn phát triển khác nhau người ta lý giải
các hiện tượng kinh tế - xã hội dưới nhiều góc độ khác nhau. Cùng với sự
phát triển của xã hội loài người, kinh tế thị trường đã ra đời và phát triển. Sự
phát triển của kinh tế thị trường đã thúc đẩy sự hình thành và phát triển nhiều
học thuyết kinh tế. Mỗi học thuyết kinh tế có những quan điểm và tư tưởng
khác nhau. Tuy nhiên, xét về bản chất các học thuyết kinh tế khác nhau chủ
yếu là xác định vai trò của nhà nước và mối tương quan giữa nhà nước và thị
trường trong vận hành nền kinh tế. Trong thời gian dài, nhiều học giả, nhiều
nhà hoạch định chính sách quốc gia, nhiều nhà chính trị vẫn tiếp tục tranh cãi
câu hỏi: “nhà nước hay thị trường?” vận hành nền kinh tế. Năm 1776, Adam
Smith với tác phẩm “Nghiên cứu về bản chất và nguyên nhân sự giàu có
của các dân tộc” (An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of
Nations) được xem là người đặt “bàn tay vơ hình” cho uy lực của thị trường
tự động điều tiết tài nguyên, tạo nên của cải xã hội. Năm 1936, John Maynard
2


Keynes với tác phẩm “Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ” (The
General Theory of Employment, Interest and Money) được xem là người đặt
“bàn tay hữu hình” cho các hoạt động của nhà nước điều hành chính trị,
kinh tế và duy trì sự ổn định xã hội. Trong lịch sử các học thuyết kinh tế, vai
trò nhà nước được xem là một bộ phận của đối tượng nghiên cứu. Các trường
phái kinh tế khác nhau có quan điểm khác nhau về vai trị nhà nước nhưng
dưới góc độ nào nhà nước vẫn giữ một vai trò nhất định trong đời sống kinh
tế, chính trị, xã hội nhất định. Trong hệ thống các học thuyết kinh tế về vai trò
nhà nước và thị trường, người ta nhận thấy có ba quan điểm: thứ nhất, quan
điểm nhà nước khơng can thiệp vào kinh tế; thứ hai, quan điểm đề cao vai trò
nhà nước trong kinh tế; thứ ba, quan điểm trung dung về vai trò nhà nước
trong kinh tế.


3


CHƯƠNG I
Sơ lược về tiểu sử của Adam Smith
Adam Smith (1723 - 1790 ) là người
Scotland. Ông tốt nghiệp ĐH Glasgow (đáng kinh
ngạc ở tuổi 17!) Ông sang nghiên cứu ở Oxford rồi
quay về Scotland dạy tại ĐH Edinburgh và ĐH
Glassgrow. Ông dạy Triết học Đạo đức. Phải 10
năm sau khi rời ghế chủ nhiệm bộ môn, ông mới
viết sách khiến tên tuổi trở nên lỗi lạc. Khi thôi
dạy Glassgrow, ông đi du ngoạn để gặp gỡ các nhà
tư tưởng lớn thời đó. Thời kỳ này giúp ơng định
hình các tư tưởng và khi về Scotland ông bắt đầu viết sách. Tác phẩm lớn nhất
của ông là 'The Wealth of Nations', xuất bản 1776. Trong tác phẩm, ông nhấn
mạnh lợi ích của chun mơn hố và nhu cầu sinh ra hệ thống cơ chế thị trường,
phản hồi qua hệ thống giá.
• Chi tiết:
Adam Smith là một nhân vật trầm lặng, sống một cuộc đời ẩn dật, một con
người ít viết thư từ và đã ra lệnh đốt bỏ một số bản thảo khi gần qua đời vì vậy
người đời sau hiểu rõ các tư tưởng của Adam Smith hơn là cuộc đời của nhà
Kinh Tế Học này.
Khơng có tài liệu nào ghi rõ ngày sinh của Adam Smith, chỉ biết rằng ông
được rửa tội vào ngày 5 tháng 6 năm 1723 tại Kirkcaldy, một ngôi làng đánh cá
nhỏ nhưng thịnh vượng với dân số gần 1,500 người và nơi này gần thành phố
Edinbug, xứ Tô Cách Lan. Adam Smith là con trai của ơng Adam Smith trong lần
lập gia đình thứ hai với bà Magaret Douglas, con gái của một chủ đất giàu có.
Ơng Adam Smith cha chỉ là một người kiểm soát thuế vụ, đã qua đời trước khi

Adam sinh ra. Người ta khơng biết gì về tuổi trẻ của Adam ngoài câu chuyện kể
lại rằng năm lên 4 tuổi, Adam đã bị bắt cóc do một nhóm người Gypsies sống
lang thang và sau cuộc báo động tìm kiếm, cậu bé Adam đã được nhóm người kia
bỏ lại.

4


Năm 1737 và ở vào tuổi 14, Adam Smith theo học Đại Học Glasgow vào
thời gian này đã là một trung tâm danh tiếng của thời kỳ Khai Sáng
(Enlightenment). Giảng dạy tại đại học này có Giáo Sư Francis Hutcheson nổi
danh về ngành triết học luân lý (moral philosophy), là người đầu tiên dạy sinh
viên bằng tiếng Anh, không dùng tiếng La Tinh, và các quan điểm về Kinh Tế và
Triết Học của ông Hutcheson đã ảnh hưởng rất mạnh tới Adam Smith sau này.
Trong một bức thư viết 15 năm sau, Adam Smith đã nói tới "Tiến Sĩ Hutcheson
khơng bao giờ có thể quên được". Tốt nghiệp năm 1740, Adam Smith nhận được
một học bổng, theo học trường Balliol thuộc Đại Học Oxford. Trong thời gian
sáu năm tại trường đại học này, các sinh viên học tập cách tự học (self-education)
để quán triệt các nền triết học cổ điển và đương thời, họ phải đọc các tác phẩm
của các tác giả Hy Lạp và La Mã, cùng với các cơng trình của các giáo sư đại học
thời đó.
Khi trở lại Glasgow, Adam Smith đi tìm việc làm. Nhờ các liên hệ của gia
đình bên mẹ, nhờ sự trợ giúp của nhà luật học và triết học Lord Henry Kames,
Adam Smith được nhận làm Giảng Sư tại Đại Học Edinburg với nhiệm vụ phụ
trách các buổi thuyết trình cơng (public lectures), đây là một hình thức giáo dục
với tinh thần "cải tiến" (improvement) được các nhà trí thức thời đó ưa chuộng.
Các bài thuyết trình cơng này gồm nhiều đề tài từ mơn tu từ học (rhetoric) tới
ngành chính trị kinh tế học (political economy). Trong bài điếu văn viết về Adam
Smith nhiều năm về sau, Tạp Chí "Q Ơng" (Gentleman 's Magazine) đã bình
luận rằng "cách phát âm và thể văn của ông Adam Smith đã hơn hẳn những thứ

đang dùng tại xứ Tơ Cách Lan".
Trình độ hiểu biết của Adam Smith đã khiến cho ông được mời làm Giáo
Sư Lý Luận (professor of logic) tại Đại Học Glasgow vào năm 1751 ở tuổi 27,
rồi năm sau, trở thành Giáo Sư môn Triết Học Luân Lý (moral philosophy), một
môn học bao gồm các ngành thần học tự nhiên (natural theology), đạo đức học
(ethics), luật học (jurisprudence) và chính trị kinh tế học.
Thời gian đảm nhận chức vụ Giáo Sư tại Đại Học Glasgow là "thời kỳ
sung sướng nhất và danh dự nhất của đời tôi", theo như lời Adam Smith mô tả về
sau. Mỗi ngày trong tuần lễ, ông Adam thuyết giảng từ 7:30 tới 8:30 sáng trước

5


lớp học tối đa 90 sinh viên tuổi từ 14 tới 16, còn đợt giảng bài từ 11 giờ tới 12
giờ trưa được thực hiện 3 lần một tuần lễ. Vào buổi chiều, ông lo công việc của
trường đại học khiến cho vào năm 1758, Adam Smith được bầu làm khoa trưởng.
Các bạn và người quen của Adam Smith trong thời gian này gồm một số nhà quý
tộc, nhiều người nắm giữ các chức vụ cao cấp của chính quyền. Các nhà trí thức
và khoa học gồm có Joseph Black, một người tiền phong về ngành Hóa Học,
James Watt là nhà phát minh ra máy hơi nước, Robert Foulis là nhà sáng lập ra
Viện Hàn Lâm Kiểu Mẫu của nước Anh (The British Academy of Design), David
Hume là nhà triết học danh tiếng. Adam Smith còn quen thân với Andrew
Cochran, một nhà bn, ngun viện phó của Đại Học Glasgow, người sáng lập
ra Câu Lạc Bộ Chính Trị Kinh Tế Học (the Political Economy Club), nhờ đó
Adam Smith thu thập được nhiều hiểu biết của thế giới thương mại để rồi về sau
viết ra tác phẩm "Tài Sản của các Quốc Gia".
Tác phẩm đầu tiên của Adam Smith là cuốn "Lý thuyết về các Tình Cảm
Luân Lý" (The Theory of Moral Sentiments) xuất bản vào năm 1759, được viết
ra với thể văn hào nhoáng, chải chuốt, chứa đựng nhiều giai thoại, mang tính chất
phân tích và tác phẩm này đã tạo nên thứ ấn tượng sâu xa. Adam Smith đã mô tả

qua tác phẩm các nguyên tắc về "bản chất con người" (human nature) và đặt vấn
đề về nguồn gốc của khả năng tạo ra các phán xét luân lý, kể cả cách phán xét
các hành vi của chính mình trong việc tư lợi (self-interest) và tự bảo tồn (selfpreservation). Adam Smith đã cho rằng trong mỗi người chúng ta có một "con
người bên trong" (an inner man) đóng vai trị một người khách quan khơng thiên
vị, thường chấp nhận hay lên án các hành động của chính ta và của các người
khác. Qua tác phẩm "Các Tình Cảm Luân Lý", Adam Smith đã có nhận xét quan
trọng như sau mà sau này ông lặp lại trong tác phẩm "Tài Sản của các Quốc
Gia": “con người tự tìm kiếm mình (self-seeking men) thường bị dẫn dắt bởi
"một bàn tay vô hình" (an invisible hand) … mà khơng ai biết, khơng do chủ
đích, để làm thăng tiến các lợi ích (interest) của xã hội. Các cá nhân được xã hội
hóa để trở nên các thành viên giàng buộc bởi giai cấp và theo khuynh hướng thị
trường (market-oriented) nhờ đó hệ thống kinh tế vận chuyển”.

6


Tác phẩm "Lý thuyết về các tình cảm luân lý" đã sớm mang lại danh tiếng
cho Adam Smith. Nhiều người từ xa đã tới nghe ông diễn thuyết kể cả hai sinh
viên từ Moscow. James Boswell cũng xác nhận lý thuyết của Adam Smith là
quan trọng và Charles Townshend đã phải chú ý đến lý thuyết này. Ông
Townshend là một nhà trí thức kiêm kinh tế học tài tử, một chính khách nhiều
ảnh hưởng và về sau là Bộ Trưởng Thương Mại (Chancellor of the Exchequer)
tức là nhân vật chịu trách nhiệm về các chính sách thuế vụ của nước Anh mà hậu
quả là Cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ. Ông Townshend mới lập gia đình và đang tìm
kiếm một gia sư cho đứa con riêng của bà vợ, tức là Hầu Tước Buccleuch trẻ. Do
sự thán phục tác phẩm kể trên và cũng do lời khuyên của David Hume, Charles
Townshend đề nghị với Adam Smith một số thù lao khó từ chối: lương 500 bảng
Anh một năm cộng với phí tổn du lịch và một số tiền hưu tương đương, tất cả lớn
gấp hai lợi tức của chức vụ giáo sư trong khi thứ lợi tức này tùy thuộc vào học
phí thu được của sinh viên.

Vào năm 1763 Adam Smith từ chức khỏi Đại Học Glasgow rồi cùng vị
Hầu Tước Buccleuch trẻ sang Pháp. Họ cư ngụ phần lớn thời gian tại Toulouse
và trong hoàn cảnh buồn tẻ này, Adam Smith bắt đầu viết tác phẩm "Tài Sản của
các Quốc Gia". Sau 18 tháng rảnh rỗi là hai tháng sống tại Geneva và Adam
Smith đã được gặp Voltaire là nhân vật mà ơng kính trọng. Sau đó Adam Smith
đi tới thành phố Paris. Vào thời gian này, David Hume là Đại Sứ Anh tại nước
Pháp. Adam Smith được giới thiệu với các câu lạc bộ văn học danh tiếng của
phong trào Khai Sáng (the French Enlightenment) và nhờ vậy ông làm quen với
nhóm các nhà lý thuyết và cải cách xã hội, được gọi là các nhà kinh tế (les
économistes), đứng đầu nhóm là Francois Quesnay. Đây là phong trào tìm kiếm
phương pháp canh tân nền nơng nghiệp của nước Pháp bằng đường lối cải cách
hệ thống thuế vụ và ông Quesnay đã phân tích lý thuyết về công việc tiêu dùng
đã được vận chuyển ra sao trong chu kỳ kinh tế để sinh ra tài sản và sự tăng
trưởng kinh tế. Adam Smith đã không đồng ý với ông Quesnay về niềm tin rằng
chỉ có các nơng dân lao động trực tiếp với thiên nhiên hay đất đai mới thực sự
làm ra tài sản, thế nhưng ảnh hưởng của ông Quesnay đối với Adam Smith rất
lớn lao khiến cho nhà Kinh Tế Học người Anh này đã có ý định đề tặng tác phẩm

7


"Tài Sản của các Quốc Gia" cho ông Quesnay nếu như ông này đã không qua đời
trước khi cuốn sách được xuất bản.
Cuộc hành trình của Adam Smith tới thành phố Paris bị cắt ngang vì cậu
em trai của Hầu Tước Buccleuch trẻ qua Pháp rồi cả hai đều bị bệnh nặng, cậu
em trai qua đời mặc dù ông và vị cận thần chăm sóc tận tâm. Adam Smith phải
trở về London và làm việc với Lord Townshend vào mùa xuân năm 1767. Vào
năm này, ông được bầu vào Hàn Lâm Viện Hoàng Gia (The Royal Society) và
nhờ vậy, làm quen với các nhân tài như Edmund Burke, Samuel Johnson, Edward
Gibbson và có lẽ cả với Benjamin Franklin. Tới cuối năm 1767, Adam Smith trở

lại Kirkcaldy và trong vòng 6 năm tại đây, ông đã sửa chữa tác phẩm "Tài Sản"
rồi sau ba năm sống nơi thành phố London, tác phẩm kể trên mới được hoàn
thành và xuất bản vào năm 1776.Ngay sau khi được xuất bản, cuốn "Tài Sản của
các Quốc Gia" đã được mọi người khen ngợi, kể cả David Hume. Sau đó Adam
Smith được bổ nhiệm làm Tổng Giám Đốc Thuế Vụ miền Tô Cách Lan, một
chức vụ rất nhàn, lương năm là 600 bảng Anh, vì thế vào lúc tuổi già, ơng rất
giàu có. Adam Smith sống độc thân, trầm lặng tại Edinburg, đôi khi đi du lịch tới
thành phố London hay tới Glasgow, nơi ông được mời giữ chức vụ Viện Trưởng
Đại Học. Adam Smith đã viết thêm một số tác phẩm nhưng các bản thảo đã bị
ơng ra lệnh đốt bỏ. Ơng qua đời vào năm 1790 ở tuổi 67 khi vẫn còn danh tiếng,
được chơn cất trong sân trên mộ chí của ơng chỉ ghi vắn tắt rằng đây là nơi an
nghỉ của tác giả cuốn sách "Tài Sản của các Quốc Gia".
Mặc dù trước Adam Smith đã có nhiều người viết về các vấn đề và
nguyên lý kinh tế , nhưng hầu hết mọi người đều coi ông là cha đẻ của kinh tế
học. Ơng là người đầu tiên nhìn thấy lợi ích từ việc cạnh trạnh và lập luận
ủng hộ các chính sách thúc đẩy cạnh tranh bằng cách giảm sự can thiệp của
nhà nước vào nền kinh tế và tránh độc quyền.


Những tác phẩm chính của Adam Smith

"Lectures on Rhetoric and Belles Lettres," 1748.
"The Theory of Moral Sentiments," 1759.
8


"Lectures on Rhetoric and Belles Lettres" (1762-1763; in 1958)
"Lectures on Jurisprudence," 1766.
"An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations," 1776.
"Account of the Life and Writings of David Hume", 1777.

"Thoughts on the State of the Contest with America", 1778.
"Essays on Philosophical Subjects", 1795 - gồm :
"The Principles which Lead and Direct Philosophical Enquiries illustrated by
the History of Astronomy"
“The Principles which Lead and Direct Philosophical Enquiries illustrated by
the History of the Ancient Physics"
“The Principles which Lead and Direct Philosophical Enquiries
illustrated by the History of the Ancient Logic and Metaphysics"
"Of the External Senses"
"Of the Nature of that Imitation which takes place in what are called the
Imitative Arts"
"Of the Affinity between certain English and Italian Verses"
"Review of Johnson's Dictionary", 1755, Edinburgh Review

9


"Letter to the Authors", 1756, Edinburgh Review
"Preface and Dedication to William Hamilton's Poems on Several Occasions",
1748, 1758
"Account of the Life and Writings of Adam Smith LL.D." by Dugald Stewart,
1793, Transactions of the Royal Society of Edinburgh.

10


CHƯƠNG II
Nội dung và phân tích học thuyết “Bàn tay vơ hình”
1/. Nội dung:
Bàn tay vơ hình là một phép ẩn dụ, một tư tưởng kinh tế do nhà kinh tế

học Adam Smith đưa ra vào năm 1776. Trong tác phẩm “Tài sản của các quốc
gia” và những bài viết khác, Smith đã tuyên bố rằng, trong nền kinh tế thị trường
tự do, mỗi cá nhân theo đuổi một mối quan tâm và xu hướng lợi ích riêng cho cá
nhân mình, và chính các hành động của những cá nhân này lại có xu hướng thúc
đẩy nhiều hơn và củng cố lợi ích cho tồn cộng đồng thơng qua một "bàn tay vơ
hình". Ơng biện luận rằng, mỗi một cá nhân đều muốn thu lợi lớn nhất cho mình
sẽ làm tối đa lợi ích của cả cộng đồng, điều này giống như việc cộng tồn bộ tất
cả các lợi ích của từng cá nhân lại.
Smith chỉ sử dụng thuật ngữ "bàn tay vơ hình" ba lần trong ba tác phẩm
của ông. Nhưng sau này, thuật ngữ này đã được sử dụng rộng rãi trở thành một lý
luận kinh tế học.
Theo lý luận này, thì hoạt động của mỗi thành viên trong xã hội chỉ mang
mục đích bảo vệ lợi ích của riêng mình; thơng thường, khơng có chủ định củng
cố lợi ích cơng cộng và cũng khơng biết mình đang củng cố lợi ích này ở mức độ
nào. Tuy nhiên khi đó, hệ thống thị trường và cơ chế giá cả sẽ hoạt động một
cách tự phát vì lợi ích của tất cả mọi người như thể có một bàn tay vơ hình đầy
thiện ý điều khiển tồn bộ q trình xã hội và sự điều khiển tự phát này cịn có
hiệu quả hơn cả khi có ý định làm việc này.
Thuyết của Smith chống lại tư tưởng của chủ nghĩa trọng thương (yêu cầu
có sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế), là mầm mống cho đòi hỏi được tự do
kinh doanh, có sự thích hợp với chủ nghĩa tư bản trong một thời kì dài. Tuy nhiên
sau này, thực tế đã cho thấy những điểm chưa hoàn toàn hợp lý của thuyết này,
và người ta vẫn phải dùng đến nhà nước là "bàn tay hữu hình" thơng qua luật
pháp, thuế và các chính sách kinh tế để điều chỉnh nền kinh tế xã hội kết hợp với
cơ chế tự điều chỉnh theo thuyết bàn tay vơ hình để thúc đẩy sự phát triển về kinh
tế xã hội của đất nước.

11



Cũng giống như các nhà lý luận cổ điển khác, A. Smith ủng hộ mạnh mẽ
tư tương tự do kinh tế, đề cao tự do cạnh tranh . điều đó là hoàn toàn phù hợp với
hoàn cảnh kinh tế xã hội của thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh.
Trong tác phẩm “ Nguồn gốc sự giàu có của các quốc gia “, ơng khẳng
định rằng chế độ xã hội bình thường hợp với “ trật tự tự nhiên” là xã hội tư bản,
nền kinh tế bình thường là nền kinh tế phát triển trên cơ sở tự do cạnh tranh, xã
hội bình thường là xã hội xây dựng trên cơ sỡ quy luật tự nhiên, cịn xã hội
khơng bình thường là sản phẩm của độc đoán, ngẫu nhiên và dốt nát của con
người.Nhiều nhà kinh tế học cho rằng tính ích kỷ cá nhân khơng chỉ là cơ sỡ lý
thuyết của ơng, mà A.Smith cịn đề cao tình cảm đạo đức của con người trong tác
phẩn “ lý luận đạo đức”.
Về nguyên lý “bàn tay vơ hình “ ơng viết: “Mỗi cá nhân đều cố gắng sử
dụng vốn cảu mình sao cho có được sản phẩm có giá trị cao nhất. Thơng thường,
cá nhân này khơng có chủ định củng cố lợi ích cơng cộng, mà cũng chẳng biết
mình đang củng cố lợi ích này ở mức độ nào.Cá nhân này chỉ có mục đích bảo vệ
sự an tồn và thành quả riêng của mình.Trong q trình này,một bàn tay vơ hình
này đã buộc anh ta phải theo đuổi một mục đích khơng nằm trong dự định.Trong
khi theo đuổi lợi ích của mình,anh ta đã bảo vệ ln lợi ích của xã hội một cách
có hữu hiệu hơn cả khi anh ta có ý định làm việc này”.
Bàn tay vơ hình,trước hết thể hiện lợi ích của các cá nhân,nó tác động như
là một lực đẩy,hướng con người tới công việc nào mà xã hội sẵn sàng trả
tiền.A.smith viết: “chúng ta khơng mong có bữa trưa nhờ lịng hào phóng của
người mổ thịt,người nấu bia,hoặc người làm bánh,mà ở cách nhìn của họ đối với
lợi ích của bản thân họ.Chúng ta trông chờ không phải ở lịng nhân đạo của
họ,mà ở tính tự tương thân của họ,và khơng bao giờ nói với họ về những nhu
cầu của chúng ta,mà về những lợi ích của họ”.
Ơng đã nêu ra những luận điểm quan trọng về cơ chế vận động của nền
kinh tế thị trường,mà không cần có sự can thiệp của con người,ơng viết “bạn
nghĩ rằng bạn đang giúp cho hệ thống kinh tế bằng những quy định,ý định tốt đẹp
và bằng những quy định,ý định tốt đẹp và những hành động can thiệp của

mình.Khơng phải vậy đâu hãy để cho mọi việc xảy ra đừng nhúng tay vào.Dầu

12


nhờn của lợi cá nhân sẽ làm cho các bánh xe kinh tế hoạt động gần như kỳ
diệu,không cần kế hoạch,không cần quy chế,thị trường giải quyết tất cả”.
A.smith đã đề cao hiệu quả của lợi ích cá nhân: “những con người bao giờ
cũng cần đến những đồng loại của mình và thật vơ ích khi chờ đợi sự tử tế duy
nhất của họ.Sẽ thành cơng chắc chắn hơn,nếu nó hướng tới lợi ích cá nhân của
họ… Anh hãy đưa tơi cái tơi cần,và anh sẽ có được ở tơi cái mà chính anh
cần”.Thị trường sẽ tại ra cái hài hịa giữa các lợi ích bằng phương cách của nó:
“cứ để cho một cá nhân nào đó chạy theo lịng ham lợi của mình,anh ta sẽ thấy
mọc lên những kẻ cạnh tranh làm anh ta mất nghề.Cứ để một người nào đó bán
hàng của mình qúa đắt,hoặc khơng muốn trả cơng cho cơng nhân của mình như
những kẻ khác,anh ta sẽ mất khách trong trường hợp thứ nhất và không có người
lam trong trường hợp thứ hai.Như vậy,những đơng cơ vị kỷ của con người điều
khiển trò chơi,và sự tác động qua lại giữa họ sẽ tạo ra những kết quả bất ngờ
nhất-sự hài hịa của xã hội”.
Ơng đã nhận thức rõ vai trò điều tiết của thị trường qua sự tác động của
cung -cầu và giá cả,ông kết luận: “lợi ích cá nhân sẽ khơi phục sự cân bằng.
Lý thuyết “Bàn tay vơ hình”,với sự thúc đẩy của lợi ích cá nhân và sự điều
tiết của thị trường cạnh tranh.Ơng đã giải thích việc để giá cả thị trường được cân
bằng,khơng phải xa rời chi phí sản xuất thực tế hàng hóa.Ơng đã giải thích việc
xã hội làm như thế nào để hướng những người sản xuất hàng hóa phải cung cấp
những hàng hóa mà xã hội cần,sư tương đồng cơ bản trong thu nhập của dân
chúng ở mỗi trình độ sản xuất của một quốc gia.Nghĩa là ơng đã tìm ra trong cơ
chế thị trường một hệ thống tự điều tiết việc cung ứng cho xã hội một cách có trật
tự.
Theo ơng ,nhà nước là cơng cụ cần thiết để chống thù trong giặc

ngoài,chống tội phạm và bảo vệ đất nước .Tuy nhiên ,đội khi nhà nước cũng có
chức ngồi khả năng của các doanh nghiệpnhư đào sơng,đắp đường…,nhưng nhà
nứoc không nên can thiệp sâu vào các hoạt động kinh tế ,thị trường tự nó sẽ giải
quyết tất cả.

13


2/. Phân tích:
Adam Smith sử dụng hình tượng “bàn tay” để ám chỉ quyền lực chi phối
thị trường. Ông cũng phân quyền lực này thành 2 loại:
1/.Bàn tay hữu hình: Quyền lực chi phối thị trường của Nhà nước. Được
thực hiện thơng qua các chũ trương, chính sách chủ quan của giới cầm quyền.
2/.Bàn tay vơ hình: Quyền lực chi phối thị trường của tự nhiên. Được thực
hiện thông qua các quy luật tự nhiên khách quan, nằm ngoài sự chi phối của con
người.
Rõ ràng, quy luật tự nhiên mạnh hơn suy nghĩ chủ quan của Nhà nước. Từ
đây ta có thể thấy xu hướng ca ngợi “bàn tay vơ hình” của Adam Smith. Ơng
ln kêu gọi chính phủ khơng can thiệp quá sâu vào thị trường.
Theo Adam Smith thì có một "bàn tay vơ hình" thúc đẩy sự vận hành của
nền kinh tế thị trường theo quy luật cung cầu và quy luật giá trị, chi phối tài sản
và cách tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ. Cụ thể là những cá nhân tìm kiếm của cải
theo các mục tiêu riêng lẻ lại vơ tình thúc đẩy nền kinh tế và hỗ trợ phát
triển những lợi ích chung của cả xã hội.
Nhờ lý thuyết về kinh tế học của Adam Smith, Charles Dickens đã có
được cách nhìn sâu sắc về những điều phức tạp và bất công của xã hội tư bản. Và
Charles Dickens đã mở lối cho các nhà văn danh tiếng sau này là Henry James và
Henry Adams.
Sau khi Adam Smith bàn luận về thị trường, Karl Marx đã phân tích bản
chất của chủ nghĩa tư bản thời kỳ cuối thế kỷ 19. Lý thuyết Mác Xít (Marxism)

đã đưa tới cuộc Cách mạng vô sản Nga vào năm 1917 và sự phát triển của Liên
bang Xô Viết sau Chiến tranh Thế giới II.
Rõ ràng là đã có một "bàn tay vơ hình" làm nhiệm vụ điều phối, cung ứng
một nguồn thu nhập khác ngồi lương của cơng chức nên họ mới thể sống được,
sống khỏe, sống không phải lo chén cơm manh áo như đại bộ phận người dân
đang phải đối mặt...
Theo Adam Smith thì có một "bàn tay vơ hình" thúc đẩy sự vận hành của
nền kinh tế thị trường theo quy luật cung cầu và quy luật giá trị, biến những tính
tốn riêng về lợi ích của từng người thành những lợi ích chung cho xã hội.

14


Cuộc sống con người tùy mức sống văn minh sẽ có nhưng nhu cầu vật
chất khác nhau. Mức sống càng cao, yêu cầu vật chất từ ăn no mặc ấm đã nâng
lên ăn ngon mặc đẹp. Nhu cầu về cuộc sống tinh thần, tâm lý, được tôn trọng,
được phục vụ cũng đòi hỏi những sản phẩm tinh thần mới, do đó mà sản phẩm
hàng hỏa và dịch vụ phát triển không ngừng. Khi số lượng yêu cầu của một loại
sản phẩm (vật chất hay tinh thần) lớn đến một mức độ nào đó thì sẽ tạo ra thị
trường của sản phẩm ấy, nghĩa là có người mua, người bán, và bàn tay vơ hình
của nền kinh tế thị trường sẽ làm nhiệm vụ điều hòa. Số lượng, chất lượng, giá cả
sản phẩm sẽ được đưa từ chỗ thừa đến chỗ thiếu, thúc đẩy một sản phẩm mới có
ưu thế, có ích lợi hơn ra đời và loại bỏ sản phẩm lạc hậu, kém giá trị ra khỏi
thương trường. Hoạt động của bàn tay vơ hình thật là vơ tư.
Tuy nhiên, vì vơ tư nên bàn tay vơ hình cũng dễ bị lợi dụng. Người ta đã
tạo ra những trạng thái giả tạo, bằng nhưng hiện tượng thiếu hụt hàng hóa tại một
thời điểm, một địa phương nào đó, làm cho giá cả gia tăng đề trục lợi hoặc dùng
những biện pháp hành chính ngăn cản những dịng hàng hóa vận hành theo quy
luật cung cầu, làm cho giá cả biến động, thị trường bị méo dạng, hay đặt ra chính
sách đối xử bất bình đẳng đối với mặt hàng, nguồn gốc xuất xử, đối tượng tham

gia… Như vậy bàn tay vơ hình sẽ bị lừa, sẽ vận hành một cách khập khễnh, từ đó
một u cầu vơ cùng chính đáng đặt ra là Nhà nước phải tham gia vào thị trường
với mục tiêu là: gỡ bỏ rào cản, loại bỏ những yếu tố làm biến dạng thị trường,
hướng dẫn sản xuất.
3/ Lý luận về thị trường tự do dựa trên học thuyết “Bàn tay vơ hình”:
Thị trường mà nhà nước không can thiệp vào gọi là :thị trường tự do
Các cá nhân trên thị trường tự do theo đuổi quyền lợi của mình bằng cách
cố gắng làm càng nhiều cho mình càng tốt tùy theo khả năng của mình,khơng có
sự giúp đỡ can thiệp nào của chính phủ.Ý tưởng về một hệ thống như vậy có thể
giải quyết các vấn đề sản xuất cái gì ,sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai là
một trong những chủ đề lâu đời nhất của kinh tế học,bắt đầu từ thời Adam
Smith.Ông lập luận rằng một cá nhân theo đuổi quyền lợi của mình được
một”bàn tay vơ hình” dẫn dắt tới chỗ làm những việc có lợi cho xã hội nói
chung.

15


Giả sử bạn muốn trở thành một nhà triệu phú.Bạn ngày đêm suy nghĩ về
những cái mới và phát minh ra một mặt hàng mới,có thể là vơ tuyến,ơtơ hoặc
máy tính cầm tay.Tuy là động cơ cá nhân nhưng bạn đã làm cho xã hội khá giả
lên bằng cách tạo ra những việc làm và những cơ hội mới.Bạn đã dịch chuyển
đường giới hạn sản xuất ra xa hơn-bằng nguồn lực như cũ bây giờ sản xuất ra
được nhiều hàng hơn hay hàng chất lượng cao hơn-và trong quá trình đó bạn trở
thành triệu phú.Smith lập luận rằng sự theo đuổi quyền lực cá nhân khơng có
điều hành từ trung ương có thể tạo ra được một xã hội liên kết chặt chẽ co khả
năng đưa ra các quyết định phân bố hợp lý.

16



CHƯƠNG III
Chứng minh rằng lý thuyết cân bằng thị trường của L.Walras là sự kế
tục và phát triển lý thuyết bàn tay vơ hình của A.Smith
Những nhà kinh tế thuộc trường phái cổ điển muốn tin tưởng vào sức
mạnh của nền kinh tế thị trường và sự hoạt động của các quy luật kinh tế. Theo
họ sự điều tiết của “ Bàn tay vơ hình” sẽ đảm bảo cho q trình tái sản xuất phát
triển bình thường
Vì thế lý thuyết cân bằng thì trường của L.Walras kế thừa và phát triền lý
thuyết bàn tay vơ hình của A.Smith
*Lý thuyết bàn tay vơ hình: Con người khi tham gia các hoạt động kinh
tế ngồi bị chi phối của các lợi ích cá nhân còn chịu tác động của các quy luật
kinh tế khách quan, thậm chí đáp ứng nhu cầu của xã hội tốt hơn đáp ứng nhu
cầu lợi ích cá nhân.
Điều kiện cần thiết để các quy luật kinh tế khách quan hoạt động: Sự tồn
tại và phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Nền kinh tế phát triển trên cơ
sở tự do kinh tế( Tự do sản xuất, tự do liên doanh liên kết, tự do mậu dịch)
Nhà nước không cần thiết phải can thiệp vào nền kinh tế, vì bản thân cơ
chế thị trường có thể giải quyết hài hòa các mối quan hệ của nền kinh tế
*Lý thuyết cân bằng tổng quát: trong nền kinh tế tồn tại 3 thị trường độc
lập: thị trường hàng hóa, lao động và tư bản được liên kết với nhau thông qua
hoạt động của doanh nhân
Khi bán sản phẩm trên thị trường được giá cao hơn chi phí sản xuất doanh
nhân sẽ có lãi vì thế họ mở rộng sản xuất nên phải vay thêm tư bản, thuê thêm
công nhân làm cho sức cầu trên thị trường tư bản và thị trường lao động tăng dẫn
đến giá cả của tư bản và lao động tăng kết quả là chi phí sản xuất tăng.
Mặt khác sản phẩm sản xuất tăng thì sản phẩm hàng hóa trên TTSP tăng
nên giá cả hàng hóa giảm làm cho thu nhập của doanh nhân giảm. khi giá cả của
hàng hóa sản xuất tăng thêm ngang bằng chi phí sản xuất ra chúng thì doanh
nhân khơng có lời trong việc sản xuất thêm vì vậy họ không mở rộng sản xuất

nữa( không vay thêm tư bản và thuê thêm công nhân nữa)

17


CHƯƠNG IV
Nhận xét và ý nghĩa
1./ Nhận xét:
Trong 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, chúng ta đã từng bước phục
hồi nền kinh tề thị trường. Nhà nước đã từ đổi mới về mục đích cơ cấu và
phương pháp vận hành dễ phù hợp với nền kinh tế thị trường ấy. Do đó mà đời
sống xã hội đã có một bước tiến khá dài, đại bộ phận nhân dân từ chỗ thiếu ăn,
thiếu mặc đang bước vào ngưỡng cửa ăn ngon mặc đẹp. Tuy nhiên, nếu so sánh
với các nước chung quanh, thì khoảng cách tụt hậu chưa thể rút ngắn, điều này
khiến chúng ta phải có những bước cải cách mới để tạo động lực mới, gia tăng
tốc độ tăng trưởng cho nền kinh tế của chúng ta.
Theo ý kiến một số nhà đầu tư có mặt tại Việt Nam nhiều năm nay, thì tiền
lương lao động thấp không hẳn là một ưu thế của nền kinh tế Việt Nam bởi lương
thấp đi đôi với năng suất lao động thấp, điều ấy khơng cịn ý nghĩa gì nữa về mặt
kinh tế, trong khi có thể cịn làm hại về mặt xã hội. Người lao động thu nhập thấp
thì sẽ khơng đủ sống, như vậy họ sẽ khó hồn thành nhiệm vụ được giao theo
pháp luật hay hợp đồng tương ứng với chức năng, nhiệm vụ của họ.
Điều này xưa nay các nhà đầu tư khơng dám có ý kiến với Nhà nước
chúng ta nhưng rõ ràng chế độ tiền lương cán bộ nhà nước quá thấp đã ảnh
hưởng đến nhiệm vụ, chức năng, thái độ làm việc của họ, nhất là trong xử lý các
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong cũng như ngoài nước. Biểu hiện cụ
thể của tình hình này là thủ tục nhiêu khê, rườm rà, một số văn bản pháp lý
không rõ ràng, cách áp dụng và giải thích luật lệ mỗi nơi mỗi khác, làm cho
doanh nghiệp phải đương đầu với các yếu tố:
- Rủi ro cao trong mọi tình huống

- Thời gian quay vịng vốn chậm
- Chi phí vơ hình tăng
- Giá thành trên một đơn vị sản phẩm năm sau cao hơn năm trước, đưa
đến tình trạng khơng thể cạnh tranh được với hàng hố nước ngồi.
Chế độ tiền lương của cán bộ Nhà nước thấp tưởng chừng như không liên
can gì với giá thành sản phẩm hàng hố, nhưng suy cho cùng thì sẽ thấy khi “sản

18


phẩm công” mà Nhà nước cung ứng cho doanh nghiệp có chất lượng kém thì sẽ
tạo ra biết bao gánh nặng như đã nêu trên.
Liệu có ai tin rằng cán bộ chúng ta thật sống với đồng lương “hình thức"
đó khơng? Rõ ràng là khơng, vì người ta thừa biết cuộc sống của cán bộ Nhà
nước luôn luôn trên mức trung bình của người dân trong tất cả mã vùng của đất
nước. Như vậy tất nhiên họ phải nhờ vào nguồn thu nhập khác ngoài lương để
giữ được mức sống đang có. Thế thì nguồn thu nhập đó từ đâu đến, trong khi về
hình thức họ khơng tham gia hoạt động dịch vụ SXKD. Rõ ràng là đã có một
"bàn tay vơ hình" làm nhiệm vụ điều phối, cung ứng một nguồn thu nhập khác
ngồi lương của cơng chức nên họ mới có thể sống được, sống khỏe, sống khơng
phải lo chén cơm manh áo như đại bộ phận người dân đang phải đối mặt.
Khổ nỗi "bàn tay vơ hình" này lại biến cái lợi ích chung thành cái riêng.
Đương nhiên, nguồn thu nhập do "bàn tay vơ hình" này đưa đến vơ cùng phức
tạp, đa dạng, có chất lượng, số lượng và đạo lý khác nhau. Chỉ riêng xét ớ góc độ
đạo lý thơi thì chúng ta cũng có thấy những mức nhận thức khác nhau:
- Bị xúc phạm, nhưng bất khả kháng.
- Quyền biến nhất thời để sống và làm việc.
- Xem như một sự cân đối bù trừ với những điều mà đáng lý ra một chế độ
tiền lương phải thực hiện đầy đủ, nhưng Nhà nước chưa làm được.
- Cũng là một sự trả công của xã hội cho cơng sức của mình đã bỏ ra.

- Cũng là một thu nhập do cơng sức của mình tạo ra.
- Là một cơ hội làm ăn mà nếu mình khơng làm thì người khác cũng làm.
- Xem đây là con đường ngắn nhất để đầu tư cho cuộc đời nên phải nắm
thời cơ khai thác triệt để.
- Phải nhanh tay lẹ chân, đánh nhanh đánh bạo kẻo trễ.
Sự xuất hiện của "bàn tay vơ hình" thứ hai bên cạnh bàn tay vơ hình của
nền kinh tế thị trường dễ làm cho sự vận hành của nền kinh tế, cũng như việc
điều hành bộ máy Nhà nước của chúng ta khơng cịn khách quan, thậm chí trong
nhiều trường hợp thiếu trong sáng. Khi ấy bàn tay vơ hình trở thành bàn tay "ma
quái" gây tai họa cho đất nước qua các hành vi tham ơ, lãng phí.

19


Tuy nhiên, cũng có người cho rằng, nền kinh tề chúng ta khơng có khả
năng cung cấp một mức lương đủ sống cho công chức Nhà nước. Điều này
không đúng, vì nguồn tiền mà bàn tay "ma qi" đó sử dụng thật sự là nằm trong
nền kinh tế của chúng ta đó thơi. Chỉ có điều là ta chưa thật sự quyết tâm thực
hiện cải cách thế chế quản lý Nhà nước, tinh giản bộ máy hành chính và loại bớt
những người ăn lương vô công rồi nghề, để vừa đỡ nhiễu nhương cho dân, đồng
thời tiết kiệm được nguồn tài chính Nhà nước. Có như vậy sẽ thừa khả năng tăng
lương cho những cán bộ có năng lực, cần mẫn, làm như vậy sẽ vơ hiệu hóa bàn
tay vơ hình thứ hai. Cịn nếu ta vấn tiếp tục duy trì tình trạng dửng dưng với
lương "hình thức" như lâu nay thì đó là cơ hội cho bàn tay ma qi vùng vẫy vơ
tư giữa bao nhiêu cái khó khăn của đời sống kinh tế xã hội đất nước.
II/ Ý nghĩa:
Là tiền đề cho sự phát triển nền kinh tế thị trường và tự do thương mại
quốc tế ngày nay. Học thuyết cũng là cơ sở để các nhà kinh tế học sau phát triển.
Đây cũng là học thuyết cho thấy tầm quan trọng của quy luật khách quan, đặc
biệt là quy luật cân bằng về cung-cầu giá cả.

Theo học thuyết đó thì hoạt động của mỗi thành viên trong xã hội chỉ có
mục đích bảo vệ sự an tồn và thành quả của riêng mình; thơng thường, khơng có
chủ định củng cố lợi ích cơng cộng và cũng khơng biết mình đang củng cố lợi ích
này ở mức độ nào. Trong khi đó, hệ thống thị trường và cơ chế giá cả vẫn hoạt
động một cách tự phát vì lợi ích của tất cả mọi người như thể có một "Bàn tay vơ
hình" đầy thiện ý điều khiển tồn bộ quá trình xã hội, buộc cá nhân phải theo
đuổi một mục đích khơng nằm trong dự định. Trong khi theo đuổi lợi ích cá
nhân, con người thường bảo vệ ln lợi ích của xã hội một cách hữu hiệu hơn cả
khi có ý định làm việc này. Thuyết của Adam Smith chống lại tư tưởng của chủ
nghĩa trọng thương (yêu cầu có sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế), là tiếng
nói của chủ nghĩa tư bản đã trưởng thành đòi hỏi được tự do kinh doanh. Tư
tưởng của Adam Simth thích hợp với chủ nghĩa tư bản trong một thời kì dài, thời
kì tự do cạnh tranh. Sau này, khi vấp phải những cuộc khủng hoảng kinh tế sâu
sắc thì những nhà kinh tế học khác lại kêu gọi đến bàn tay hữu hình của nhà nước
để điều chỉnh kinh tế. Để khắc phục những khuyết tật của cơ chế "Bàn tay vô

20


hình", nền kinh tế hiện đại cần được điều hành bởi sự kết hợp giữa "Bàn tay vơ
hình" của thị trường với bàn tay hữu hình của nhà nước thơng qua luật pháp, thuế
và nhiều biện pháp kinh tế, tài chính khác; vai trị vĩ mơ cũng như vi mơ của nhà
nước ngày càng tỏ ra quan trọng trong nền kinh tế thị trường.

21


KẾT LUẬN
Thuyết “Bàn tay vơ hình” là lý luận đầu tiên về cơ chế kinh tế thị trường
và sự vận hành của nền kinh tế, chế ngự nền kinh tế thế giới trong suốt thể kỉ

XIX. Theo Adam Smith (1976), chính quyền mỗi quốc gia khơng cần can thiệp
sâu vào hoạt động của các cá nhân và doanh nghiệp, vốn có thể tự vận động trong
thị trường. Trong nền kinh tế thị trường tự do, động lực cải thiện điều kiện kinh
tế và xã hội của mỗi cá nhân sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của của xã
hội. Tuy nhiên, Smith (1976) cho rằng, việc theo đuổi tư lợi trên quy mô rộng lớn
của các doanh nhân có thể ảnh hưởng tiêu cực đến lợi ích chung, đến sự phát
triển của cả quốc gia. Cụ thể, thuyết bàn tay vơ hình giải thích các chiến lược và
quy luật áp dụng trong kinh doanh, như trong đầu tư vốn để thu lại lợi nhuận tối
đa từ “sự áp bức” trên cơ sở độc quyền trong hàng hóa, sự kiểm soát giá cả thi
trường và khả năng ràng buộc các tổ chức lao động. Theo Smith (1976), tất cả
các vận động tư lợi với chính quyền của các thương gia và nhà sản xuất đều là
những nỗ lực nhằm lừa gạt và áp bức xã hội. Ví dụ, nếu các thương gia theo đuổi
tư lợi thao túng chính trị, họ sẽ chỉ tìm cách lật đổ thị trường tự do vì tư lợi của
mình và những người liên quan.
Một cách khái qt, trong chương này, chúng tơi đã trình bày học thuyết
bàn tay vơ hình của Smith (1976): từ bối cảnh lịch sử hình thành, phát triển và
ứng dụng có giá trị hiện nay. Lý thuyết đã tổng hợp, giải thích các vấn đề về tự
do thương mại, lợi nhuận, độc quyền, cạnh tranh gắn với tư lợi của các thương
gia, nhà sản xuất đến sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Trong bối cảnh hiện
nay, thuyết bàn tay vơ hình bộc lộ một số hạn chế, vì vậy, các cá nhân, tổ chức
nói chung và các doanh nghiệp nói riêng cần nghiên cứu chi tiết, đồng thời áp
dụng thuyết bàn tay vơ hình phù hợp tới tình hình kinh doanh và thực trạng nền
kinh tế.

22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Adam Smith, của cải của các dân tộc, NXB Giáo dục, 1997.
2. Alain Geleđan (chủ biên), Lích sử tư tưởng kinh tế, tập 1, NXB Khoa học xã

hội, 1996.

23



×