Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Luận văn Thạc sĩ Quyền yêu cầu khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại – từ thực tiễn của tỉnh Quảng Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (632.25 KB, 119 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

................/...............

......../.......

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
ĐINH LÂM XƯỚNG

QUYỀN YÊU CẦU KHỞI TỐ CỦA NGƯỜI BỊ HẠI TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

................/...............

......../.......

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
ĐINH LÂM XƯỚNG

QUYỀN YÊU CẦU KHỞI TỐ CỦA NGƯỜI BỊ HẠI TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG BÌNH



LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. VŨ TRỌNG HÁCH

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng cá nhân tôi.
Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và
chưa được cơng bố trong bất kỳ cơng trình khoa học nào khác. Các thơng tin
trích dẫn trong luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc.
Thừa Thiên Huế, ngày

tháng

năm 2018

Học viên
Đinh Lâm Xướng


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện luận văn , tôi luôn luôn nhận được sự động
viên, giúp đỡ tận tình của các thầy cơ giáo, bạn bè, đồng nghiệp và gia đình.
Trước hết tơi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Vũ Trọng Hách, người

đã trực tiếp hướng dẫn tôi trong q trình nghiên cứu để hồn thành luận văn
này.
Tơi xin bày tỏ lòng biết ơn đến Quý lãnh đạo Học viện Hành chính
Quốc gia, các Khoa, Phịng cũng như các thầy cô giáo đã tham gia quản lý,
giảng dạy và gia đình đã tạo điều kiện, giúp đỡ tơi trong suốt quá trình học
tập và nghiên cứu, trong việc thu thập số liệu, thông tin cần thiết phục vụ thực
hiện luận văn tốt nghiệp.
Cuối cùng xin chân thành cảm ơn các bạn học viên lớp Cao học Luật
Hành chính - Luật Hiến pháp LH3.T2 đã cùng tôi chia sẽ kiến thức và kinh
nghiệm trong quá trình học tập và nghiên cứu đề tài.
Trong quá trình thực hiện luận văn, mặc dù đã hết sức cố gắng trong
việc tiếp thu, trau dồi những kiến thức đóng góp của Quý thầy, cô giáo và bạn
bè, đã tham khảo thông tin từ nhiều nguồn tài liệu khác nhau, song khó tránh
khỏi thiếu sót, rất mong nhận được thơng tin góp ý của Quý thầy, cô và bạn
đọc.
Xin chân thành cảm ơn!./.
Học viên
Đinh Lâm Xướng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN YÊU CẦU
KHỞI TỐ CỦA NGƯỜI BỊ HẠI................................................................. 6
1.1. Những khái niệm cơ bản.......................................................................... 6
1.2 Những quy định của pháp luật về quyền yêu cầu khởi tố của người bị hại ... 12
1.3. Những yếu tố bảo đảm quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của người bị hại . 20
Tóm tắt chương I .......................................................................................... 35
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN YÊU CẦU TỐ
CỦA NGƯỜI BỊ HẠI TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG BÌNH .............. 36

2.1. Khái quát tổ chức bộ máy Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Quảng Bình . 36
2.2 Phân tích thực trạng giải quyết, xét xử các vụ án do người bị hại yêu cầu
khởi tố .......................................................................................................... 45
2.3. Đánh giá chung: ................................................................................... 60
Tóm tắt chương 2 ......................................................................................... 69
CHƯƠNG 3.QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN YÊU
CẦU KHỞI TỐ VỤ ÁN CỦA NGƯỜI BỊ HẠI TỪ THỰC TIỄN TỈNH
QUẢNG BÌNH............................................................................................ 71
3.1. Quan điểm bảo đảm quyền yêu cầu khởi tố của người bị hại ................. 71
3.2 Giải pháp bảo đảm quyền yêu cầu khởi tố của người bị hại ................... 98
Tóm tắt chương 3 ....................................................................................... 110
KẾT LUẬN ............................................................................................... 111
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Quyền công dân là một vấn đề cơ bản được quy định xuyên suốt trong
các bản Hiến pháp Việt Nam ( Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 ( sửa đổi,
bổ sung năm 2001), 2013). Đặc biệt Hiến pháp 2013 tiếp tục ghi nhận và mở
rộng hơn các quyền con người, quyền công dân. Hiến pháp quy định một
nguyên tắc cơ bản là: “ Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các
quyền con người, quyền cơng dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội
được cơng dân tơn trọng và bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” [
Khoản 1, Điều 14 Hiến pháp 2013]. Trong các quyền của cơng dân có quyền:
“ mọi người có quyền bất khả xâm phậm về thân thể, được pháp luật bảo hộ
về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn bạo lực, truy bức, nhục
hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, xúc phạm danh
dự, nhân phẩm” [Điều 20 Hiến pháp 2013].
Từ những quy định của Hiến pháp, pháp luật tố tụng hình sự đã cụ thể hóa

những quyền của cơng dân trong đó có quyền của bị hại được yêu cầu khởi tố
vụ án hình sự khi có những hành vi trên thực tế xâm phạm đến các quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ [ Điều 65 Bộ Luật tố tụng
hình sự 2015]. Bị hại là người bị thiệt hại về thể chất và tinh thần hoặc tài sản
do hành vi phạm tội gây ra, quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm hại. [
Điều 65 Bộ luật tố tụng hình sự 2015]. Trách nhiệm của Nhà nước, cụ thể là
trách nhiệm của các củ thể có thẩm quyền ( chủ thể tiến hành tố tụng) chủ
động theo nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật tố tụng hình sự quy định khởi
tố vụ án hình sự khi có căn cứ cho rằng trên thực tế có hành vi trái pháp luật
xâm phạm đến các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ. Nhưng bên
cạnh đó pháp luật tố tụng hình sự cũng trao cho bị hại (chủ yếu là công dân)
1


được quyền chủ động yêu cầu khởi tố vụ án hình sự để baroo vệ các quyền,
lợi ích hợp pháp của mình được pháp luật hình sự quy định.
Những năm qua được sự tư vấn, hướng dẫn của các cơ quan, tổ chức, cá
nhân hoạt động trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý, luật sư, các chủ thể tiến hành
tố tụng hình sự người bị hại đã nhận thức được các quyền của mình được
pháp luật tố tụng hình sự quy định để chủ động bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của mình khi tham gia với tư cách là bị hại trong các vụ án hình sự. Tuy
nhiên, trên thực tế vẫn cịn khơng ít bị hại chưa nhận thức được đầy đủ các
quyền của mình được pháp luật hình sự quy định để chủ động tham gia bảo vệ
các quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong vụ án hình sự mà họ hoặc người
được họ đại diện hợp pháp là bị hại.
Vì vậy, học viên chọn nghiên cứu đề tài “Quyền yêu cầu khởi tố vụ án
theo yêu cầu của người bị hại – từ thực tiễn của tỉnh Quảng Bình”làm luận
văn thạc sỹ luật học, chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu:
Ở Việt Nam đã có các cơng trình khoa học nghiên cứu về bị hại, quyền của

người bị hại dưới góc độ quyền con người, quyền cơng dân, quyền yêu cầu
khởi tố vụ án của người bị hại dưới góc độ ngành luật tố tụng hình sự, như:
-Nguyễn Ngọc Chí ( 2013), giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb
Đại học Quốc gia, Hà Nội.
-Lê Thị Thúy Nga (2003), Một số vấn đề về người bị hại trong tố tụng
hình sự Việt Nam.
-Lê Tiến Châu ( 2008), Mơ hình, hình thức tố tụng hình sự và việc bảo vệ
quyền con người, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật.
-Phạm Mạnh Hùng ( 2007), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của việc
khởi tố vụ án và việc kiểm sát khởi tố vụ án, Tạp chí Kiểm sát.

2


-Hoàng Lan Phương ( 2009), Khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại
trong luật Tố tụng hình sự Việt Nam, luận văn thạc sỹ luật học, chuyên ngành
luật tố tụng hình sự, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
-Lê Lan Chi ( 2010), Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình
sự trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam -–hững vấn đề lý luận và thực tiễn,
Luận án tiến sỹ luật chuyên ngành Luật tố tụng hình sự, Khoa Luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội.
Luận văn của học viên có kế thừa kết quả nghiên cứu của các cơng trình
khoa học nêu trên và các cơng trình khoa học khác có liên quan đã được công
bố trong thời gian gần đây. Tuy nhiên, chưa có cơng trình khoa học nào được
cơng bố thời gian gần đây về quyền yêu cầu khởi tố của người bị hại - từ thực
tiễn tỉnh Quảng Bình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
-Mục đích: nghiên cứu lý luận và thực tiễn nhằm đề xuất hệ thống giải
pháp bảo đảm quyền yêu cầu khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại.
-Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, trong q trình nghiên cứu luận

văn cần giải quyết những vấn đề sau:
+ Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về quyền yêu cầu khởi tố vụ án của
người bị hại;
+ Phân tích, đánh giá thực trạng trong việc thực hiện quyền yêu cầu khởi
tố vụ án hình sự của người bị hại từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình;
+ Đề xuất hệ thống giải pháp nhằm bảo đảm quyền yêu cầu khởi tố vụ án
hình sự của người bị hại từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
-Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu quyền yêu cầu khởi tố vụ án của ngườu bị hại trong
các vụ án hình sự.
3


-Phạm vi nghiên cứu
+Không gian: từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình
+Thời gian: từ 2013 đến 2017
+Nội dung: yêu cầu khởi tố vụ án của bị hại được quy định trong các Điều:
134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156, 226 Bộ Luật hình sự 2015. Luận
văn cũng chỉ tập trung nghiên cứu phân tích thực trạng bảo đảm quyền yêu
cầu khởi tố vụ án của người bị hại qua thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân
tỉnh Quảng Bình.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu:
-Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật lịch sử và
duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác –Lênin, quan điểm của Đảng, pháp
luật của Nhà nước về quyền con người, quyền công dân.
-Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: phân tích, tổng hợp, thống
kê, so sánh, khảo sát thực tế và một số phương pháp khác.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Về lý luận
+Luận văn đã hệ thống hóa và làm rõ hơn những vấn đề lý luận về quyền
yêu cầu khởi tố vụ án của bị hại;
+Phân tích, đánh giá được thực trạng về quyền yêu cầu khởi tố vụ án của
người bị hại, chỉ ra được những hạn chế và nguyên nhân làm cơ sở cho việc
đề xuất hệ thống giải pháp.
-Về thực tiễn
+Đề xuất được hệ thống giải pháp tăng cường bảo đảm thực hiện quyền
yêu cầu khởi tố của người bị hại;

4


+Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong
nghiên cứu, học tập, giảng dạy và hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực bảo đảm
thực hiện các quyền của công dân, cụ thể là quyền của người bị hại trong
pháp luật hình sự và tố tụng hình sự.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn có
kết cấu 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về quyền yêu cầu khởi tố của người bị
hại.
Chương 2: Thực trạng về quyền yêu cầu khởi tố của người bị hại được
xem xét thông qua công tác giải quyết, xét xử ở Tịa án thuộc tỉnh Quảng
Bình.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm quyền yêu cầu khởi tố vụ án
của người bị hại từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình

5



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN YÊU CẦU KHỞI TỐ
CỦA NGƯỜI BỊ HẠI
1.1. Những khái niệm cơ bản
1.1.1. Quyền con người
Quyền con người là một phạm trù đa diện, do đó có nhiều định nghĩa khác
nhau (Theo tài liệu của Liên hợp quốc, có đến gần 50 định nghĩa về quyền
con người đã được công bố, mỗi định nghĩa tiếp cận vấn đề từ một góc độ
nhất định, chỉ ra những thuộc tính nhất định, nhưng khơng có định nghĩa nào
bao hàm được tất cả các thuộc tính của con người).
Tính phù hợp của các định nghĩa có về quyền con người phụ thuộc vào sự
nhìn nhận chủ quan của mỗi cá nhân, tuy nhiên ở cấp độ quốc tế, định nghĩa
của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người thường được trích
dẫn bởi các nhà nghiên cứu. Theo định nghĩa này, quyền con người là những
bảo đảm pháp lý tồn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống
lại những hành động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự
được phép và tự do cơ bản của con người.
Ở Việt Nam trong giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người,
Quyền con người được định nghĩa là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên vốn có
của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa
thuận pháp lý quốc tế.
Trong các bản Hiến pháp nói chung, quyền con người được hiểu là quyền
áp dụng tất cả mọi người thuộc mọi dân tộc đang sinh sống trên pham vi tịan
cầu, khơng phân biệt quốc tịch, khơng phụ thuộc vào biên giới quốc gia hay
tư cách cá nhân cụ thể hiện mối liên quan giữa cá nhân với cộng đồng nhân
loại. Vì thế Hiến pháp ghi nhận các quyền được áp dụng cho “mọi người” là
6



quyền con người; ví dụ quy định tại các Điều 16, 19, 20, 21, 24, 33, 34... của
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
1.1.2. Quyền công dân
Quyền công dân là thể hiện mối quan hệ pháp lý giữa cơng dân đó với
nước sở tại. Như vậy có thể hiểu: Quyền cơng dân là tập hợp những quyền
con người được pháp luật của một quốc gia ghi nhận và chỉ những người
mang Quốc tịch của nước đó thì mới được hưởng các quyền cơng dân mà
pháp luật nước đó quy định.
Như vậy, quyền cơng dân của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là tập hợp những quyền được Hiếp pháp và pháp luật nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam ghi nhận và chỉ những người mang Quốc tịch Việt Nam
mới được hưởng.
1.1.3. Khởi tố vụ án hình sự
Theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, thì quá trình tố tụng chia thành các
giai đoạn: khởi tố, điều tra, xét xử và giai đoạn đặc biệt là xét xử giám đốc
thẩm, tái thẩm. Khởi tố vụ án hình sự là một giai đoạn độc lập trong q trình
tố tụng có chủ thể, có nhiệm vụ, có hành vi, cơ sở và các văn bản tố tụng đặc
trưng.
Vì khái niệm khởi tố vụ án hình sự khơng quy định chính thống trong Bộ
Luật Tố tụng hình sự cho nên hiện nay, dưới góc độ nghiên cứu tồn tại nhiều
quan điểm khác nhau:
"Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu tố tụng hình sự có nhiệm vụ
xác định có hay khơng có dấu hiệu của tội phạm. Giai đoạn này mở đầu bằng
quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự"[1]. Nếu theo khái niệm
này, về khởi tố vụ án hình sự thì ta thấy chưa bao quát được chủ thể trong
hoạt động khởi tố.

7



"Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu tố tụng hình sự. Trong đó cơ
quan có thẩm quyền xác định có hay khơng có dấu hiệu tội phạm để quyết
định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự" [2] . Theo khái niệm này thì lại
khơng nêu được cơ sở để đưa vào đó chủ thể có thẩm quyền xem xét, xác
minh dấu hiệu tội phạm.
"Khởi tố vụ án hình sự là việc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác
định có dấu hiệu tội phạm để mở cuộc điều tra theo tố tụng hình sự" [3].
Các khái niệm nêu trên xét trên phương diện tổng thể chưa có khái niệm
nào bao hàm được những vấn đề cơ bản của khởi tố vụ án hình sự. Theo quan
điểm của học viên, trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự quy định chung hiện
nay tại Chương VIII Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015 có những đặc điểm cơ
bản cần phải đưa vào khái niệm đó là: chủ thể của quan hệ tố tụng; nhiệm vụ
của hoạt động tố tụng; cơ sở, căn cứ pháp lý của hoạt động tố tụng; vị trí, vai
trò của hoạt động tố tụng; văn bản pháp lý đặc trưng.
Dựa trên những khái niệm khoa học vừa nêu trên và dựa vào những quy
định của pháp luật hiện hành có thể hiểu khái niệm khởi tố vụ án hình sự như
sau:
"Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của hoạt động tố tụng hình
sự, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trên cơ sở quy định của pháp luật để
tiến hành xem xét, xác minh có hay khơng có dấu hiệu tội phạm để quyết định
khởi tố hoặc khơng khởi tố vụ án hình sự. Quyết định khởi tố vụ án hình sự
làm xuất hiện vụ án và là tiền đề cho hoạt động điều tra và các giai đoạn tố
tụng tiếp theo".
1.1.4. Người bị hại
Thuật ngữ người bị hại lần đầu tiên xuất hiện trong Thông tư số 16/TATC
ngày 27 tháng 9 năm 1974 của TANDTC. Theo đó, người bị hại được định
nghĩa “ là công dân đã bị kẻ phạm pháp trực tiếp xâm phạm đến thể chất, tài
8



sản, hay xâm phạm về tinh thần”( như bị lăng nhục, đánh, giết, trộm cắp, lừa
đảo…). Như vậy, theo định nghĩa của Thơng tư 16/TATC của TANDTC thì
người bị hại ở đây được xác định rõ là cá nhân công dân Việt Nam đã bị kẻ
phạm pháp ( tội phạm) gây thiệt hại trực tiếp đến thể chất, tài sản hay tinh
thần.
Cũng tương tự cách định nghĩa trên của Thông tư 16/TATC của
TANDTC, khoản 1 Điều 39 BLTTHS năm 2003 quy định về người bị hại: “
Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, về tinh thần hay về tài sản do
tội phạm gây ra” và Khoản 1 Điều 51 BLTTHS năm 2003 quy định: “ Người
bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra”.
Tuy nhiên, người bị hại ở đây được xác định rộng hơn là ngồi cơng dân Việt
Nam cịn có thể là cá nhân khác như người nước ngồi hoặc người khơng có
quốc tịch đang sinh sống, học tập hoặc làm việc, thăm thân, du lịch… trên
lãnh thổ Việt Nam và bị kẻ phạm tội gây thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài
sản.
Khoản 1, Điều 62 BLTTHS năm 2015 quy định bị hại: “ Bị hại là cá nhân
trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị
thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra ”. Theo quy
định tại khoản 1 Điều 62 BLTTHS năm 2015 bị hại có các đặc điểm sau:
-Về chủ thể bị hại bao gồm là cá nhân, pháp nhân, tổ chức;
-Thiệt hại do tội phạm gây ra được phân chia bao gồm: cá nhân bị thiệt hại
trực tiếp về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về
tài sản, uy tín. Hậu quả của sự thiệt hại không phải là điều kiện bắt buộc trong
tất cả các trường hợp.
-Thiệt hại của bị hại phải là đối tượng tác động của tội phạm, tức là phải có
mối liên hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội với hậu quả gây ra cho bị hại.

9



Đây là điều kiện quan trọng để phân biệt giữa bị hại và nguyên đơn dân sự
hay các đương sự khác trong vụ án hình sự.
-Cơng dân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại chỉ được tham gia tố tụng với tư
cách bị hại khi và chỉ khi được cơ quan tiến hành tố tụng công nhận.
Như vậy, người bị hại theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam được hiều là: cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản
do tội phạm gây ra hoặc đe đọa gây ra.
Khái niệm người bị hại hẹp hơn khái niệm bị hại, trong luận văn này chỉ
tập trung nghiên cứu người bị hại là công dân Việt Nam trực tiếp bị thiệt hại
về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra.
1.1.5 Quyền yêu cầu khởi tố của người bị hại
Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện nay, người bị hại có rất
nhiều quyền: quyền đưa ra tài liệu, đồ vật; yêu cầu được thông báo về kết quả
điều tra, đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người
phiên dịch theo quy định; đề nghị mức bồi thường và biện pháp bảo đảm bồi
thường; tham gia phiên tịa; trình bày ý kiến tranh luận tại phiên tòa và bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình; khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của
cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; kháng cáo bản án, quyết
định của Tòa án về phần bồi thường cũng như về hình phạt đối với bị cáo...
Trong một số trường hợp luật định được quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự.
Như vậy: “Quyền yêu cầu khởi tố của người bị hại là quyền đặc biệt, chỉ có
người bị hại trong vụ án hình sự và trong trường hợp luật định được quyền
yêu cầu khởi tố vụ án hình sự để bảo vệ các quyền, lợi ích họp pháp của họ đã
bị tội phạm trực tiếp xâm phạm”. Đây là dấu hiệu bắt buộc khi cơ quan tiến
hành tố tụng xác định có dấu hiệu phạm tội nhưng phải có yêu cầu của người
bị hại thì mới được khởi tố vụ án, cho nên người yêu cầu cũng phải có năng
lực của chủ thể quan hệ pháp luật tố tụng hình sự, tức là phải có năng lực chủ
10



thể và năng lực hành vi. Ở đây năng lực pháp luật thể hiện là quyền của
những chủ thể bị tội phạm xâm hại thuộc phạm vi quy định của Khoản 1 Điều
155 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 xâm hại trực tiếp, được nhà nước bảo hộ.
Quyền này là “Quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự”. Năng lực hành vi là
khả năng của các cá nhân bị thiệt tự mình hoặc người đại diện hợp pháp
(người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tinh thần
hoặc thể chất) thực hiện quyền yêu cầu khởi tố vụ án trên thực tế.
Đặc điểm của quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người
bị hại: quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của người bị hại là một trong các
quyền của người bị hại trong pháp luật tố tụng hình sự, nhưng đây là quyền
“đặc biệt” nó thể hiện:
-Khi có dấu hiệu tội phạm, sau khi có tin tố giác, xác minh thu thập chứng
cứ lẽ đương nhiên cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm khởi tố vụ án, mở
đầu cho quá trình tố tụng tiếp theo để xác định tội phạm. Nhưng đối với
trường hợp “Quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của người bị hại” thì chỉ
được khởi tố khi người bị hại có u cầu, nó khơng giống như các loại tội
phạm và và các vụ án khác. Đây thể hiện quyền tối cao, quyền tự định đoạt
của người bị hại trong tố tụng hình sự, thể hiện quyền cá nhân và tôn trọng
quyền con người. Ở đây phụ thuộc vào ý chí, nguyện vọng của người bị hại,
người bị hại có tồn quyền quyết định chứ khơng phụ thuộc ai.
-Một đặc điểm nữa cho ta thấy không phải người bị hại lúc nào cũng được
sử dụng quyền này, mà quyền này chỉ được thực hiện trong trường hợp luật
định đó là những tội phạm thuộc các tội danh và nằm ở quy định khoản 1 của
các điều luật 155 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định. Như vậy chỉ
các tội danh đó thì người bị hại mới có quyền yêu cầu khởi tố. Qua đó cho
thấy giữa quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của người bị hại và quá trình
khởi tố vụ án hình sự của cơ quan có thẩm quyền có mối quan hệ ràng buộc
11



nhau, phụ thuộc vào ý chí, nguyện vọng của người bị hại. Đây là đặc điểm
riêng biệt mà chỉ xuất hiện trong những trường hợp “đặc biệt”.
1.2 .Những quy định của pháp luật về quyền yêu cầu khởi tố của người bị
hại
1.2.1.Quyền và nghĩa vụ của người bị hại
1.2.1.1.Người bị hại có quyển
- Được thơng báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 62
BLTTHS 2015;
-Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
-Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
-Đề nghị giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật;
-Được thông báo kết quả điều tra, giải quyết vụ án;
-Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám
định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật;
-Đề nghị hình phạt, mức bồi thường thiệt hại, biện pháp bảo đảm bồi
thường;
-Tham gia phiên tịa; trình bày ý kiến, đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo
và người khác tham gia phiên tòa; tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình; xem biên bản phiên tòa;
-Tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình;
-Tham gia các hoạt động tố tụng theo quy định của bltths 2015;
-Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo vệ tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình,
người thân thích của mình khi bị đe dọa;
- Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án;

12



-Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng;
-Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
-Trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì bị hại hoặc
người đại diện của họ trình bày lời buộc tội tại phiên tịa.
1.2.1.2.Người bị hại có nghĩa vụ:
-Có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
trường hợp cố ý vắng mặt khơng vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở
ngại khách quan thì có thể bị dẫn giải;
-Chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng.
Pháp luật TTHS cũng quy định trong trường hợp người bị hại chết, mất
tích, bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì người đại diện thực
hiện quyền và nghĩa vụ của người bị hại quy định tại Điều 62 BLTTHS 2015.
1.2.2.Quyền yêu cầu khởi tố vụ án của người bị hại
Quyền yêu cầu khởi tố vụ án của người bị hại là một bộ phận của
quyền cơng dân được pháp luật tố tụng hình sự cụ thể hóa và quy định cụ thể
trình tự, cách thức để công dân chủ động lựa chọn quyết định thực hiện các
quyền đó trong những trường hợp cụ thể. Khởi tố vụ án hình sự là trách
nhiệm của các chủ thể tiến hành tố tụng, tuy nhiên trong một số trường hợp cụ
thể thường là hậu quả do hành vi phạm tội gây ra cho người bị hại khơng q
nghiêm trọng dẫn đến có thể lựa chọn giải quyết vụ việc bằng các quy định
của pháp luật hình sự hoặc sử dụng chế tài của các ngành luật khác như luật
dân sự, luật hành chính...những trường hợp này được pháp luật tố tụng hình
sự quy định cụ thể.

13



Pháp luật TTHS quy định chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm
quy định tại khoản 1 các Điểu 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156,
226 khi có yêu cầu của bị hại.[ Khoản 1 Điều 155 BLTTHS 2015]. Cụ thể:
a. Quyền yêu cầu khởi tố các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của
con người
-Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác được quy định tại khoản 1 Điều 134 BLHS 2015: “ Người nào cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo khơng giam giữ đến 03 năm hoặc phạt
tù từ 06 tháng đến 03 năm”
- Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được quy định tại khoản 1
Điều 134 BLHS 2015: “Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng
của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó, thì
bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không
giam giữ đến 03 năm”.
- Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác do vượt quá giới hạn phịng vệ chính đáng hoặc do vượt q mức cần
thiết khi bắt giữ người phạm tội được quy định tại khoản 1 Điều 136 BLHS
2015: “Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% do vượt q giới hạn
phịng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm
tội, thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo
không giam giữ đến 03 năm”.
14



- Tội vơ ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác được quy định tại khoản 1 Điều 138 BLHS 2015: “Người nào vô ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể từ 31% đến 60%, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 5.000.000
đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm”.
- Tội vơ ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính được quy định
tại khoản 1 Điều 139 BLHS 2015: “Người nào vơ ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc
quy tắc hành chính mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, thì bị phạt
tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ
đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm”.
Mặt khách quan của nhóm tội phạm này bao gồm hành vi và hậu quả
của tội phạm. Hành vi khách quan ở đây thể hiện hành động hoặc khơng hành
động có tính chất gây ra thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người
khác với cấu thành tội phạm là cấu thành vật chất, hậu quả gây ra là dấu hiệu
bắt buộc của cấu thành tội phạm. Ở nhóm tội phạm này hậu quả biểu hiện
dưới dạng thương tích hoặc tổn hại sức khỏe của người khác. Các tội phạm
quy định tại Khoản 1 các điều 135, 136, 138, 139, Bộ luật hình sự bắt buộc
hậu quả gây ra là tỷ lệ thương tật phải từ 31% trở lên (Điều 134 hậu quả từ 11
đến 30%).
Tội quy định ở Khoản 1 Điều 134 thì tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%,
hoặc dưới 11% nhưng thuộc các trường hợp quy định từ Điểm a đến Điểm k,
Khoản 1 Điều 134 BLHS 2015.
Giữa hành vi khách quan và hậu quả nêu trên phải có mối quan hệ nhân
quả, có nghĩa hành vi là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả.

15



Mặt chủ quan của nhóm tội phạm này là người phạm tội thực hiện với lỗi
cố ý và có trường hợp là lỗi vô ý. Động cơ phạm tội không phải là dấu hiệu
bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tội phạm quy định tại Khoản 1 các điều
134, 135, 136 Blhs 2015 là tội mà người phạm tội thực hiện với lỗi cố ý (cố ý
trực tiếp hoặc gián tiếp). Tội phạm quy định tại Khoản 1 điều 138, 139 BLHS
2015 là tội mà người phạm tội thực hiện với lỗi vơ ý. (vơ ý vì q tự tin, vơ ý
vì cẩu thả).
Khách thể của nhóm tội phạm này là quyền được bảo vệ, tơn trọng sức
khỏe, tính mạng của con người. Đây là quyền cơ bản của con người mà trực
tiếp được ghi nhận ở luật pháp quốc tế, ở Việt Nam được Hiến pháp 2013 ghi
nhận.
Chủ thể của nhóm tội phạm này hầu hết là chủ thể thường, có thế là bất cứ
ai có năng lực trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên ở tội phạm quy định tại Khoản
1 Điều 139 Bộ luật hình sự chủ thể đặc biệt, tức chỉ do những chủ thể là
những người hoạt động trong một số lĩnh vực chuyên môn mang tính nghề
nghiệp hoặc người có chức vụ, quyền hạn trong lĩnh vực chấp hành, điều hành
của nhà nước.
Nhóm tội này pháp luật quy định hình phạt gồm: cải tạo khơng giam giữ,
hình phạt tù. Tuy nhiên mức độ hình phạt tù cũng thấp từ 03 tháng đến 03
năm, đây là các tội có hình phạt thấp.
b.Quyền u cầu khởi tố các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dư con
người
- Tội hiếp dâm được quy định tại khoản 1 Điều 141 BLHS 2015:
“Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng khơng
thể tự vệ được của nạn nhân hoặc bằng thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện
hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân, thì bị phạt tù từ
02 năm đến 07 năm”.
16



- Tội cưỡng dâm được quy định tại khoản 1 Điều 143 BLHS 2015:
“Người nào dùng mọi thủ đoạn khiến người lệ thuộc mình hoặc người đang ở
trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực
hiện hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”.
- Tội làm nhục người khác được quy định tại khoản 1 Điều 155 BLHS
2015: “Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người
khác, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng
hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm”.
- Tội vu khống được quy định tại khoản 1 Điều 156 BLHS 2015: “
Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tiền từ
10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02
năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm”.
Mặt khách quan của nhóm tội phạm này chỉ thể hiện ở hành vi khách
quan, đó là những hành vi nguy hiểm được thực hiện dưới dạng hành động và
có tính chất gây ra thiệt hại về tinh thần như danh dự, nhân phẩm, uy tín của
con người. Những hành vi này rất đa dạng, ví dụ: dùng vũ lực hoặc đe dọa
dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác trong tội hiếp dâm, dùng lời nói xúc phạm
danh dự, nhân phẩm người khác hoặc bịa đặt loan truyền tin trong các tội còn
lại. Do hậu quả gây ra của các tội phạm này khó xác định cho nên pháp luật
quy định cấu thành tội phạm là cấu thành hình thức, tức là chỉ thỏa mãn về
mặt hành vi, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc.
Về mặt chủ quan của nhóm tội phạm này là người phạm tội thực hiện
tội phạm với lỗi cố ý. Điều này thể hiện qua nhận thức của người phạm tội, cụ
thể là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội,
thấy trước hậu quả của hành vi đó và có mong muốn hoặc có ý thức để mặc
hậu quả đó xảy ra. Trong nhóm tội này động cơ, mục đích khơng phải là dấu
hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm.
17



Về khách thể của nhóm tội này ta thấy tội xâm phạm quyền được bảo
vệ về danh dự, nhân phẩm, uy tín của con người. Đây là một trong những
quyền cơ bản của quyền con người được pháp luật ghi nhận. Trong yếu tố
khách thể của cấu thành nhóm tội phạm này đó là hành vi khách quan của tội
hiếp dâm, tội cưỡng dâm, tội làm nhục người khác có thể xâm hại gián tiếp
đến sức khỏe, tính mạng đồng thời với việc xâm hại danh dự, nhân phẩm, uy
tín của con người.
Chủ thể của nhóm tội này là chủ thể thường, bất kỳ ai có năng lực trách
nhiệm hình sự khi thực hiện hành vi khách quan quy định tại Khoản 1 các
điều 141, 143, 155, 156 đều bị coi là tội phạm tương ứng với tội danh đã quy
định.
Hình phạt áp dụng đối với nhóm tội này, xét về loại hình phạt bao gồm:
cảnh cáo, cải tạo khơng giam giữ, phạt tù. Cũng như các tội, nhóm tội khác
trong phạm vi khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, nhóm tội
xâm phạm quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của con người có
mức hình phạt thấp, chỉ có tội hiếp dâm Khoản 1 Điều 141 hình phạt tù cao
nhất có thể đến 07 năm.
c.Quyền yêu cầu khởi tố vụ án xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp được quy định tại khoản 1 Điều
226 BLHS 2015: “ Người nào cố ý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối
với nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam, thu lợi bất
chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho
chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý từ 200.000.000 đồng đến dưới
500.000.000 đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 200.000.000 đồng đến
dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 500.000.000
đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm”.

18



Mặt khách quan của tội này là hành vi chiếm đoạt (cố ý dịch chuyển một
cách trái pháp luật), sử dụng bất hợp pháp sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu
dáng cơng nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, tên gọi xuất xứ hàng hóa hoặc các đối
tượng sở hữu cơng nghiệp khác được nhà nước bảo hộ tại Việt Nam.
Hành vi này phải gây ra hậu quả nghiêm trọng và có mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi và hậu quả đó, hoặc khơng gây ra hậu quả nghiêm trọng nhưng
trước đó đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc kết án về tội này nhưng chưa
được xóa án tích mà cịn vi phạm, thì được xem là dấu hiệu của cấu thành tội
xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp.
Mặt khách quan của tội phạm là người thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp hoặc
cố ý gián tiếp. Nghĩa là người phạm tội thấy trước hành vi của mình là nguy
hiểm cho xã hội cũng như thấy được thiệt hại do hành vi đó gây ra và mong
muốn đạt được hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra. Xét về mặt chủ
quan, động cơ và mục đích phạm tội là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội
này. Động cơ cụ thể ở đây là trục lợi và mục đích sản xuất kinh doanh.
Về yếu tố khách thể: tội này xâm phạm trực tiếp đến trật tự quản lý kinh tế
của nhà nước. Đây là quan điểm chính thống của nhà nước ta. Tuy nhiên ở
gốc độ nghiên cứu, chúng ta thấy khách thể của tội xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp là quyền tài sản đặc biệt thuộc đối tượng được nhà nước bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp.
Chủ thể của tội này là chủ thể thường, bất kỳ ai có năng lực trách nhiệm
hình sự.
Về hình phạt tội xâm phạm của quyền sở hữu công nghiệp quy định tải
Khoản 1 Điều 226 BLHS 2015 phạt tiền từ 50 triệu đến 500 triệu đồng hoặc
bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
Như vậy, khi xuất hiện những dấu hiệu cấu thành một trong những tội
phạm trên thì cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự về tội đó chỉ được
19



ra quyết định khởi tố vụ án khi có yêu cầu của những chủ thể có quyền yêu
cầu khởi tố vụ án hình sự quy định tại Điều 155 BLTTHS 2015. Chủ thể đó
là: người bị hại, đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên,
người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
1.3. Những yếu tố bảo đảm quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của
người bị hại
1.3.1.Những yếu tố bảo đảm
Quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của người bị hại nó chịu ảnh hưởng
các yếu tố cơ bản để đảm bảo thực hiện đó là:
1.3.1.1.Chính trị
Chính trị là một lĩnh vực đời sống xã hội thể hiện mối quan hệ giữa các
giai cấp, các dân tộc, các quốc gia trong việc giành giữ, sử dụng hoặc chi phối
quyền lực nhà nước.
Chính trị ảnh hưởng đến đảm bảo quyền yêu cầu khởi tố vụ án của người
bị hại thông qua: chính trị, pháp luật, năng lực của chủ thể tiến hành tố tụng,
khả năng nhận thức của người bị hại.
Đối với Việt Nam, xuất phát từ vai trò lịch sử của Đảng Cộng sản cũng
như thực tiễn đấu tranh giành độc lập dân tộc, tự do cho cả dân tộc và công
cuộc xây dựng xây dựng, bảo vệ tổ quốc trong giai đoạn mới đều đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Trên cơ sở quan điểm, đường lối của Đảng để nhà nước
thể chế ra thành luật và tổ chức thực hiện pháp luật. Quyền yêu cầu khởi tố
của người bị hại đã được quy định cụ thể tại Điều 105 Bộ luật Tố tụng hình
sự. Đây cũng là xuất phát từ quan điểm về bảo vệ quyền con người, quyền tự
do, danh dự, nhân phẩm, uy tín. Do đó, quyền yêu cầu khởi tố của người bị
hại nó chịu sự ảnh hưởng lớn bởi yếu tố chính trị mà cụ thể là quan điểm,
đường lối của Đảng bởi hai mặt: ban hành pháp luật và tổ chức pháp luật.

20



×