Tải bản đầy đủ (.pdf) (213 trang)

Quá trình xây dựng và phát triển lực lượng an ninh ở nam bộ và cực nam trung bộ trong cuộc kháng chiến chống mỹ, cứu nước (1954 1975)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 213 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

THÁI THỊ LỘC

QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN LỰC
LƯNG AN NINH Ở NAM BỘ VÀ CỰC NAM
TRUNG BỘ
TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ,
CỨU NƯỚC
(1954 - 1975)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2009

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

THÁI THỊ LỘC

QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN LỰC
LƯNG AN NINH Ở NAM BỘ VÀ CỰC NAM
TRUNG BỘ
TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ,
CỨU NƯỚC
(1954 - 1975)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ



Người Hướng Dẫn Khoa Học
1. TS Nguyễn Văn Diệu
2. TS Trần Thị Mai

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2009


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Kết quả nghiên cứu chưa được công bố tại
công trình nào khác. Nguồn tài liệu trích dẫn và các số
liệu được sử dụng trong luận án hoàn toàn dựa trên
nguồn tư liệu xác thực.

Tác giả luận án
Họ và tên

Thái Thị Lộc


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU

7

CHƯƠNG 1
XÂY DỰNG LỰC LƯNG CÔNG AN, TÌNH BÁO Ở

NAM BỘ VÀ CỰC NAM TRUNG BỘ SAU HIỆP ĐỊNH
GIƠNEVƠ
(1954 - 1960)
1.1.

Bối cảnh lịch sử và nhu cầu bố trí lực lượng Công an,
Tình báo ở Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ sau Hiệp
định Giơnevơ ....................................................................................18

1.1.1. Âm mưu và thủ đoạn của đế quốc Mỹ – Chính quyền Ngơ
Đình Diệm đối với cách mạng miền Nam ................................18
1.1.2. Chủ trương của Đảng đối với cách mạng miền Nam và cơng tác
bảo vệ an ninh. ..................................................................................22
1.2.

Chuyển hướng tổ chức, hoạt động và nhiệm vụ công
tác Công an Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ giai đoạn
1954 – 1960.........................................................................................26

1.2.1. Xây dựng, bố trí lực lượng và hoạt động của Công An,
Tình báo ở chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ ...26
1.2.2. Kết quả hoạt động của Ban địch tình .......................................39


CHƯƠNG 2
THÀNH LẬP HỆ THỐNG TỔ CHỨC AN NINH
NAM BỘ VÀ CỰC NAM TRUNG BỘ, GÓP PHẦN
ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯC “CHIẾN TRANH ĐẶC
BIỆT” CỦA MỸ VÀ
CHÍNH QUYỀN SÀI GÒN (1961 - 1965)


2.1.

Thành lập lực lượng An ninh Nam Bộ và cực Nam Trung
Bộ ......................................................................................................50

2.1.1. Quá trình chuẩn bị thành lập lực lượng An ninh Nam bộ
và cực Nam Trung Bộ ....................................................................50
2.1.2. Thành lập Ban An ninh Trung ương Cục miền Nam ....................56
2.1.3. Hình thành hệ thống An ninh các cấp ở Nam Bộ và cực
Nam Trung Bộ...................................................................................58
2.2.

Hoạt động của lực lượng An ninh Nam Bộ và cực Nam
Trung Bộ (1961-1965) .....................................................................69

2.2.1. Hoạt động chống do thám, gián điệp, chống gom dân lập
ấp, bảo vệ Đảng, duy trì phong trào cách mạng (19611962) ...................................................................................................69
2.2.2. Bám đất, bám dân, tấn công địch khắp 3 vùng chiến
lược, góp phần làm thất bại chiến lược “chiến tranh đặc
biệt” của Mỹõ và chính quyền Sài Goøn (1963-1965) ...........79


CHƯƠNG 3
PHÁT TRIỂN LỰC LƯNG AN NINH NAM BỘ VÀ
CỰC NAM TRUNG BỘ, GÓP PHẦN ĐÁNH BẠI CÁC
CHIẾN LƯỢC “CHIẾN TRANH CỤC BỘ” VÀ “ VIỆT NAM
HĨA CHIẾN TRANH”, KẾT THÚC THẮNG LỢI CUỘC KHÁNG
CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC (1965 - 1975)
3.1.


Phát triển toàn diện về tổ chức, thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ trong giai đoạn chống chiến lược “chiến
tranh cục bộ” của Mỹ và chính quyền Sài Gòn (19651968) ...................................................................................................89
3.1.1. Xây dựng hoàn chỉnh hệ thống tổ chức, góp phần đánh
bại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô của Mỹ và
quân đội Sài Gịn (1965 - 1967)......................................................89
3.1.2 Tăng cường củng cố lực lượng An ninh các cấp, tham gia
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968 .105
3.2.

Phát triển lực lượng an ninh, tấn công toàn diện, liên
tục, mạnh mẽ góp phần vào thắng lợi của chiến dịch
Hồ Chí Minh lịch sử (1969-1975) ..............................................116
3.2.1. Khắc phục khó khăn, duy trì củng cố lực lượng, đẩy mạnh
hoạt động làm thất bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến
tranh” của Mỹ và chính quyền Sài Gịn (1969-1972).................116
3.2.2 Phát tiển toàn diện lực lượng an ninh, tham gia Tổng tiến
công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 – giải phóng
hoàn toàn miền Nam (27-1-1973 – 30-4-1975) ..........................132

KẾT LUẬN ..................................................................................147
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................160
PHỤ LỤC........................................................................................175


MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân
Việt Nam (1954 - 1975) là bản anh hùng ca vó đại nhất trong lịch

sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc. Thắng lợi của
cuộc kháng chiến này đã tô đậm thêm truyền thống yêu
nước nồng nàn, ý chí quật cường, trí thông minh và tài thao
lược của dân tộc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
Trong thắng lợi huy hoàng đó của dân tộc, lực lượng
Công an nhân dân Việt Nam đã từng bước trưởng thành, đọ
sức và đánh thắng bộ máy chiến tranh gián điệp nhà nghề
của một đế quốc sừng sỏ, có nhiều kinh nghiệm nhất trong
chiến tranh gián điệp, chiến tranh tâm lý và bình định, góp
phần đánh bại các chiến lược chiến tranh của Mỹ và chính
quyền Sài Gòn, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghóa, giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Lực lượng An ninh Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ là một
bộ phận quan trọng của lực lượng Công an nhân dân Việt Nam
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Xuất phát từ
nhiệm vụ cụ thể của cách mạng miền Nam, sau năm 1954,
Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam)
và Bộ Công an đã chú trọng lãnh đạo công tác xây dựng lực
lượng An ninh miền Nam nói chung, An ninh Nam Bộ và cực Nam
Trung Bộ nói riêng, từ không đến có, từ ít đến nhiều, thành
một tổ chức chặt chẽ với nhiệm vụ đấu tranh chống lại các
âm mưu, thủ đoạn hoạt động của các cơ quan tình báo, mật vụ,
cảnh sát đặc biệt và các tổ chức trá hình khác của Mỹ và
chính quyền Sài Gòn, bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân, bảo vệ
các lực lượng và phong trào cách mạng giải phóng ở miền
Nam.
Trong cuộc đấu tranh chống lại kẻ thù, lực lượng An ninh
Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ đã vận dụng một cách sáng
tạo đường lối lãnh đạo của Đảng vào thực tiễn của cách
7



mạng miền Nam, đã khẳng định vai trò, vị trí không thể thiếu
được trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân
tộc và đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu trong xây
dựng và phát triển lực lượng An ninh nhân dân.
Nghiên cứu quá trình xây dựng và phát triển lực lượng
An ninh Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, nhằm dựng lại lịch sử
hình thành, phát triển và những đóng góp to lớn của lực
lượng An ninh Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ; làm rõ những
đặc điểm và những vấn đề có tính quy luật trong quá trình xây
dựng và phát triển lực lượng An ninh Nam Bộ và cực Nam Trung
Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Từ đó rút ra
những bài học kinh nghiệm về xây dựng lực lượng Công an
nhân dân trong tình hình mới, là những vấn đề quan trọng, có
ý nghóa to lớn góp phần vào việc tổng kết một giai đoạn lịch
sử cách mạng, khẳng định đóng góp quan trọng của lực lượng
An ninh Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ trong sự nghiệp kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam. Qua đó,
cung cấp những luận cứ khoa học sinh động từ thực tiễn cho sự
hoạch định phương hướng, phương pháp xây dựng lực lượng An
ninh nói riêng và lực lượng Công an nhân dân nói chung. Đây
cũng làø một việc làm hết sức cần thiết và bổ ích đang được
Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng, Đảng ủy Công an
Trung ương và lãnh đạo Bộ Công an đặc biệt quan tâm.
Với ý nghóa đó tôi chọn đề tài: “Quá trình xây dựng
và phát triển lực lượng An ninh ở Nam Bộ và cực Nam Trung
Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 1975)” làm luận án tiến só chuyên ngành Lịch sử Việt Nam.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu quá trình xây dựng và phát triển lực lượng

An ninh Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước, luận án hướng đến mục tieâu:

8


- Làm rõ những thành tựu đạt được và hạn chế trong
quá trình xây dựng và phát triển lực lượng An ninh Nam Bộ và
cực Nam Trung Bộ giai đoạn 1954-1975.
- Trên cơ sở chọn lọc sự kiện điển hình, làm rõ những
đóng góp to lớn của lực lượng An ninh Nam Bộ và cực Nam
Trung Bộ trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân
ta ở miền Nam.
- Rút ra những đặc điểm cơ bản, những vấn đề có tính
quy luật của quá trình xây dựng lực lượng An ninh Nam Bộ và
cực Nam Trung Bộ giai đoạn 1954 - 1975. Từ đó đúc kết một số
bài học kinh nghiệm thực tiễn, những kiến nghị đề xuất góp
phần xây dựng lực lượng Công an nhân dân trong giai đoạn hiện
nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Hệ thống tổ chức An ninh miền Nam giai đoạn 1954 -1975,
bao gồm Ban An ninh Trung ương Cục miền Nam đến hệ thống An
ninh các khu, hệ thống An ninh các tỉnh từ Quảng Trị đến Cà
Mau. Xuất phát từ tình hình thực tiễn cách mạng miền Nam, sự
phân công lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với các lực lượng
An ninh miền Nam cũng khác nhau. Thời kỳ đầu (1954 - 1960),
do tình hình và nhiệm vụ đấu tranh chính trị đòi thi hành Hiệp
định Giơnevơ, Trung ương Đảng quyết định giải thể Trung ương
Cục, tái lập Xứ ủy Nam Bộ. Đặc biệt, trong điều kiện hoàn
cảnh khó khăn phức tạp của cách mạng miền Nam, Hội nghị

Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ III, ngày 23-1-1961, đã
quyết định thành lập Trung ương Cục miền Nam thay cho Xứ ủy
Nam Bộ. Trong thời kỳ đầu, Trung ương Cục lãnh đạo toàn bộ
chiến trường miền Nam từ vó tuyến 17 trở vào. Một năm sau,
xuất phát từ thực tiễn tình hình và dựa trên cơ sở đề nghị của
Trung ương Cục, Bộ Chính trị quyết định giao Trung ương Cục
lãnh đạo phạm vi các tỉnh cực Nam Trung Bộ và Nam Bộ (B2gồm các tỉnh từ Ninh Thuận đến Cà Mau). Lực lượng An ninh

9


Trung ương Cục và hệ thống An ninh các tỉnh cực Nam Trung Bộ
và Nam Bộ trong suốt quá trình hình thành và phát triển dưới
sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Trung ương Cục miền Nam
và của Đảng Đoàn Bộ Công an.
Do đó, phạm vi không gian của đề tài xác định bao gồm
các tỉnh từ Ninh Thuận đến Cà Mau, tương ứng với địa bàn lãnh
đạo và chỉ đạo trực tiếp của Trung ương Cục miền Nam.
Lực lượng An ninh được đề cập trong luận án là lực lượng Cơng an
nhân dân ở miền Nam nói chung, ôû Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ nói
riêng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, bao gồm 2 lực lượng:
Lực lượng An ninh nhân dân và lực lượng An ninh vũ trang. Lực lượng
An ninh nhân dân hoạt động trong vùng địch kiểm sốt, vùng tranh chấp
và vùng giải phóng, làm nhiệm vụ điều tra, nắm tình hình địch, xây dựng
cơ sở cách mạng, tấn cơng làm vơ hiệu hóa các hoạt động điều tra, thu
thập tin tình báo của địch, hoạt động của các Đảng phái phản động, bảo
vệ nội bộ Đảng, chính quyền, các đồn thể cách mạng trong vùng giải
phóng; Lực lượng An ninh vũ trang làm nhiệm vụ bảo vệ căn cứ cách
mạng, bảo vệ vùng giải phóng, bảo vệ cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà
nước, chống địch càn quét, trừ gian, diệt ác trong vùng địch chiếm đóng.

Đối tượng đề tài nghiên cứu là hệ thống tổ chức lực lượng An
ninh các tỉnh Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, bao gồm An ninh các tỉnh
từ Ninh Thuận đến Cà Mau. Đề tài tập trung làm rõ những nội dung
cụ thể sau:
1. Phân tích bối cảnh lịch sử; những tiền đề; những yêu
cầu của việc xây dựng lực lượng An ninh Nam Bộ và cực Nam
Trung Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 –
1975).
2. Làm rõ quá trình xây dựng, phát triển và hoạt động
của lực lượng An ninh Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
3. Đánh giá những kết quả đạt được, một số tồn tại
trong công tác xây dựng lực lượng An ninh Nam Bộ và cực Nam
10


Trung Bộ (1954-1975). Rút ra một số đặc điểm và bài học kinh
nghiệm, làm cơ sở đề xuất, kiến nghị cho công tác xây dựng
lực lượng Công an nhân dân trong giai đoạn hiện nay.
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Quá trình xây dựng và phát triển lực lượng Công an
nhân dân, An ninh miền Nam và lực lượng An ninh Nam Bộ và
cực Nam Trung Bộ là một chủ đề nghiên cứu mang nhiều ý
nghóa lý luận và thực tiễn, đã thu hút không ít các tổ chức,
cá nhân trong và ngoài ngành Công an tham gia nghiên cứu.
Trong những năm gần đây đã có một số công trình
nghiên cứu đáng chú ý sau:
- Tác phẩm “Trần Quốc Hương - Người thầy của những
nhà tình báo vó đại”, Nguyễn Thị Ngọc Hải (chủ biên), Nhà
xuất bản Công an nhân dân – 2002. Nội dung tác phẩm phản

ánh một cách chân thật, khái quát cuộc đời hoạt động cách
mạng của ông Trần Quốc Hương – Nhà tình báo lỗi lạc của
Công an nhân dân, người thầy của những nhà tình báo nổi
tiếng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước như Vũ
Ngọc Nhạ, Phạm Ngọc Thảo, Lê Hữu Thúy, Phạm Xn Ẩn . . .
trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
(1954 - 1960).
- Cuốn “An ninh miền Nam thời kỳ chống Mỹ (1954 1975)”; Bộ phận thường trực Ban Nghiên cứu Tổng kết lịch sử
Công an nhân dân phía Nam - Bộ Công an, Nhà xuất bản Công
an nhân dân - 1995. Nội dung của tác phẩm này chủ yếu phản
ánh hoạt động của Ban An ninh Trung ương Cục miền Nam, còn
An ninh các tỉnh Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ phản ánh chưa
rõ nét.
- Tác phẩm “Lịch sử Công an nhân dân Việt Nam (1954 1975)”, Ban Nghiên cứu Tổng kết lịch sử Công an nhân dân Bộ Công an, Nhà xuất bản Công an nhân dân - 2000. Tác
phẩm phản ánh nội dung về Công an nhân dân trong cuộc đấu

11


tranh chống phản cách mạng và các loại tội phạm khác, bảo
vệ an ninh, trật tự, phục vụ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng
chủ nghóa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền
Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ trong cả nước,
thống nhất Tổ quốc. Tập sách đã cung cấp cho tác giả tham
khảo các tư liệu quan trọng về quan điểm chỉ đạo của Trung
ương Đảng, Bộ Chính trị, của Bộ Công an đối với lực lượng An
ninh miền Nam. Nhưng chưa đi sâu nghiên cứu quá trình xây
dựng, chiến đấu, trưởng thành của lực lượng An ninh Nam Bộ
và cực Nam Trung Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước.

- Cuốn “Biên niên sự kiện lịch sử An ninh miền Nam
thời kỳ chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975)”, Viện Lịch sử
Công an - Bộ Công an, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - 2005.
Tập sách đã phản ánh khá đầy đủ những sự kiện lịch sử
tiêu biểu cuộc đấu tranh của lực lượng An ninh miền Nam (chủ
yếu địa bàn Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ) trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước. Tác phẩm đã giúp cho tác giả
phân tích sâu hơn những đóng góp của lực lượng An ninh Nam
Bộ và cực Nam Trung Bộ trong quá trình xây dựng và phát
triển lực lượng qua các giai đoạn phát triển của cuộc cách
mạng.
- Tháng 4-2005, Viện Lịch sử Công an in cuốn “Kỷ yếu
Khoa học về hoạt động của lực lượng An ninh miền Nam trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước- kỷ niệm 30 năm giải
phóng miền Nam (1975 - 2005”, lưu hành nội bộ. Tập sách đã
tập hợp những bài tham luận của nhiều tác giả là những nhà
lãnh đạo trực tiếp lực lượng Công an nhân dân trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và trong sự nghiệp xây
dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghóa hiện nay. Kỷ yếu
này đã cung cấp những quan điểm và sử liệu, giúp tác giả
hiểu sâu hơn về những đóng góp của lực lượng An ninh caùc

12


cấp Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước.
- Nhiều công trình nghiên cứu biên soạn lịch sử của lực
lượng Công an nhân dân của các Cục, Vụ, Viện, Trường và
Công an các tỉnh, thành phía Nam từ Ninh Thuận trở vào Cà

Mau đã xuất bản nội bộ hoặc công khai, đều phản ánh quá
trình hình thành và phát triển lực lượng của từng đơn vị, địa
phương giai đoạn 1954 - 1975. Đó là những công trình có giá trị
trong việc tham khảo, cung cấp nhiều thông tin quan trọng, là cơ
sở đối chiếu các sự kiện, vấn đề lịch sử mà luận án nghiên
cứu, giúp cho tác giả rút ra một số bài học kinh nghiệm từ
thực tiễn quá trình xây dựng lực lượng An ninh Nam Bộ và cực
Nam Trung Bộ giai đoạn 1954 - 1975.
- Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận án đặc biệt
quan tâm đến các Hồi ký của các các đồng chí nguyên là
cán bộ lãnh đạo Ban An ninh Trung ương Cục miền Nam như Hồi
ký của các ông: Đại tướng Mai Chí Thọ, Thượng tướng Cao
Đăng Chiếm, Thượng tướng Bùi Thiện Ngộ … Nhìn chung, trong
điều kiện hoạt động chiến tranh ác liệt, tư liệu thành văn rất
khó lưu giữ, thất lạc, mất mát nhiều. Bên cạnh đó do đặc thù
của công tác an ninh nên những chỉ đạo, phương châm, phương
pháp, chính sách . . . đều phải tuyệt đối bí mật. Sự hồi tưởng
của các cán bộ nguyên là lãnh đạo An ninh miền Nam qua các
thời kỳ, là tư liệu quan trọng để tác giả hệ thống được rõ nét
hơn quá trình phát triển của lực lượng An ninh Nam Bộ và cực
Nam Trung Bộ trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước.
- Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận án cũng đặc
biệt quan tâm đến các công trình có tính tổng kết hoạt động
của ngành. Một trong những công trình đã được công bố ở
dạng này là công trình “Xây dựng lực lượng Công an nhân dân
trong tình hình mới”, Viện Chiến lược và Khoa học Công an - Bộ
Công an, Nhà xuất bản Công an nhân dân - 2006. Đây là đề

13



tài khoa học thuộc chương trình cấp Nhà nước KX07, do Thiếu
tướng Trần Quang Trọng, Quyền Tổng cục trưởng Tổng cục
Xây dựng lực lượng Công an nhân dân - Bộ Công an làm chủ
nhiệm. Tác giả đã tiếp nhận được từ công trình này một số
nhận định làm cơ sở để so sánh, đối chiếu, và bổ sung một
số kiến nghị đề xuất đối với công tác xây dựng lực lượng
Công an nhân dân trong giai đoạn hiện nay.
Ngoài những tác phẩm nêu trên, còn có một số bài
viết khác của nhiều tác giả trong và ngoài ngành đã in trên
Tạp chí Công an nhân dân, Tạp chí Xây dựng lực lượng Công
an nhân dân, trên các báo Công an nhân dân, báo Công an
thành phố Hồ Chí Minh, báo An ninh thế giới . . . đã giúp cho
tác giả có thêm tư liệu để so sánh, đánh giá một cách sâu
sắc toàn diện thực tiễn cuộc đấu tranh của lực lượng An ninh
Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước.
Tuy nhiên, nhìn ở góc độ nghiên cứu lịch sử, đến nay
chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện về lịch
sử quá trình xây dựng và phát triển lực lượng An ninh Nam Bộ
và cực Nam Trung Bộ giai đoạn 1954 - 1975. Đây là điểm mới
của đề tài, đồng thời cũng là một thử thách đối với tác
giả khi chọn đề tài này để nghiên cứu.
5. Nguồn tài liệu
Nguồn tài liệu được sử dụng trong đề tài này được chia
thành những nhóm chính sau đây:
- Nguồn tư liệu thành văn là chủ yếu và quan trọng
nhất, được khai thác từ những báo cáo sơ kết, tổng kết của
Bộ Công an, An ninh Trung ương Cục miền Nam và tư liệu An
ninh các khu, tỉnh, huyện giai đoạn 1954-1975, là nguồn tư liệu

gốc đáng tin cậy, hiện đang được lưu giữ tại Cục Hồ sơ An ninh
(A27) Bộ Công an, ở Viện Lịch sử và Viện Chiến lược và
Khoa học Công an - Bộ Công an.
14


- Tư liệu là các hồi ký cá nhân của nhiều đồng chí cán
bộ Công an lão thành cách mạng hoạt động trong lực lượng An
ninh Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ đã được xuất bản.
- Những tác phẩm về Lịch sử Công an nhân dân, tài
liệu tổng kết lịch sử của các Tổng cục: An ninh nhân dân;
Cảnh sát nhân dân; Xây dựng lực lượng Công an nhân dân;
Viện Lịch sử Công an; Viện Chiến lược và Khoa học Công an;
các Học viện, trường Đại học, Trung cấp: An ninh nhân dân;
Cảnh sát nhân dân; các trường nghiệp vụ Công an nhân dân.
- Các công trình nghiên cứu lịch sử, biên niên sự kiện
lịch sử Công an nhân dân các tỉnh phía Nam từ Ninh Thuận
đến Cà Mau.
Đặc điểm chủ yếu của các nguồn tư liệu nói trên là
rất phong phú, đa dạng, phần lớn là những tư liệu gốc bao gồm
các báo cáo sơ kết, tổng kết, các đề án hoạt động của các
cấp An ninh miền Nam từ An ninh Trung ương Cục đến An ninh
các khu, tỉnh, huyện. Các ấn phẩm của Viện Lịch sử Công an,
các ấn phẩm của các Vụ, Cục, Viện, Trường, của Công an
các tỉnh, thành phía Nam giai đoạn 1954-1975, được biên soạn hết
sức công phu và đã được hội thảo nhiều lần, với sự góp ý
trực tiếp của các nhân chứng lịch sử từng lãnh đạo, chỉ đạo
trực tiếp lực lượng An ninh Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ qua
các thời kỳ.
6. Phương pháp nghiên cứu

- Tác giả dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghóa
Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
- Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của luận án là
phương pháp lịch sử và phương pháp logic, kết hợp với các
phương pháp khác như phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh
đối chiếu, phỏng vấn nhân chứng . . . nhằm phục dựng quá

15


trình xây dựng và phát triển lực lượng An ninh Nam Bộ và cực
Nam Trung Bộ giai đoạn 1954 - 1975.
7. Đóng góp của luận án
- Luận án đã hệ thống hóa một khối lượng lớn tư liệu,
sự kiện lịch sử đáng tin cậy liên quan đến lực lượng An ninh
Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ. Góp phần làm phong phú
nguồn tư liệu về lịch sử của Ngành công an nói riêng, của
lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc
Việt Nam nói chung.
- Luận án là công trình đầu tiên phục dựng lại bức tranh
lịch sử quá trình xây dựng, hoạt động phát triển của lực lượng
An ninh Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975). Từ đó, làm rõ đặc điểm
của quá trình xây dựng và phát triển của lực lượng An ninh
Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ; chỉ ra những thành tựu và bài
học kinh nghiệm trong công tác tổ chức, đánh địch và xây
dựng lực lượng An ninh các cấp ở Nam Bộ và cực Nam Trung
Bộ. Rút ra một số kiến nghị, đề xuất, góp phần xây dựng lực
lượng Công an nhân dân trong giai đoạn hiện nay.

- Luận án góp phần cung cấp thêm tài liệu tham khảo cho
bộ môn giảng dạy lịch sử Công an nhân dân trong các Học
viện, Trường Đại học và Trung cấp Công an trong cả nước.
8. Bố cục của luận án
Ngoài phần dẫn luận, kết luận, tài liệu tham khảo và
phụ lục, luận án được chia làm 3 chương.
Chương 1: Xây dựng lực lượng Công an, Tình báo ở Nam Bộ và
cực Nam Trung Bộ sau Hiệp định Giơnevơ (1954 - 1960).
Chương 2: Thành lập hệ thống tổ chức An ninh Nam Bộ và
cực Nam Trung Bộ, đấu tranh góp phần đánh bại chiến lược
“chiến tranh đặc biệt” của Mỹ và Chính quyền Sài Gòn (19611965)

16


Chương 3: Phát triển lực lượng An ninh Nam Bộ và cực Nam
Trung Bộ góp phần đánh bại các chiến lược “chiến tranh cục bộ”
và “Việt Nam hóa chiến tranh”, kết thúc thắng lợi cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước (1965 - 1975)

17


CHƯƠNG 1
XÂY DỰNG LỰC LƯNG CÔNG AN, TÌNH BÁO Ở
NAM BỘ VÀ CỰC NAM TRUNG BỘ SAU HIỆP ĐỊNH
GIƠNEVƠ
(1954 - 1960)
1.1. Bối cảnh lịch sử và nhu cầu bố trí lực lượng Công an,
Tình báo ở Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ sau Hiệp định

Giơnevơ
1.1.1. Âm mưu và thủ đoạn của đế quốc Mỹ – Chính quyền
Ngơ Đình Diệm đối với cách mạng miền Nam
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của
nhân dân ta, mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ, đã
giành thắng lợi vẻ vang. Ngày 21 tháng 7 năm 1954, Hiệp định
Giơnevơ về Đông Dương được ký kết. Các bên cam kết tôn
trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
của ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia.
Xuất phát từ chiến lược toàn cầu phản cách mạng, đế
quốc Mỹ âm mưu hất cẳng Pháp, phá hoại Hiệp định Giơnevơ,
tiêu diệt cơ sở Đảng và phong trào cách mạng ở miền Nam,
biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự
của Mỹ, lấy đó làm bàn đạp uy hiếp, tấn công miền Bắc
Việt Nam, hòng bao vây, ngăn chặn và đẩy lùi làn sóng cộng
sản tràn xuống Đông Nam Á.
Ngay sau khi Pháp bại trận ở Điện Biên Phủ (7-5-1954),
đế quốc Mỹ tìm cách đẩy nhanh q trình gạt Pháp ra khỏi Đông
Dương. Ngày 16-6-1954, Mỹ ép Pháp và Bảo Đại buộc Bửu
Lộc, tay sai Pháp, phải trao ghế Thủ tướng cho Ngô Đình Diệm,
một tín đồ Thiên chúa giáo, hận thù sâu sắc với cách mạng,
được Mỹ nuôi dưỡng từ lâu. Ngày 7-7-1954, một nội các mới
với nhiều thành phần thân Mỹ được thành lập, do Ngô Đình
Diệm làm Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng.

18


Được sự hà hơi tiếp sức của Mỹ, Diệm ngày càng điên
cuồng phá hoại Hiệp định Giơnevơ, cự tuyệt tổng tuyển cử,

nêu chiêu bài “đả thực”, “bài phong”, đẩy mạnh “tố cộng”,
“diệt cộng” nhằm xóa bỏ bộ máy cai trị của Pháp và đàn
áp dã man những người yêu nước, trong đó có cán bộ chiến
só Công an. Một trong những công cụ đắc lực nhất, nguy hiểm
nhất mà Mỹ - Diệm sử dụng để chống phá cách mạng là
hoạt động do thám chỉ điểm, tình báo, gián điệp, được coi là
một nội dung có tầm quan trọng chiến lược. Ngay sau khi nhậm
chức, Diệm đã ra nghị định thành lập Phủ Tổng ủy di cư, thực
chất do CIA điều khiển, dụ dỗ hơn 2 triệu đồng bào theo đạo
Thiên chúa di cư vào Nam, với thủ đoạn lừa bịp “Chúa đã
vào Nam”. Bằng luận điệu là giúp đỡ đồng bào tỵ nạn cộng
sản, đưa họ đến một vùng đất hứa có đầy đủ ruộng vườn,
trâu bò . . . thực chất, đó là những mánh khóe vừa dụ dỗ,
vừa cưỡng bức đồng bào nhằm phá rối trật tự trị an ở miền
Bắc sau ngày giải phóng, đồng thời lôi kéo đồng bào vào
miền Nam, tạo thực lực hậu thuẫn, về cơ sở chính trị, xã hội cho
chính quyền Diệm. Trong vòng chưa đầy một năm, Mỹ - Diệm
đã đưa vào miền Nam “829 linh mục, trong đó có 42 người nước
ngoài và 563.000 giáo dân, nâng Giáo hội Thiên chúa giáo
miền Nam từ 5 địa phận lên 15 địa phận với 1.087 linh mục, 10
giám mục và gần 800.000 giáo dân [17,tr12]. Đầu năm 1955,
Hồng y giáo chủ Spellman sang Sài Gòn để chỉ đạo các hoạt
động của bọn phản động trong Giáo hội Thiên chúa giáo
miền Nam. Mỹ - Diệm đã sử dụng một số phần tử phản
động quan trọng trong chính quyền, quân đội, trong các đoàn thể,
đảng phái chính trị, hình thành một lực lượng nòng cốt chống
phá cách mạng. Chúng thiết lập những cụm dân cư, những
giáo khu của đồng bào Thiên chúa giáo trong các khu dinh
điền ở vùng Tây Nguyên, khu trù mật ở vùng Đồng bằng
sông Cửu Long, nhằm tạo ra những “vùng an ninh” nằm xen kẽ

với vùng giải phóng của ta. Bộ máy ngụy quyền và các
19


công cụ đàn áp cách mạng đã được dựng lên ở miền Nam.
Một số tổ chức mật vụ được ra đời như “Sở Nghiên cứu chính
trị xã hội” do Trần Kim Tuyến làm Giám đốc, “Nha Kỹ thuật”,
“Sở Phòng vệ duyên hải”, “Đoàn Công tác đặc biệt miền
Trung” . . . Bất chấp làn sóng phản đối mạnh mẽ của nhân
dân miền Nam chống Mỹ – Diệm phá hoại Hiệp định Giơnevơ,
ngày 10-10-1955, Mỹ đạo diễn cho Diệm bày trò “trưng cầu
dân ý”, phế truất Bảo Đại, suy tôn Ngô Đình Diệm làm Tổng
thống. Ngày 26-10-1955, Diệm tuyên bố thành lập Nước Việt
Nam Cọâng hòa. Đến giữa năm 1955, Mỹ đã xây dựng được
một đội quân tay sai với 10 sư đoàn bộ binh và hàng chục trung
đoàn độc lập. Hệ thống cố vấn Mỹ được cắm từ Phủ Tổng
thống, Bộ Tổng tham mưu, Nha Cảnh sát, các Bộ của chính
quyền Sài Gòn đến các đơn vị quân đội và xuống tận các
địa phương.
Mỹ - Diệm lập ra Đảng Cần lao nhân vị do Ngô Đình
Nhu, em trai Ngô Đình Diệm đứng đầu. Đảng Cần Lao Nhân Vị
được sự chỉ đạo trực tiếp của Đại tá Lansdale, trùm CIA ở Sài
Gòn và chính quyền Mỹ tài trợ kinh phí hơn một triệu đô la cho
Đảng này hoạt động. Với học thuyết “Duy linh” để chống lại
cộng sản, chỉ trong thời gian ngắn, Đảng Cần Lao Nhân Vị đã
thu nạp được 5 vạn đảng viên.
Được Mỹ hậu thuẫn đắc lực, anh em Diệm - Nhu tìm mọi
cách tiêu diệt các giáo phái thân Pháp. Diệm mua chuộc, lôi
kéo được một số chức sắc cao cấp của đạo Cao Đài Tây Ninh,
ký kết “Thỏa ước Bính Thân” để xoa dịu sự phẫn nộ của tín

đồ đạo này. Với lực lượng quân đội và cảnh sát trong tay, Diệm
đã liên tiếp truy quét quân Bình Xuyên và Hòa Hảo, bằng
các chiến dịch Hoàng Diệu (ngày 09-10-1955), Nguyễn Huệ
(ngày 01-5-1956), Đinh Tiên Hoàng 2 (ngày 09-12-1956), thanh
toán tướng Trịnh Minh Thế, bắt tướng Lê Quang Vinh (Ba Cụt).
Các lực lượng giáo phái thân Pháp lần lượt bị Diệm - Nhu tiêu
diệt. Dẹp xong các giáo phái thân Pháp, Diệm chóa ngay mũi
20


nhọn vào đàn áp, khủng bố phong trào cách mạng miền Nam.
Trong suốt hai năm 1955-1956, Mỹ - Diệm đã ráo riết thực hiện
quốc sách “Tố cộng, diệt cộng”, hòng tiêu diệt lực lượng
cách mạng miền Nam, tăng cường chiến tranh tâm lý, kết hợp
với các biện pháp khủng bố, đàn áp man rợ, chia rẽ nhân
dân với cán bộ, làm lung lay ý chí đấu tranh của quần chúng.
Với khẩu hiệu “Tiêu diệt cộng sản nằm vùng”, “Thà giết
nhầm còn hơn bỏ sót”, Mỹ - Diệm đã gây ra những vụ thảm
sát đẫm máu ở Sài Gòn - Gia Định, Bến Tre. Tính riêng từ
tháng 7-1955 đến tháng 2-1956, ở các tỉnh Nam Bộ có 93.326
cán bộ, đảng viên và những người yêu nước bị giam cầm,
giết hại.
Ở nhiều địa phương, tình thế cách mạng vô cùng khó
khăn, địch tập trung đánh phá quyết liệt, cấp ủy bị phân tán,
tổ chức cơ sở bị xáo trộn, nhiều nơi trở thành vùng trắng,
đường dây liên lạc bị đứt, nhiều đảng viên ở lại bị hy sinh,
có huyện chỉ còn từ 5 đến 10 đảng viên, có huyện không
còn một đảng viên nào, nhiều chi bộ Đảng tan rã.
Ngày 04-3-1956, Diệm tổ chức tuyển cử, lập Quốc hội
Việt Nam Cộng hòa, phân chia lại đơn vị hành chính, lập Tỉnh

đoàn bảo an, Tổng đoàn dân vệ và các tổ chức tình báo,
biệt kích “Liên đội quan sát”, “Nha Liên lạc”, “Thanh niên cộng
hòa”, “Phụ nữ liên đới” nhằm tập hợp lực lượng chống phá
cách mạng.
Sau khi tiến hành chiến dịch “tố cộng” giai đoạn 1, từ
tháng 7-1956, Mỹ - Diệm bắt đầu tổ chức chiến dịch “tố
cộng”, “diệt cộng” giai đoạn 2. Bằng việc tăng cường lực lượng
quân sự, tiến hành hàng loạt chiến dịch như: chiến dịch Trương
Tấn Bửu ở miền Đông Nam Bộ, chiến dịch Thoại Ngọc Hầu
ở miền Tây Nam Bộ, càn quét đàn áp phong trào cách mạng,
kết hợp với các hoạt động tình báo, gián điệp để phát hiện,
bắt bớ cán bộ. Ở các vùng trọng điểm như Sài Gòn - Gia

21


Định, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Bến Tre . . ., Mỹ - Diệm đã tổ
chức các cuộc hành quân càn quét nhiều lần với quốc sách
“tố cộng”, “diệt cộng”, “đặt cộng sản ngoài vòng pháp luật”
và không từ một thủ đoạn nào, từ việc gài gián điệp vào
các tổ chức quần chúng đến sử dụng những phần tử đầu
hàng, đầu thú để chỉ điểm, nhận diện, truy lùng bắt bớ, giam
cầm, thủ tiêu những người yêu nước. Bên cạnh đó, chúng
còn sử dụng số phản động cầm đầu các tôn giáo, đảng phái
và các tổ chức “Phong trào cách mạng quốc gia”, “Thanh niên
cộng hòa”, “Phụ nữ liên đới” vào các hoạt động tình báo,
gián điệp do CIA chỉ đạo để chống phá cách mạng miền Nam.
Các khu dinh điền, khu trù mật được lập ra ở khắp các vùng
căn cứ cách mạng cũ trước đây để dồn dân đồng bằng lên,
hòng “tát nước bắt cá”. Cán bộ kháng chiến, những người

yêu nước buộc phải ra trình diện, tập trung cải tạo, bị tra khảo
đánh đập, bị mua chuộc, bắt ly khai cọâng sản. Ở miền Nam,
từ thành thị đến nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi,
không ngày nào không có đầu rơi máu chảy. Lực lượng cách
mạng bị tổn thất nặng nề.
1.1.2. Chủ trương của Đảng đối với cách mạng miền Nam và công
tác bảo vệ an ninh.
Trước âm mưu phá hoại Hiệp định Giơnevơ và khủng bố
phong trào cách mạng ngày càng trắng trợn của Mỹ - Diệm,
nhân dân miền Nam bước vào cuộc chiến đấu mới đầy gian
nan thử thách. Lực lượng cách mạng miền Nam tạm thời ở thế
giữ gìn lực lượng. Các tổ chức cơ sở Đảng, cách mạng phải
rút vào bí mật, hoạt động không hợp pháp, chuyển từ đấu
tranh vũ trang sang đấu tranh chính trị. Đảng bộ miền Nam đã
đánh giá đúng những khó khăn sau khi ta rút quân, đã nhận
thức đúng tình hình khách quan có lợi cho ta là đồng bào miền
Nam, tuy được sống trong những ngày hòa bình ngắn ngủi, nhưng
tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong cuộc đấu tranh đầy khó khăn, gian khổ, hy sinh này. Moät
22


yếu tố hết sức thuận lợi là cán bộ và đồng bào miền Nam
dày dạn trong 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược, có nhiều
kinh nghiệm và quyết tâm chiến đấu. Cơ sở Đảng và quần
chúng đã được phát triển và trưởng thành trong kháng chiến.
Bên cạnh đó, cuộc đấu tranh của đồng bào miền Nam có chỗ
dựa vững chắc là hậu phương lớn miền Bắc.
Bộ Chính trị đã đề ra nhiệm vụ chiến lược của Đảng là:
Đoàn kết và lãnh đạo nhân dân đấu tranh thực hiện Hiệp định

đình chiến để củng cố hoà bình, ra sức hoàn thành cải cách
ruộng đất, phục hồi và nâng cao sản xuất, tăng cường xây
dựng quân đội nhân dân để củng cố miền Bắc, xây dựng
miền Bắc trở thành hậu phương lớn của cách mạng miền Nam,
nhằm củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc
lập dân chủ trong toàn quốc.
Đối với cách mạng miền Nam, Bộ Chính trị xác định
nhiệm vụ trước mắt của Đảng ở miền Nam là: Phải đấu tranh
đòi đối phương thi hành đầy đủ Hiệp định Giơnevơ, củng cố
hoà bình, thực hiện tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, không
được khủng bố, đàn áp nhân dân, trả thù những người kháng
chiến cũ, không được cướp giật ruộng đất cũng như các
quyền lợi dân sinh, dân chủ mà cách mạng đã đem lại cho
nhân dân.
Trước diễn biến mới của tình hình, Bộ Chính trị quyết định
giải thể Trung ương Cục miền Nam, thành lập lại Xứ ủy Nam
Bộ. Tháng 10/1954, tại căn cứ Chắc Băng (Cà Mau), Hội nghị
thành lập Xứ ủy Nam Bộ được tổ chức, ông Lê Duẩn được
cử làm Bí thư. Hội nghị nhận định tình hình miền Nam diễn biến
có hai khả năng: hoặc là Diệm phải thi hành Hiệp định
Giơnevơ, hoặc là chúng tìm cách phá hoại Hiệp định này. Do
vậy, nhân dân miền Nam vừa đấu tranh đòi chính quyền Ngơ
Đình Diệm phải thi hành Hiệp định và tổ chức tổng tuyển cử,
hòa bình thống nhất nước nhà, vừa chuẩn bị đối phó với
những khả năng xấu nhất có thể xảy ra.
23


Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, Xứ ủy Nam Bộ
đã đề ra phương châm công tác cách mạng miền Nam là: “Kết

hợp công tác bí mật với công tác công khai và nửa công khai,
tổ chức và hoạt động của Đảng phải hết sức bí mật; tổ chức
và hoạt động của phong trào quần chúng thì cần lợi dụng các
hình thức công khai”[135, Tr41]. Xứ ủy cũng chỉ đạo các Tỉnh
ủy phải gấp rút mở lớp tập huấn ngắn ngày để chuyển
hướng nhiệm vụ cho các cán bộ, đảng viên ở lại, đào tạo
thêm cán bộ đưa về tăng cường cho thành phố lớn, các vùng
dân tộc, tôn giáo; đồng thời bố trí cán bộ vào hoạt động
trong bộ máy ngụy quân, ngụy quyền với tên họ và ngành
nghề mới, theo khả năng của từng người, phải tổ chức chôn
dấu vũ khí, đạn dược.
Về công tác tổ chức, Hội nghị chủ trương điều chỉnh tổ
chức Chi bộ theo hướng chuyển vào hoạt động bí mật, trong đó
các đảng viên trung kiên là nòng cốt, những đảng viên thiếu
tích cực sinh hoạt riêng và cắt sinh hoạt Đảng đối với những
đảng viên yếu kém, tổ chức thêm những Chi bộ mới ở
thành thị.
Cũng trong thời gian này, Bộ Chính trị đã có “Chỉ thị tối
mật cho Xứ ủy lập một tổ chức chung cho công tác địch tình,
lấy tên là Ban Nghiên cứu Xứ ủy, làm ba chức năng: Tình
báo chiến lược, quân báo và bảo vệ Đảng, bảo vệ phong
trào cách mạng”[135,Tr15]. Trong tình hình tất cả các tổ chức
công an đã giải thể, yêu cầu chính đối với Tình báo chiến lược
là: Phải tìm hiểu xem đối phương có chịu thi hành Hiệp định
Giơnevơ hay không? Thực chất mâu thuẫn giữa Pháp và Mỹ?
Chính sách của Mỹ đối với miền Nam Việt Nam như thế nào?
Bằng cách nào buộc đối phương phải thi hành Hiệp định
Giơnevơ? Trước yêu cầu bức bách đó, chủ trương của Nha
Liên lạc Thủ tướng phủ (Tình báo Trung ương) là chuyển toàn
bộ lực lượng Điệp báo của ta từ miền Bắc bám theo địch tập

kết vào Nam, tranh thủ thời cơ cả hai bên đang tập kết chuyển
24


quân, tuyển chọn và “phái khiển” thêm cán bộ, cơ sở tình báo
theo đồng bào di cư vào Nam, xây dựng lực lượng Tình báo cho
yêu cầu lâu dài ở miền Nam, chỉ đạo các tổ chức Tình báo
trực thuộc ở các địa phương miền Nam, bố trí cán bộ, cơ sở ở
lại bám địch, nắm tình hình địch.
Theo chức năng nhiệm vụ của lực lượng Công an nhân
dân, Đảng đoàn Bộ Công an đã đẩy mạnh công tác “phái
khiển” để chủ động nắm tình hình địch, có chủ trương đối phó
đúng đắn, kịp thời với các hoạt động của Mỹ và chính quyền
Sài Gịn, nhằm bảo vệ Đảng, bảo vệ lực lượng cách mạng. Về
công tác này, ơng Trần Quốc Hoàn, Bí thư Đảng đoàn, Bộ
trưởng Bộ Công an, đã chỉ rõ: “Vì miền Nam có Mỹ và CIA
hoạt động nên ta phải tiến hành công tác “phái khiển” để đối
phó với hoạt động tình báo của CIA và Mỹ. . . Điều kiện ở
miền Nam dễ tiến hành công tác “phái khiển” vì trong một gia
đình có người đang công tác ở miền Bắc, có người giữ vị trí
cao của chính quyền Sài Gòn, ta có thể thông qua đó mà lôi
kéo người của địch vào làm đặc tình cho ta. Công tác “phái
khiển” phải đi trước một bước, nếu không đi trước, địch triển
khai hoàn chỉnh hệ thống, thì mình bị động khó đối phó” [158,
Tr40].
Thực hiện chủ trương sáng suốt này, tháng 9 - 1954, Đảng
đoàn Bộ Công an đã cử ông Trần Viễn Chi, phái viên của
Bộ trưởng, vào “khu tập kết 200 ngày” ở Cà Mau để phổ
biến cho lãnh đạo Sở Công an Nam Bộ về nội dung công tác
“phái khiển” (công tác tình báo phản gián), xây dựng cơ sở

nội tuyến trong lòng địch, nắm tình hình địch, từ đó có cơ sở
để bố trí thế trận bảo vệ Đảng, bảo vệ phong trào cách
mạng. Sau khi truyền đạt nhiệm vụ cho Sở Công an Nam Bộ,
ông Trần Viễn Chi đã trao đổi quy ước thông tin liên lạc giữa
bộ phận Tình báo phản gián của Sở Công an Nam Bộ với bộ
phận Tình báo phản gián của Bộ Công an.

25


×