Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Vấn đề ly hôn và thực tiễn giải quyết tại tòa án nhân dân thành phố vinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.9 KB, 39 trang )

MỤC LỤC
Trang
A.PHẦN MỞ ĐẦU 1
1.Tính cấp thiết của đề tài ...............................................................................
1
2.Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ...................................................
3
3.Mục đích và phương pháp nghiên cứu đề tài .............................................
3
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài .....................................................
4
5.Bố cục của đề tài ...........................................................................................
4

B. PHẦN NỘI DUNG ...........................................................................
6
Chương 1: Khái quát chung về ly hôn và cơ sở pháp lý của nó .......................
6
1.1.Khái niệm và đặc điểm của ly hơn ...........................................................
6
1.1.1.Khái niệm
6
1.1.2.Đặc điểm của ly hôn 8
1.2. Các căn cứ ly hôn theo pháp luật Việt Nam 9
1.2.1.Khái niệm 9
1.2.2.Nội dung các căn cứ ly hôn 12
1.3. Quyền ly hôn 15
1.4.Hạn chế quyền ly hôn 21
1.5. Nguyên nhân dẫn tới ly hôn 23
1.5.1.Nguyên nhân do ảnh hưởng của những tàn tích lạc hậu của
chế độ hơn nhân và gia đình phong kiến và chế đọ hôn nhân tư


sản. 23
1.5.2Nguyên nhân về tâm lý, sinh lý, sức khoẻ 24
1.5.3.Nguyên nhân về kinh tế 24
1.5.4.Ngun nhân ngoại tình và ghen tng 25
1.5.5. Nguyên nhân vợ chồng có sự khác biệt về địa vị xã hội, trình độ
học vấn 25
1.5.6.Nguyên nhân do thiếu những hiểu biết cơ bản về quan hệ
hôn nhân 25


1.5.7.Nguyên nhân về nghề nghiệp, nơi cư trú, môi trường sinh
sống 26
1.6. Hồ giải khi ly hơn 27
1.6.1. Việc khuyến khích hồ giải ở cơ sở khi có u cầu ly hơn 27
1.6.2 Hồ giải tại Tồ án 29
PHÇN III: KẾT LUẬN 31


PHẦN THỨ NHẤT
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CƠ QUAN THỰC TẬP-TÒA ÁN NHÂN
DÂN THÀNH PHỐ VINH
1.ĐẶC ĐIỂM CỦA THÀNH PHỐ VINH
Thành phố Vinh đô thị loại 1 trung tâm tỉnh Nghệ An,có diện tích
1005km,dân số 29.200.000 người,đơn vị hành chính có 25 phường xã(16
phường, 9 xã) là trung tâm của chuyến du lịch Đơng Nam Á, hội tụ đủ các
loại hình giao thơng: có bến cảng, sân bay, các tuyến du lịch đông nam á,
các tuyến đường sắt, đường quốc lộ 1a đi qua lưu thông giữa hai miền bắcnam với nhau. Là nơi tập trung đông dân cư nhất tỉnh Nghệ An. Nền kinh
tế, văn hóa, xã hội….ngày càng phát triển. Vì thế đây là địa bàn thuận lợi
nên các tội phạm ở thành phố Vinh ngày càng tăng, đặc biệt là tội trộm cắp
tài sản,cướp giật, buôn bán ma túy, mại dâm, kinh doanh, thương mại…

2.ĐƠN VỊ TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH
1.LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Tòa án nhân dân thành phố Vinh –Nghệ An thành lập ngày 13/9/1945.Từ
khi ra đời và phát triển TAND thành phố vinh có các tên gọi khác nhau. Để
bảo vệ chính quyền cách mạng và trấn áp bọn phản cách mạng.Ngày
13/9/1945, chính phủ lâm thời đã ban hành sắc lệnh thành lập các tòa án
quân sự ở bắc bộ, trung bộ tại các tỉnh Huế, Quảng Ngãi và Vinh được
thành lập. Ngày 04/01/1946 - Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký và ban hành sắc
lệnh số 13/SL về tổ chức các tòa án và các ngạch thẩm phán. Theo sắc lệnh
ngày 09/03/1946 tại một địa điểm trong dinh thương(thành nghệ an cũ) tòa
án sơ cấp thị xã Vinh - Bến thủy được thành lập và tồn tại đến cuối năm
1947. Toàn quốc kháng chiến, thị xã Vinh thực hiện tiêu thổ để kháng
chiến, triệt để tản cư, nhằm đáp ứng tình hình mới tịa án Hưng Thịnh được
lập ra để tiếp tục công việc của cả 2 khu vực Hưng nguyên và thị xã VinhBến thủy.Cuối năm 1950 TAND thị xã Vinh được trách ra từ tòa án hưng
thịnh hoạt động 1 thời gian thì cải cách ruộng đất và tòa án đặc biệt giải


quyết. Tòa án thị xã Vinh được gọi với tên gọi mới là: Tòa án nhân dân
thành phố Vinh cho đến nay. Tòa án nhân dân thành phố Vinh 65 năm xây
dựng và trưởng thành,ln ln đồn kết và hịan thành tốt mọi nhiệm vụ
được giao với rất nhiều thành tích. Nhiều năm liền là đơn vị dẫn đầu trong
các phong trào thi đua,là cơ sở đảng vững mạnh,là tập thể lao động tiêu
biểu, điển hình, là đơn vị văn hóa của thành phố.
2. CHỨC NĂNG-NHIỆM VỤ THẨM QUYỀN CỦA TAND THÀNH
PHỐ VINH
- Chức năng:
Tòa án nhân dân thành phố Vinh là cơ quan có chức năng xét xử,tịa án
nhân dân và TAND thành phố vinh có thẩm quyền xét xử các vụ án hình
sự,dân sự hơn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết
những việc khác theo quy định cảu pháp luật.

- Nhiệm vụ,thẩm quyền:
TAND thành phố vinh có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế XHCN và giáo dục
công dân chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật và trung thành với tổ quốc.
Là 1 đơn vị TAND thành phố thuộc tỉnh-TAND thành phố vinh có thẩm
quyền sơ thẩm những vụ án hình sự quy định hình phạt tù từ 15 năm trở
xuống(trừ các tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia,các tội
quy định tại điều 89,90,91,92,93,101(khoản 3),102,179,231,232 BLHS. Sơ
thẩm những vụ án dân sự, vụ án hơn nhân và gia đình, kinh tế, lao động,
hành chính theo quy định của pháp luật)
3. CƠ CẤU TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN-TAND
THÀNH PHỐ VINH
3.1 Cơ cấu tổ chức:
Qua các năm,cơ cấu tổ chức của tào án nhân dân thành phố vinh có sự
thay đổi,tuy nhiên cơ cấu cảu ngành không vượt quá chỉ tiêu ,số lượng cán
bộ công chức biên chế của pháp luật quy định.
TAND thành phố Vinh gồm: Chánh án, phó chánh án, thẩm phán, thư ký,
các bộ cơng tác văn phòng, thi hành án, hội thẩm nhân dân.


Hiện nay, TAND thành phố vinh có 28 biên chế,trong đó có:
+ 01 chánh án:Bà Nguyễn thị Quang
+01 phó chánh án:Đồng chí Trần Anh Sáng
15 thẩm phán,9 thư ký,4 cán bộ làm cơng tác tại văn phịng và thi hành án
hình sự.
Trong đó có 2 đồng chí đi học thạc sỹ tại Hà Nội,2 đồng chí học tại chức
nâng cao trình độ về chun mơn, nghiệp vụ kế tốn, vi tính,1 đồng chí
nghỉ ốm lâu dài. Do vậy lực lượng thường xun có mặt tại tịa là khoảng
23 người.Số thẩm phán,thư ký đều có trình độ đại hoc luật,có nhiều đồng
chí có 2 bằng đại học,một đồng chí là thạc sỹ luật.
Tập thể cán bộ luôn luôn nêu cao tinh thần đồn kết nhất trí cùng nhau nỗ

lực phấn đấu hoàn thành xuất sắc,nhiệm vụ được giao, được viện kiểm sát
và nhà nước và nhà nước tặng thưởng nhiều danh hiệu cao quý.
b.Đặc điểm hoat động
Đơn vị -TAND thành phố vinh đã tổ chức hoạt động nhiều nội dung công
tác dưới sự lãnh đạo của người đứng đầu-chánh án.
-Về hoạt động lãnh đạo,chỉ đạo:
+ Tập trung hoàn thành tốt nhiệm vụ chuyên môn đặc biệt là công tác xét
xử các loại án, phấn đấu đạt và vượt chỉ tiêu các loại án về số lượng, đồng
thời nâng cao chất lượng không để lọt tội phạm, không xử oan người vô tội,
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho người dân,không để án kéo dài quá
hạn luật định.Các hoạt động cơng tác khác như thi hành án hình sự, giám
đốc kiểm tả, hướng dẫn nghiệp vụ, giải quyết đơn thư khiếu nại được thực
hiện đồng bộ có hiệu quả.
+ Tăng cường hoạt động cơng tác cơng đồn,Đồn thanh niên,nữ cơng
trong tồn ngành làm nịng cốt cho phong trào thi đua.
- Về hoạt động giải quyết các vụ án:
Tòa án nhân dân thành phố vinh đã thụ lý và giải quyết hàng ngàn vụ án
với các loại án khác nhau.


+ Án hình sự: TAND đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tiến hành tố
tụng nên việc giải quyết nhanh, nghiêm túc, đúng người, đứng tội, đứng
pháp luật, đáp ứng yêu cầu phòng chống tội phạm.Việc thực hiện tổ chức
phiên tòa được đổi mới và dân chủ, tòa án đã tạo điều kiện đảm bảo cho
những người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ hợp
pháp của mình.
+ Án dân sự, hơn nhân , gia đình, hành chính, kinh doanh, thương mại, lao
động cũng gặp nhiều khó khăn,phức tạp. Lãnh đạo tịa án nhân dân thành
phố Vinh đã tập trung chỉ đạo giải quyết các loại án này và quán triệt tinh
thần cải cách tư pháp,các hội thẩm,cán bộ đã tích cực trong việc xây dựng

hồ sơ vụ án,tăng cường cơng tác hịa giải,đồng thời việc triển khai thủ tục
xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa được thực hiện theo đúng quy định của
pháp luật. Do vậy, chất lượng xét xử các loại án đã đảm bảo được quyền và
lợi ích hợp pháp của các đương sự.
- Về hoạt động thi hành án
Tịa án nhân dân thành phố Vinh đã có nhiều cố gắng để hồn thành tốt
nhiệm vụ.Các bản án có hiệu lực đảm bảo thi hành nghiêm túc, đã ra các
quyết định thi hành án, số bị án hưởng án treo, cải tạo không giam giữ được
đưa vào địa phương quản lý, theo dõi, giáo dục. Việc tạm hoãn thi hành án
đúng pháp luật, làm đúng quy định xóa án tích, xét giảm thời hạn thử thách
và án treo thơng qua đó để bảo vệ kịp thời các quyền lợi, hợp pháp của
những người bị kết án.
- Về hoạt động giải quyết đơn thư khiếu nại
+ Tòa án thực hiện sổ sách ghi chép rõ ràng,đảm bảo bí mật trong công tác
văn thư lưu trữ, tiếp dân tốt. Đã xem xét đơn thư kịp thời đúng quy định
của pháp luật.
+ Công tác báo cáo thống kê xây dựng văn bản quy phạm pháp luật được
thực hiện đúng thời hạn theo quy định của ngành.


+ Xây dựng, sửa đổi, bổ sung các quy chế của ngành: Quy chế dân chủ cơ
sở, quy chế công khai tài chính và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, quy
chế chi tiêu tài chính nội bộ.
- Về hoạt động tổ chức cán bộ
+ Chăm lo đào tạo,bồi dưỡng cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực trách
nhiệm, có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơng chức lần lượt đi hoạc
trung học, cao cấp, đại học chính trị và chuyên ngành khác.
+ Chuẩn bị tốt nhân sự để bổ sung cán bộ lãnh đạo, thẩm phán khi có yêu
cầu.
+ Thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở là một trong những nhân tố không

thể thiếu được, tạo nên sự đoàn kết thống nhất cao trong cơ quan.
+ Tăng cường công tác kiểm tra, giữ nguyên kỷ luật của cơ quan, thực hiện
tốt chương trình hành động của cơ qaun đề ra, xây dựng lối sống làm việc,
văn minh hiện đại.
- Hoạt động công tác xây dựng đồn thể
+ Tập thể cán bộ,cơng chức đều đáp ứng yêu cầu,nhiệm vụ công tác của
ngành và địa phương, nội bộ đoàn kết, tập trung dân chủ.
+ Chi bộ cơ quan luôn làm tốt công tác lãnh đạo,giáo dục về chính trị tư
tưởng cho đảng viên,cán bộ cơng chức.
+ Công tác xây dựng Đảng cũng được quan tâm ,nhất là việc phát triển
Đảng viên mới,chi bộ TAND thành phố Vinh là chi bộ trong sạch,vững
mạnh hàng năm kết nạp được thêm nhiều đảng viên mới.
+ Tổ chức cơng đồn thanh niên, phụ nữ cũng có vai trị đáng kể trong việc
chăm lo, động viên cán bộ phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
4. ĐÁNH GIÁ KHÁT QUÁT CHUNG
Tòa án nhân dân thành phố vinh 65 năm xây dựng và trưởng thành,
với chức năng là cơ quan xét xử và nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa và giáo dục công dân, đã trở thành đơn vị tiêu biểu của ngành, đơn vị
văn hóa của thành phố Vinh. Là tòa án xét xử khá nhiều vụ án .Tập thể cán
bộ công chức của cơ quan luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, vượt qua


mọi khó khăn thử thách, đồn kết nhất trí cùng nhau nỗ lực phấn dấu haòn
thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Đạt nhiều kết quả cao trong công tác
hoạt động, chỉ đạo, xét xử,…và thành tích nổi bật mang tính chun mơn
của ngành là trong lĩnh vực xét xử giải quyết các loại án với số lượng lớn
và nhiều loại án khác nhau như: hình sự, dân sự, hơn nhân - gia đình, kinh
doanh - thương mại…Với việc xét xử những hành vi phạm tội, tòa án thành
phố đã góp phần vào cơng cuộc phịng và chống tội phạm cũng như giáo
dục công dân sống lành mạnh không vi phạm pháp luật. Tịa án nhân dân

đã góp phần sức mình vào việc đảm bảo an ninh trật tự xã hội trên địa bàn
thành phố Vinh. Tòa án nhân dân thành phố Vinh là tập thể lao động xuất
sắc, là tịa án điển hình, xuất sắc của tỉnh Nghệ An. Đơn vị văn hố của
ngành tịa án nhân dân nói chung, được TAND tối cao cơng nhận đơn vị
văn hóa.
Trong thời gian thực tập tại cơ quan, bản thân tôi khơng chỉ rèn luyện được
vốn kiến thức của mình mà còn học hỏi thêm được rất nhiều kỹ năng
nghiệp vụ làm việc, giải quyết và tiếp xúc với đương sự. Bên cạnh đó, sự
nhiệt tình chỉ bảo và sự thân thiện mà cô chú, anh chị trong cơ quan đã
dành cho đồn thực tâp nói chung và bản thân tơi nói riêng đã tiếp thêm sức
mạnh để yêu nghề và tự hào về ngành mình theo học.
Chia tay với quý cơ quan, trong lịng chúng tơi tất cả vừa bùi ngùi xúc
động vừa tự hứa với bản thân phải cố gắng thành công trong cuộc đời để
phục vụ nhân dân, Đảng, Nhà nước và gìn giữ trật tự kỷ cương cho xã hội
được cơng bằng, bình n và hạnh phúc!


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong công cuộc đổi mới của đất nước ta hiện nay, một trong những
nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân và vì dân. Muốn xây dựng thành cơng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta thì cần phải có con người xã hội chủ nghĩa,
đó là địi hỏi tất yếu khách quan. Nhưng muốn có con người xã hội
chủ nghĩa thì phải có một gia đình mẫu mực, bởi gia đình quyết
định một phần rất lớn tới bản chất con người. Gia đình hiện nay
cịn được xem là tế bào của xã hội, do vậy muốn có một xã hội phát
triển và lành mạnh thì cần phải có gia đình tốt – gia đình văn hố
mới. Gia đình là nơi sản sinh ra con người, nuôi dưỡng và giáo dục
con người cho xã hội, vì vậy Đảng và Nhà nước ta trong những năm

qua luôn luôn quan tâm tới vấn đề gia đình. Luật hơn nhân và gia
đình có vai trị góp phần xây dựng, hồn thiện và bảo vệ chế độ hơn
nhân gia đình tiến bộ, nhằm xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng,
tiến bộ hạnh phúc và bền vững. Quan điểm của Đảng và Nhà nước
ta về gia đình được ghi nhận tại Điều 64 Hiến pháp 1992: “ Gia đình
là tế bào của xã hội. Nhà nước bảo hộ hơn nhân và gia đình theo
ngun tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình
đẳng. Cha mẹ có trách nhiệm ni dạy con thành những người cơng
dân tốt, con cháu có bổn phận chăm sóc ông bà, cha mẹ. Nhà nước
và xã hội không thừa nhận việc phân biệt đối xử giữa các con.”
Mặc dầu đường lối chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật
của nhà nước đã đề cập như vậy, song hiện nay có khơng ít gia đình
vì những lý do khác nhau đã khơng thực hiện tốt chức năng của nó.
Một trong số các nguyên nhân đó là cha mẹ, vợ chồng sống không
hạnh phúc, bất đồng, mâu thuẫn trong nội bộ dẫn tới ly hôn.
Ngày nay, dưới sự tác động mặt trái của nền kinh tế thị trường, cùng
những lối sống tiêu cực, ham hưởng thụ hoặc chạy theo đồng tiền làm


cho vợ chồng, cha mẹ, con cái bỏ bê, không quan tâm chăm sóc nhau.
Tranh chấp về ly hơn ngày càng nhiều trên phạm vi toàn quốc trong
những năm gần đây, tình trạng ly hơn ở nước ta diễn ra rất phổ biến,
lý do rất đa dạng, phức tạp cả về chủ thể lẫn nội dung. Theo báo cáo
của ngành Tồ án, những án kiện về hơn nhân gia đình luôn chiếm tỷ
lệ cao trong tổng số các án kiện dân sự. Trong các án kiện về hơn nhân
gia đình thì án kiện về ly hơn ln chiếm khoảng 90%.
Ở Thành phố Vinh trong những năm qua, số lượng án về ly hơn có
phần tăng. Đối với loại án này mỗi vụ việc có nội dung đa dạng và tính
phức tạp cũng khác nhau, nên việc giải quyết loại án này gặp khơng ít
khó khăn trong nhận thức vận dụng pháp luật cũng như những khó

khăn từ khách quan mang lại. Tuy vậy, q trình giải quyết ly hơn ở
Thành phố Vinh trong những năm qua đã đạt được những kết quả
nhất định góp phần giải quyết các mâu thuẫn bất hồ trong hơn nhân,
bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của các đương sự đặc biệt là quyền và
lợi ích hợp pháp của phụ nữ và trẻ em. Thông qua việc giải quyết ly
hơn đã góp phần làm ổn định các quan hệ trong hơn nhân, giữ gìn kỷ
cương pháp luật, giữ ổn định chính trị, trật tự an tồn xã hội, góp phần
tăng cường nền pháp chế trên toàn tỉnh Nghệ An.
Bên cạnh những mặt đã đạt được, trong hoạt động xét xử ở Toà án
nhân dân Thành phố Vinh cũng đã bộc lộ một số tồn tại như xét xử oan
sai, án tồn đọng, cịn có vụ vi phạm thời hạn tố tụng , một số vụ án bị
sửa, …làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các đương sự. Hơn nữa, ảnh
hưởng của ly hôn theo hướng tiêu cực như: sự ly tán gia đình, sự phân
chia tài sản, trẻ em thiếu sự chăm sóc, giáo dục trực tiếp của cha mẹ …
đang là những gánh nặng, những hậu quả để lại cho gia đình và xã hội
mà đang là những câu hỏi lớn đặt ra cần được giải quyết?
Xuất phát từ những lý do trên, người viết chọn đề tài “ Vấn đề ly hôn
theo pháp luật Việt Nam và thực tiễn giải quyết tại Toà án nhân dân
Thành phố Vinh từ năm 2008 đến năm 2011” là rất cần thiết. Qua quá


trình nghiên cứu, chúng ta có thể làm rõ những quy định của pháp luật
về ly hôn, những điểm cần hồn thiện nhằm góp phần làm nâng cao cơ
sở lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật giải quyết các tranh chấp từ
các án kiện ly hôn hiện nay.
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Trên cơ sở phân tích các quy định của pháp luật về ly hôn, qua việc so
sánh đối chiếu với thực tiễn áp dụng pháp luật của cơ quan chuyên
trách góp phần tuyên truyền, phổ biến pháp luật đến người dân. Qua
việc phân tích, tìm ra những vướng mắc, thiếu sót, đề xuất những kiến

nghị phù hợp với yêu cầu tất yếu khách quan của xã hội trong giai
đoạn hiện nay.
Qua đề tài, chúng tơi muốn góp phần cơng sức nhỏ bé của mình vào
nhiệm vụ chung của tồn xã hội để xây dựng một chế độ pháp lý ngày
càng hoàn thiện góp phần nâng cao hiệu lực pháp luật, xây dựng một
nhà nước pháp quyền ngày càng vững mạnh. Hy vọng khoá luận này
sẽ là một tài liệu tham khảo và là gợi ý, hướng dẫn cho việc áp dụng và
thực hiện các quy định của pháp luật về ly hơn.
3. Mục đích và phương pháp nghiên cứu đề tài
Khi đi tìm hiểu nghiên cứu vấn đề này chúng ta không chỉ thấy được
thực trạng ly hôn đang diễn ra như thế nào mà qua đó chúng ta cịn có
thể đi sâu tìm hiểu các nguyên nhân dẫn tới ly hôn và sự tác động của
vấn đề ly hôn tới tình hình kinh tế - xã hội của đất nước.
Thơng qua việc nghiên cứu đề tài này sẽ giúp chúng ta có được cách
hiểu sâu hơn, đúng đắn hơn cơ sở lý luận của vấn đề ly hôn theo pháp
luật hơn nhân và gia đình.
Nghiên cứu đề tài này cịn nhằm thu thập các số liệu tìm ra những
vướng mắc, bất cập khi áp dụng giải quyết để từ đó tìm ra các giải
pháp phù hợp, góp phần xây dựng và hồn thiện pháp luật hơn nhân
và gia đình và nhằm bảo vệ chế độ hơn nhân gia đình tiến bộ, bền vững
kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam.


Khi thực hiện đề tài của mình, người viết tuân thủ phương pháp
nghiên cứu chủ đạo là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của Chủ nghĩa Mác- Lênin. Trên cơ sở phương pháp luận đó, người
viết sử dụng phương pháp cụ thể như so sánh, phân tích, tổng hợp để
hồn thành đề tài của mình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đề tài tập trung tìm hiểu, nghiên cứu những quy định của pháp luật

hiện hành về chế định ly hôn và những văn bản hướng dẫn thi hành
đồng thời có sự so sánh đối chiếu với các quy định về vấn đề ly hôn
trong các văn bản pháp luật về hôn nhân gia đình trước đó để thấy
được những điểm khác và điểm mới qua đó thấy được những bước tiến
trong q trình lập pháp ở nước ta. Bên cạnh đó, đề tài còn được tiến
hành nghiên cứu, tiếp xúc thực tiễn tại Toà án nhân dân Thành phố
Vinh – cơ quan chuyên trách giải quyết các án kiện hôn nhân trên địa
bàn Thành phố Vinh.
Do lần đầu tiên tiếp cận với việc nghiên cứu một đề tài và có giới hạn
về mặt thời gian nên khoá luận chưa thể đi sâu nghiên cứu các vấn đề
khác như về thủ tục tố tụng của một vụ án ly hôn hay vấn đề ly hơn có
yếu tố nước ngồi. Vì vậy, q trình thực hiện đề tài khơng tránh khỏi
những thiếu sót mong q thầy cơ và các bạn góp ý, bổ sung để khố
luận được hồn thiện hơn.
5. Bố cục của đề tài
Cơ cấu của đề tài bao gồm:
Phần mở đầu
Phần nội dung
Chương 1: Khái quát chung về ly hôn và cơ sở pháp lý của ly hôn
Chương 2: Thực tiễn giải quyết vấn đề ly hơn tại Tồ án nhân dân
Thành phố Vinh và một số giải pháp nhằm đảm bảo việc giải quyết vấn
đề ly hơn tại Tồ án nhân dân Thành phố Vinh
Phần kết luận


Tài liệu tham khảo

B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Khái quát chung về ly hôn và cơ sở pháp lý của nó
1.1 Khái niệm và đặc điểm của ly hơn

1.1.1 Khái niệm
Ly hôn là một mặt của quan hệ hôn nhân . Nếu kết hơn là một hiện
tượng bình thường nhằm xác lập quan hệ vợ chồng thì ly hơn là một
hiện tượng bất bình thường, là mặt trái của quan hệ hôn nhân nhưng
là mặt không thể thiếu được khi quan hệ hôn nhân đã thực sự tan vỡ.


Trong trường hợp đó ly hơn là một việc cần thiết cho cả vợ chồng và
cho xã hội, vì nó giải phóng cho tất cả mọi người, cho cả vợ chồng, các
con cũng như những thành viên trong gia đình thoát khỏi xung đột,
mâu thuẫn bế tắc trong cuộc sống chung. Thực hiện nguyên tắc hôn
nhân tự nguyện và tiến bộ, bảo đảm quyền tự do hôn nhân bao gồm
quyền tự do kết hôn của nam nữ và quyền tự do ly hôn của vợ chồng.
Theo từ điển bách khoa Việt Nam thì ly hơn là việc hai vợ chồng bỏ
quan hệ vợ chồng chính thức, vì những ngun nhân nào đó mà khơng
đạt được mục đích hơn nhân. Việc ly hơn có thể xảy ra ở hai thời kỳ:
sau khi dạm hỏi( trước khi cưới) và sau khi cưới khi hai vợ chồng đã
ăn ở với nhau một thời gian thậm chí sau khi đã sinh con cái.
Trước năm 1945, vợ chồng muốn ly dị phải trình làng, làng xử không
được phải đến cửa quan( quan huyện, quan phủ). Đàn ông muốn bỏ vợ
phải viết tờ ly dị. Vợ cầm tờ giấy ấy trình làng, trình quan xong mới
được lấy vợ khác. Dưới các chế độ phụ quyền, đặc biệt là xã hội phong
kiến phương Đông, với tư tưởng trọng nam khinh nữ, trong ly hôn nữ
giới chịu nhiều thiệt thịi hơn nam giới.
Hệ thống pháp luật về hơn nhân và gia đình của Nhà nước ta từ năm
1945 đến nay quy định về vấn đề ly hôn với quan điểm vừa tôn trọng,
bảo vệ quyền tự do ly hon chính đáng của vợ chồng, vừa quy định giải
quyết ly hơn có lý, có tình. Bằng pháp luật nhà nước kiểm sốt quyền
tự do ly hơn của vợ chồng vì lợi ích của gia đình và xã hội.
Tại khoản 8 Điều 8 luật hơn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Ly

hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân do tồ án cơng nhận hoặc quyết
định theo u cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng”.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, hôn nhân( trong đó có ly
hơn) là hiện tượng xã hội, mang tính giai cấp sâu sắc. Pháp luật của
Nhà nước phong kiến, tư sản thường quy định hoặc là cấm vợ chồng ly
hôn, hoặc là đặt ra các điều kiện hạn chế quyền ly hôn của vợ chồng,
hoặc quy định giải quyết ly hôn dựa trên cơ sở lỗi của vợ chồng. Hệ


thống pháp luật hơn nhân và gia đình ở nước ta dưới thời phong kiến,
thực dân đã thể hiện luận điểm trên. Dưới chế độ cũ, quyền yêu cầu ly
hôn và các duyên cớ ly hôn theo luật định thường dựa trên quan hệ “
bất bình đẳng” giữa vợ và chồng. Ly hôn là một hiện tượng xã hội
phức tạp, vì nó ảnh hưởng đến quyền lợi, hạnh phúc của vợ chồng, đến
lợi ích của gia đình và xã hội. Trong những năm gần đây, các việc ly
hôn ở nước ta và các nước trên thế giới gia tăng đáng kể. Những
nguyên nhân, lý do ly hôn cũng rất đa dạng và phức tạp. Vì vậy, muốn
giải quyết ly hơn chính xác, vừa đảm bảo quyền tự do ly hơn chính
đáng của vợ chồng, vừa đảm bảo lợi ích gia đình và xã hội, cán bộ
thẩm phán cần nắm vững quy định của pháp luật, điều tra, tìm hiểu kỹ
lưỡng nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng, tâm tư tình cảm,
nguyện vọng của mỗi đương sự, đồng thời phải lưu ý đến các đặc điểm
về tình hình kinh tế - chính trị và xã hội tác động vào quan hệ hôn
nhân trong thời điểm giải quyết ly hôn, để kết hợp đúng đắn đường lối
chính sách cụ thể của Đảng và Nhà nước đối với việc giải quyết từng
loại án kiện về ly hôn.
Nhà nước bảo hộ hôn nhân, bảo đảm quyền tự do ly hôn của vợ chồng
không có nghĩa là giải quyết ly hơn tuỳ tiện, theo ý chí, nguyện vọng
của vợ chồng muốn sao làm vậy mà bằng pháp luật, Nhà nước kiểm
soát việc giải quyết ly hơn. Bởi vì, trong quan hệ hơn nhân khơng phải

chỉ có lợi ích riêng tư của vợ chồng mà cịn có lợi ích của Nhà nước và
xã hội thể hiện qua những chức năng của gia đình - tế bào của xã hội
và lợi ích của con cái – thành viên của gia đình và xã hội. Vì vậy vợ
chồng không thể chỉ chú ý đến hạnh phúc cá nhân mà xin ly hôn một
cách tuỳ tiện.
1.1.2 Đặc điểm của ly hôn
Xuất phát từ khái niệm ly hôn được quy định tại khoản 8 Điều 8 luật
HNGĐ năm 2000, ly hơn có hai đặc điểm sau đây:


Thứ nhất: Việc ly hôn phải theo ý muốn của một hoặc của cả hai vợ
chồng( khi còn sống), hoặc theo ý muốn của một bên khi bên kia bị tồ
án tun bố là mất tích. Xuất phát từ đặc trưng quan hệ hơn nhân gia
đình là một quan hệ đặc biệt gắn liền với nhân thân của cả hai vợ
chồng, do đó chỉ có họ mới quyết định việc tồn tại hay chấm dứt quan
hệ vợ chồng mà không ai có quyền u cầu hoặc can thiệp. Luật hơn
nhân và gia đình năm 1959, 1986( Điều 40), luật HNGĐ năm
2000( khoản 1 Điều 85) cũng chỉ quy định vợ hoặc chồng mới có quyền
ly hơn. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 cũng quy định đối với việc ly
hôn, đương sự không được uỷ quyền cho người khác thay mặt mình
tham gia tố tụng ( khoản 3 Điều 73 BLTTDS 2004).
Thứ hai: Việc ly hôn do TAND giải quyết bằng việc ra quyết định cơng
nhận thuận tình ly hơn hoặc bằng bản án. Vì việc kết hơn là xác lập
quan hệ hơn nhân do cơ quan hành chính thực hiện cụ thể là Uỷ ban
nhân dân cấp xã hoặc UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương( đối với trường hợp kết hơn có yếu tố nước ngồi) nhưng ly hơn
để chấm dứt quan hệ vợ chồng thì thuộc cơ quan tư pháp, cụ thể là Toà
án nhân dân. Cho dù thực tế họ đã chấm dứt quan hệ vợ chồng, trên
thực tế họ khơng cịn chung sống với nhau nữa hoặc chính quyền địa
phương đã có quyết định khác như biên bản hồ giải đồn tụ khơng

thành của Uỷ ban nhân dân cấp xã, nhưng về mặt pháp lý, quan hệ
hơn nhân vẫn cịn tồn tại, khi chưa có quyết định hoặc bản án của Tồ
án có thẩm quyền giữa người vợ và người chồng vẫn còn ràng buộc
pháp lý về quan hệ nhân thân, quan hệ tài sản và quan hệ con cái. Chỉ
khi Toà án xem xét giải quyết và quyết định cho họ chấm dứt hay tiếp
tục tồn tại quan hệ hơn nhân đó, quyết định của Toà án là quyết định
cuối cùng. Trường hợp Tồ án xử cho ly hơn bằng một bản án hay ra
một quyết định cơng nhận thuận tình ly hơn, khi đó giữa người vợ và
người chồng khơng cịn sự ràng buộc về mặt pháp lý cả về quan hệ


nhân thân lẫn quan hệ tài sản. Quyết định của Tồ án là quyết định có
giá trị cao nhất.
1.2 Các căn cứ ly hôn theo pháp luật Việt Nam
1.2.1 Khái niệm
Căn cứ ly hơn được định nghĩa là những tình tiết( điều kiện) được quy
định trong pháp luật và chỉ khi có những tình tiết, điều kiện đó, Tồ án
mới được xử cho ly hôn. Như vậy “ căn cứ ly hôn” ở đây cần được hiểu
theo nghĩa của một thuật ngữ pháp lý, theo đó khi một đề nghị xin ly
hôn đã hội đủ các điều kiện quy định trong luật, Tồ án khơng dựa vào
bất cứ lý do nào ngoài những điều kiện ấy để bác đơn xin ly hơn của
đương sự. Chính trong ý nghĩa pháp lý của thuật ngữ này mà lý luận
pháp luật Việt Nam phân biệt “ căn cứ” ly hôn với “ động cơ” ly hơn,
hay “ mục đích” ly hơn, hai khái niệm này đồng nghĩa nhưng không
được coi là những điều kiện ly hơn quy định trong luật.
Trong xã hội có giai cấp, ly hơn cũng thể hiện tính giai cấp. Việc
quy định về ly hôn và căn cứ cho ly hơn thể hiện ý chí và quan điểm
của giai cấp thống trị xã hội.
Quan điểm của những nhà làm luật tư sản cho rằng hôn nhân
thực chất là một “khế ước” , một hợp đồng do hai bên nam nữ tự do,

tự nguyện xác lập, vậy thì chỉ được xố bỏ hơn nhân, khế ước đó trên
cơ sở lỗi của các bên. Bộ luật dân sự Pháp quy định: “ Vợ chồng có thể
xin ly hơn do những sự việc bên kia gây ra, vi phạm nghiêm trọng và
liên tục bổn phận và nghĩa vụ hôn nhân khiến cho đời sống chung
khơng thể duy trì được”(Điều 242 mục III Thiên VI). Theo đó, việc giải
quyết các hậu quả của ly hôn cũng như quyền lợi về tài sản, trách hiệm
đối với con cái, cũng dựa trên căn cứ này.
Luật hôn nhân và gia đình các nước Xã hội chủ nghĩa quy định
giải quyết ly hôn theo đúng thực chất của vấn đề, hồn tồn khơng dựa
vào lỗi của vợ chồng, trên cơ sở nhìn nhận khách quan, đánh giá đúng
thực chất của quan hệ hôn nhân thực sự tan vỡ.


Ở nước ta căn cứ ly hôn được quy định trong các văn bản pháp
luật ở từng giai đoạn khác nhau.
Trong cổ luật Việt Nam, các căn cứ ly hôn thường được biết tới
với tên gọi “ duyên cớ” ly hôn hay “ các trường hợp ly hôn”. Các
duyên cớ ly hôn trong cổ luật cũng thấm nhuần sâu sắc tư tưởng nho
giáo, nghĩa là chúng dựa trên sự bất bình đẳng giữa vợ - chồng và
nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi gia đình, gia tộc hơn là quyền lợi cá
nhân. Chính trong ý nghĩa này mà duyên cớ ly hôn trong cổ luật được
chia làm ba loại: rẫy vợ, ly hơn bắt buộc và ly hơn thuận tình.
Rẫy vợ là việc người chồng được đơn phương bỏ vợ ngồi tầm
kiểm sốt của tất cả các thiết chế xã hội. Điều 310 Bộ luật Hồng Đức
quy định, nếu người vợ phạm vào một trong các điều “ thất xuất” thì
chồng phải bỏ vợ, khơng bỏ sẽ bị tội biếm. Theo Hồng Đức Thiện chính
thư( đoạn 164) và bộ luật Gia Long (Điều 108) đã nêu rõ đó là bảy
trường hợp sau: khơng có con, dâm đãng, khơng thờ bố mẹ chồng, lắm
điều, trộm cắp, ghen tuông và bị ác tật.
Ly hôn bắt buộc là trường hợp khi việc kết hôn vi phạm các điều

kiện thiết yếu của hôn nhân thì vợ chồng bị buộc phải ly dị. Chẳng hạn
Điều 308 Bộ luật Hồng Đức quy định: “ Chồng bỏ lửng vợ 5 tháng thì
mất vợ”, Điều 108 Lệ thứ hai luật Gia Long cũng quy định : “ Nếu
người chồng mất tích hoặc bỏ trốn 3 năm khơng về thì người vợ được
trình quan xin phép cải giá và nhà vợ khơng phải hồn lại đồ sính
lễ”.Đặc biệt Điều 108 luật Gia Long quy định khi vợ chồng phạm phải
điều “nghĩa tuyệt” thì buộc phải ly hơn. “ Nghĩa tuyệt” có thể là do lỗi
của vợ ( mưu sát chồng), hoặc lỗi của chồng ( chồng bán vợ, cho thuê
vợ hay cầm vợ), nhưng cũng có thể là do lỗi của cả hai vợ chồng
( người chồng đem vợ bán cho nhân tình của vợ).
Thuận tình ly hơn là việc hai vợ chồng bất hoà tự nguyện xin ly
dị [9,55]


Căn cứ ly hơn trong pháp luật chính quyền nguỵ quyền Sài Gòn
trước 1975 ( ở Miền Nam): Luật gia đình 1959 của Ngơ Đình Diệm quy
định cấm ly hơn chỉ cho ly thân, trừ một số trường hợp phải có tổng
thống xét là tối đặc biệt mới cho ly hôn. Để biện hộ cho quy định này
Trần Lệ Xuân nêu lý do: Cấm cho ly hôn nhằm bảo vệ và củng cố gia
đình dành thời gian xoa dịu các mối bất hồ, cho đơi bạn có cơ hội
đồn tụ, làm cho thanh niên lựa chọn bạn đời thận trọng hơn.
Đến năm 1964, sau khi chính quyền bị lật đổ lúc này mới đề nghị
xét lại quy định trên. Do vậy, Bộ Dân luật 1972 của chính quyền Thiệu
đã quy định vợ chồng có thể xin ly hơn vì ba duyên cớ: và sự ngoại tình
của bên kia, bên kia bị kết án trọng hình về thượng tội, vợ chồng bị
ngược đãi không thể ăn ở được với nhau.
Căn cứ ly hôn các văn bản sau năm 1945: Sau khi nước nhà độc
lập, nhà nước ta đã ban hành sắc lệnh 97/SL ngày 22/5/1950, sắc lệnh
159/SL ngày 17/11/1950. Theo sắc lệnh 159, xố bỏ các dun cớ ly hơn
được quy định trong các bộ dân luật của thực dân phong kiến trước đó

và đề ra năm căn cứ ly hơn cho cả và chồng bao gồm: ngoại tình, một
bên can án phạt giam, một bên bị bệnh điên, hoặc một bệnh khó chữa
khỏi, vợ chồng tính tình khơng hợp hoặc đối xử với nhau đến nỗi
không thể chung sống được ( Điều 2).
Luật hơn nhân và gia đình 1959 (Điều 6), luật HNGĐ 1986 ( Điều
40), và luật HNGĐ năm 2000 ( Điều 89) đã quy định căn cứ ly hôn dựa
trên quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin, theo đó khơng quy định căn cứ
riêng biệt mà quy định thống nhất về căn cứ ly hôn dù là trường hợp
hai bên thuận tình ly hơn hay một bên vợ hoặc chồng yêu cầu: “ Tình
trạng trầm trọng, đời sống chung khơng thể kéo dài, mục đích hơn nhân
khơng đạt được thì Tồ án quyết định cho ly hơn”. Ngồi ra, còn quy
định: “ Trong trường hợp vợ hoặc chồng bị Tồ án tun bố mất tích xin
ly hơn thì Tồ án giải quyết cho ly hơn”.
1.2.2 Nội dung các căn cứ ly hôn


Khi vợ chồng hay cả hai vợ chồng có yêu cầu ly hơn, sau khi thụ
lý vụ kiện, Tồ án phải tiến hành điều tra và hoà giải, nếu hoà giải
khơng thành và xét thấy giữa vợ chồng có mâu thuẫn sâu sắc, tình cảm
u thươg khơng cịn nữa, mục đích của hơn nhân khơng đạt được, Tồ
án mới giải quyết cho ly hôn”.
Điều 89 luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định:
“ 1. Tồ án xem xét u cầu ly hơn, nếu xét thấy tình trạng trầm
trọng, đời sống chung khơng thể kéo dài, mục đích của hơn nhân khơng
đạt được thì Tồ án quyết định cho ly hôn.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tồ án tun bố
mất tích xin ly hơn thì Tồ án giải quết cho ly hơn.”
“ Tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài” ở đây
cần được hiểu là giữa vợ chồng có nhiều lục đục, mâu thuẫn sâu sắc
đến mức vợ chồng không thể chịu đựng được nhau nữa, các thành viên

trong gia đình khơng thể nào sống chung bình thường, quan hệ vợ
chồng khơng thể tồn tại được, sự tan vỡ của hôn nhân và ly tán của gia
đình là khơng thể tránh khỏi. Vì thế khơng thể hiểu đơn thuần “ tình
trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài” chỉ là biểu hiện
tình u giữa vợ chồng khơng cịn nữa. Khi nói đến tình u trong
quan hệ vợ chồng cịn hay hết là mới chỉ nói đến quan hệ tình cảm có
tính chất riêng tư của vợ chồng mà chưa thấy hết mọi mặt khác trong
đời sống vợ chồng nói riêng và đời sống gia đình nói chung. Và như
vậy, khi giải quyết việc ly hơn, Tồ án cần phải thẩm tra, xem xét lợi
ích của vợ chồng, của con cái, của gia đình và xã hội trong quan hệ hơn
nhân đó ra sao? Có nhìn nhận một cách tồn diện như vậy thì giải
quyết ly hơn chính xác mới mang lại kết quả tích cực thúc đẩy các
quan hệ hơn nhân và gia đình phát triển phù hợp với đạo đức Xã hội
chủ nghĩa, phù hợp với lợi ích chung toàn xã hội.


Mục 8 Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của
Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một
số quy định của Luật hô nhân gia đình năm 2000 đã nêu rõ:
a. Theo quy định tại khoản 1 Điều 89 thì Tồ án quyết định cho ly
hơn nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung khơng thể kéo
dài được, mục đích hơ nhân khơng đạt được.
a.1. Được coi là tình trạng của vợ chồng trầm trọng khi:
- Vợ chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau
như người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc chồng
muốn sống ra sao thì sống, đã được bà con thân thích của ho hoặc cơ
quan, tổ chức nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.
- Vợ hoặc chồng ln có hành vi ngược đãi, hành hạ nhau, như
thường xuyên đánh đập hoặc có hành vi xúc phạm khác đến danh dự,
nhân phẩm và uy tín của nhau, đã được bà con thân thích của họ hoặc

cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhắc nhở, hồ giải nhiều lần.
- Vợ chồng khơng chung thuỷ với nhau như có quan hệ ngoại
tình, đã được người vợ hoặc người chồng hoặc bà con thân thích của họ
hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhắc nhở, khuyên bảo nhưng vẫn tiếp
tục có quan hệ ngoại tình.
a.2 Để có cơ sở nhận định đời sống chung không thể kéo dài được,
thì phải căn cứ vào tình trạng hiện tại của vợ chồng đã đến mức trầm
trọng như hướng dẫn tại điểm a.1 mục 8 này. Nếu thực tế cho thấy đã
được nhắc nhở nhiều lần, nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình
hoặc vẫn tiếp tục sống ly thân, bỏ mặc nhau hoặc vẫn tiếp tục có hành vi
ngược đãi hành hạ, xúc phạm nhau, thì có căn cứ để nhận định rằng đời
sống chung của vợ chồng khơng thể kéo dài được.
a.3 Mục đích của hơn nhân khơng đạt được có nghĩa là khơng có
tình nghĩa vợ chồng; khơng bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa vợ,
chồng; khơng tơn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng;
không giúp đỡ tạo điều kiện cho nhau phát triển mọi mặt”.


Khi thực tế quan hệ vợ chồng ở trong “tình trạng trầm trọng,
đời sống chung khơng thể kéo dài” thì thường dẫn tới “ mục đích hơn
nhân khơng đạt được”. Mục đích hơn nhân dưới chế độ XHCN là
nhằm mục đích xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng , tiến bộ, hạnh
phúc và bền vững ( Điều 1 Luật HNGĐ 2000). Tờ trình về dự luật hơn
nhân gia đình 1959 của Chính phủ trước Quốc hội đã chỉ rõ: “ Mục
đích của hơn nhân trong chế độ ta là xây dựng những gia đình hạnh
phúc, dân chủ và hồ thuận, trong đó mọi người thương yêu, tương trợ,
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ và bảo đảm cho nòi giống được lành mạnh,
tương lai con cái được tốt đẹp, cho xã hội được phát triển thịnh vượng
và làm cho mọi người trong gia đình đều phấn khởi lao động, cùng nhau
cải thiện đời sống và kiến thiết tổ quốc.”Điều đó thể hiện mối liên hệ hài

hồ, gắn bó giữa mặt riêng tư và mặt xã hội trong quan hệ hôn nhân.
Nếu hạt nhân của xã hội tồn tại khơng bình thường và lành mạnh,
quan hệ vợ chồng tồn tại không có lợi cho gia đình và cho xã hội thì ly
hôn là tất yếu không tránh khỏi.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 89 Luật hơn nhân và gia đình
năm 2000: “ Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tồ án
tun bố mất tích xin ly hơn thì Tồ án giải quyết cho ly hơn”. Quy
định này đã cụ thể hố hậu quả của việc Tồ án tun bố cơng dân bị
mất tích trong Bộ luật dân sự của Nhà nước ta. Trong quan hệ hôn
nhân và gia đình việc chồng hoặc vợ bị mất tích đã ảnh hưởng sâu sắc
đến quan hệ vợ chồng và các thành viên trong gia đình. Cần phải giải
phóng cho vợ hoặc chồng thốt khỏi “ hồn cảnh đặc biệt” này, khi họ
có u cầu được ly hơn với người chồng ( vợ) đã bị Tồ án tun bố
mất tích.
Như vậy căn cứ ly hơn trong luật hơn nhân gia đình Việt Nam
năm 2000 của Nhà nước ta được quy định dựa trên quan điểm của
Chủ nghĩa Mác – Lênin có cơ sở khoa học và thực tiễn kiểm nghiệm
trong mấy chục năm qua. Từ khi Nhà nước ta ban hành Luật HNGD


năm 1959, khi giải quyết ly hôn không thể hiểu đơn thuần “ tình trạng
trầm trọng, đời sống chung khơng thể kéo dài, mục đích hơn nhân
khơng đạt được” là tình u giữa vợ chồng khơng cịn nữa mà điều đó
nói lên một thực trạng hơn nhân đã tan vỡ, quan hệ vợ chồng khơng
thể tồn tại được nữa vì “ sự tồn tại của nó chỉ là bề ngồi và giả dối” và
ly hơn là một giải pháp tích cực để giải phóng cho vợ chồng cũng như
các thành viên khác trong gia đình khỏi cảnh “bất bình thường” đó,
bảo đảm lợi ích của vợ chồng, của gia đình và xã hội.
1.3 Quyền ly hôn
Ly hôn thực chất là mặt trái của quan hệ hôn nhân. Việc ly hôn

là bất đắc dĩ khi quan hệ vợ chồng đã đổ vỡ không thể hàn gắn được.
Trước đây, do ảnh hưởng của những quan niệm cũ lạc hậu thì
việc ly hơn bị coi là hiện tượng khơng bình thường, phần nào bị xã hội
lên án và bị hạn chế nhất là đối với phụ nữ việc chủ động ly hôn là điều
khó có thể chấp nhận.
Tuy nhiên những năm gần đây cách nhìn nhận vấn đề ly hơn có
xu hướng thống hơn và ly hôn được xem như là một hiện tượng bình
thường, một quyền dân sự của cá nhân được pháp luật ghi nhận và
bảo vệ
Bộ luật dân sự 1995 ( Điều 38) và BLDS 2005 ( Điều 42) đã quy
định “ vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng có quyền u cầu Tồ án
cho chấm dứt quan hệ hơn nhân khi có lý do chính đáng”. Ly hơn là
mặt trái của quan hệ hôn nhân chỉ đặt ra khi hạnh phúc gia đình
khơng cịn tồn tại, cuộc sống chung nảy sinh nhiều mâu thuẫn, mục
đích của việc kêt hôn không đạt được. Với đặc điểm của quan hệ pháp
luật hơn nhân và gia đình, quyền kết hơn, ly hơn là quyền nhân thân
khơng thể chuyển giao, chỉ có chủ thể của quan hệ pháp luật mới có
quyền yêu cầu giải quyết. Nên cha mẹ bên vợ hoặc bên chồng hay bất
cứ người nào khác không thể yêu cầu Tồ án giải quyết việc ly hơn, mà
chỉ có vợ chồng hoặc cả hai vợ chồng mới có quyền yêu cầu ly hôn khi


có lý do chính đáng. Theo khoản 1 Điều 85 Luật hơn nhân gia đình
năm 2000 quy định: “…đối với việc ly hôn đương sự không được uỷ
quyền thay cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng”. Như vậy,
quyền u cầu Tồ án giải qutts cho ly hơn là quyền của vợ, chồng
hoặc cả hai vợ chồng. Quyền này gắn liền với nhân thân của vợ chồng,
không thể chuyển gia. Nhưng hiện nay bàn về vấn đề quyền ly hơn đã
xó một số vướng mắc giữa quy định của luật nội dung và luật hình
thức. Cụ thể là sự không phù hợp giữa luật hôn nhân và gia đình, Bộ

luật dân sự và Bộ luật tố tụng dân sự.
Thứ nhất: đó là trường hợp bố mẹ có quyền đại diện cho người
con bị tâm thần khởi kiện xin ly hơn hay khơng? Trong thời gian qua
có một vài vụ việc bố hoặc mẹ viết đơn gửi Toà án với tư cách là người
đại diện xin ly hôn thay cho người con của mình mắc bệnh tâm thần,
các Tồ án đã lúng túng trong xử lý? Có Tồ án trả lại đơn kiện, có Tồ
án thụ lý vụ án và xem xét yêu cầu mà người đại diện đưa ra. Thực tế
cũng có trường hợp trong hồ sơ đơ xin ly hôn do người bị bệnh tâm
thần đứng tên, và bố hoặc mẹ có đơn gửi Tồ án xin là người đại diện
cho con đang bị tâm thần đã mất năng lực hành vi dân sự để giải quyết
ly hôn cho con.
Đối với loại việc này nên xử như thế nào hiện cịn có nhiều quan
điểm khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Theo quy định tại khoản 1 Điều
85 Luật hơn nhân gia đình, Điều 73 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 62,
67, 139 Bộ luật dân sự thì việc xin ly hơn là một loại quan hệ nhân thân
gắn liền với mỗi chủ thể, không thể tách rời. Do đó, khơng ai có thể uỷ
quyền cho người khác thay mặt mình trước Tồ án để giải quyết việc ly
hơn; nếu người đó mất năng lực hành vi dân sự thì cũng khơng ai có
thể đại diện họ để khởi kiện xin ly hôn và đại diện cho họ trước Toà để
giải quyết quan hệ nhân thân này. Do đó, Tồ án phải trả lại đơn khởi
kiện của bố hoặc mẹ đứng đơn với tư cách là người đại diện cho người


con mất năng lực hành vi dân sự trong vụ án ly hơn, vì những người
này khơng có quyền khởi kiện để xin ly hôn hay chia tài sản chung
thay cho gười mất năng lực hành vi dân sự.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Khi người vợ hoặc người chồng
của người mất năng lực hành vi dân sự mà thiếu trách nhiệm vi phạm
nghiêm trọng nghĩa vụ vợ chồng với người đang mất năng lực hành vi

dân sự, thì bố hoặc mẹ sẽ là người giám hộ, người đại diện đương
nhiên cho con mình khởi kiện xin ly hơn, chia tài sản, con cái… Toà án
phải thụ lý giải quyết đơn của họ. Nếu Tồ án thấy khơng thể duy trì
được quan hệ vợ chồng thì Tồ án cho người vợ hoặc người chồng bị
mất năng lực hành vi dân sự ly hôn và giải quyết các quan hệ khác
kèm theo nếu người đại diện yêu cầu.
Quan điểm thứ ba cho rằng bố hoặc mẹ của người mất năng lực
hành vi dân sự khơng có quyền đại diện thay con để xin ly hơn, vì đó là
quan hệ nhân thân không được uỷ quyền, không được đại diện. Bố
hoặc mẹ của người đó chỉ có quyền đại diện cho con để khởi kiện yêu
cầu Toà án giải quyết quan hệ con cái, tài sản, yêu cầu buộc bên kia
cấp dưỡng và Toà án phải thụ lý, giải quyết quan hệ con cái, tài sản khi
bố mẹ đại diện yêu cầu.
Như vậy, để xác định bố mẹ có quyền đại diện cho người con bị
bệnh tâm thần khởi kiện xin ly hơn hay khơng thì cần phải nghiên cứu
chế định đại diện và chế định giám hộ được quy định trong Bộ luật dân
sự. Tại khoản 2 Điều 24 Luật hôn nhân gia đình quy định rõ: “ vợ
chồng đại diện cho nhau khi một bên mất năng lực hành vi dân sự mà
bên kia có đủ điều kiện làm người giám hộ”. Nhưng nếu người vợ
( hoặc chồng) mất năng lực hành vi dân sự mà người chông ( hoặc vợ)
khơng chăm sóc, khơng chung thuỷ, thậm chí cịn đánh đập hành hạ họ
và lấy tài sản chung cho người tình hoặc tẩu tán tài sản chung thì trong
trường hợp này người chồng ( hoặc vợ) không làm được vai trò là
người giám hộ, là người đại diện mà pháp luật đã trao cho họ, vậy ai có


×