Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Tài liệu Phân tích lý thuyết giá trị lao động của Sir William Petty và sự phát triển của lý thuyết này của tác giả A.Smith pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.56 KB, 8 trang )

Phân tích lý thuyết giá trị lao động của Sir William Petty và sự phát triển của lý thuyết này của tác
giả A.Smith
* Lý thuyết giá trị lao động của W. Petty
- Công lao to lớn của W.Petty là ở chỗ, ông là người đầu tiên xây dựng học thuyết về giá trị lao động. W.
Petty đã có nhận xét đúng đắn khi vạch rõ vai trò của lao động trong việc tạo ra giá trị, tức nguồn gốc thật
sự của của cải. Chỉ riêng điều này có thể nói ông là người khai sinh ra lý luận giá trị lao động.
- Khi nghiên cứu về giá trị lao động, ông dùng thuật ngữ "giá cả" và chia thành "giá cả chính trị" và "giá cả
tự nhiên". Theo ông, giá cả tự nhiên do lượng lao động hao phí để sản xuất ra hàng hóa quyết định. Như
vậy, W.Petty đã hiểu đúng giá trị - lao động với thuật ngữ "giá cả tự nhiên" và có giá cả chính trị chính là
giá cả thị trường, nó thường thay đổitheo những điều kiện chính trị, do đó khó hiểu rõ được nó.
- W.Petty cũng đã thấy được mối quan hệ giữa năng suất lao động với "giá cả tự nhiên", nó tỷ lệ nghịch
với năng suất lao động. Ông đã so sánh khối lượng lao động hao phí để sản xuất lúa mì. Nếu năng suất lao
động sản xuất ra bạc tăng lên thì giá trị của nó giảm. Ông có đề cập đến lao động giản đơn và lao động
phức tạp nhưng chưa phân tích đầy đủ.
- Tuy nhiên, ông còn chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa trọng thương khi cho rằng chỉ có lao động khai thác
bạc (tiền tệ) mới tạo ra giá trị, lao động trong các ngành khác chỉ tạo nên của cải khi so sánh với lao động
tạo ra tiền.Theo ông giá trị của hàng hóa là sự phản ánh giá trị của tiền, giống như ánh sáng Mặt trăng là
sự phản chiếu ánh sáng Mặt trời vậy. Ông còn cho rằng lao động thương nghiệp có năng suất cao hơn nông
nghiệp và ngành thương nghiệp là ngành kinh tế có lợi nhất. Đồng thời W.Petty đã đưa ra nguyên lý nỗi
tiếng "Lao động là cha và đất là mẹ của của cải". Mặc dù phát triển này tạo ra sự thừa nhận đầu tiên và sâu
sắc về hai "yếu tố nguyên thủy trong sản xuất", nhưng ít có giá trị phân tích. Chắc chắn nó không tạo ra
thuyết giá trị. Quan trọng hơn là nguyên cứu của W.Petty nhắm vào việc phát hiện "sự ngang hàng tự
nhiên" giữa đất đai và lao động với nhau bằng việc xác định cần phải có bao nhiêu đất để sản xuất "lương
thực cho một người trong một ngày", xem giá trị của sản lượng như thế ngang bằng với giá trị lao động
trong một ngày. Mục đích trong nỗ lực của W.Petty là phải hình thành một đơn vị đánh giá qua đó nhằm
giảm bớt số lượng giá trị của hai yếu tố, đất đai và lao động, với số lượng đồng nhất của "sức sản xuất" sau
đó dùng những tiêu chuẩn giá trị tuyệt đối, nỗ lực này cũng chứng tỏ là ngõ cụt phân tích, nhưng tạo cảm
hứng cho Cantillon tiến hành những nghiên cứutheo cùng hướng.
• Sự phát triển Lý thuyết giá trị lao động của A.Smith
- A.Smith phân tích giá trị bắt đầu từ việc phân tích giá cả biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa. Vì theo
ông thì trao đổi là dấu hiệu quan trọng nhất nói lên tính chất của sản xuất, xã hội là một khối liên hiệp của


sản xuất và trao đổi sản phẩm.
- Khi nói về bản chất của trao đổi, A.Smith đã phê phán chủ nghĩa trọng thương đã đánh giá quá cao vai
trò của tiền, ông khẳng định tiền là phương tiện kỹ thuật trao đổi, làm cho trao đổi thuận tiện. Như vậy
A.Smith đã coi tiền chỉ là vật môi giới giản đơn thôi.
- Để chống lại những người trọng thương, A.Smith tìm cách làm giảm tác dụng của tiền đúc. Ông đã phân
tích sự thay thế tiền đúc bằng tiền giấy. Ông tán dương tiền giấy, cho rằng tiền giấy không kém phần tiện
lợi so với tiền vàng, song ông cũng chống lại việc giảm giá tiền đúc. Ở đây A.Smith đã rơi vào mâu thuẫn:
muốn làm giảm vai trò của tiền đúc nhưng lại lo tiền đúc bị mất giá. Cần chú ý rằng lúc này chưa có lạm
phát tiền giấy nên A.Smith đã ca ngợi tiền giấy.
- A.Smith cũng chống lại thuyết số lượng tiền tệ. Khi giải thích về số lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông,
ông cho rằng: "không phải số lượng tiền tệ quyết định giá cả mà chính giá cả quyết định số lượng tiền tệ"
- Đây là nhân tố hợp lý, khoa học trong lý luận về tiền của A.Smith.
- Từ phân tích tiền tệ - hình thức biểu hiện giá trị của hàng hóa, A.Smith chuyển sang phân tích về giá trị.
A.Smith co công lớn khi phân biệt đuợc giá trị sử dụng và giá trị trao đổi. Ông khẳng định giá trị sử dụng
không quyết định giá trị trao đổi. A.Smith đã kịch liệt phê phán lý luận về ích lợi, một trường phái phổ
biến rộng rãi ở thế kỷ XVIII, ông khẳng định ích lợi không có liên hệ gì tới giá trị trao đổi, A.Smith đã nói
rằng, không khí chẳng có chút giá trị gì, mặc dù nó rất có ích.
- A.Smith có hai định nghĩa về giá trị hàng hóa:
+ Thứ nhất, giá trị do lao động trong tất cả các ngành sản xuất vật chất tạo ra và nó được được đo bằng chi
phí lao động. Ở đây, ông có đề cập đến lao động giản đơn và và lao động phức tạp. Ông khẳng định rằng
trong một đơn vị thời gian, lao động có chuyên môn tạo ra một giá trị lớn hơn lao động giản đơn. Với định
nghĩa này ông được xem là cha đẻ của lý luận giá trị lao động.
+ Thứ hai, giá trị được quyết định bởi số lượng lao động có thể mua được hàng hoá này. Theo A.Smith,
định nghĩa này không mâu thuẫn với định nghĩa trên.
Nguyên tắc của trao đổi hàng hóa là ngang giá: Hai hàng hóa đựơc trao đổi ngang bằng nhau vì số lao
động đã chi phí để sản xuất ra chúng là ngang nhau. Người sản xấut hàng hóa này mua hàng hóa khác,
nghĩa là, lao động hao phí của anh ta đã ngang bằng với hao phí lao động của ngừơi bán. Ông cho rằng,
trong xã hội trước chủ nghĩa tư bản thì toàn bộ giá trị do người lao động tiêu dùng hết. Nó bằng tiền lương
của người lao động. Nhự vậy, giá trị do lao động tạo ra chỉ đúng trong nền kinh tế hàng hóa giản đơn.
A.Smith cho rằng, trong chủ nghĩa tư bản, quy luật giá trị đã bị vi phạm, nguyên tắc ngang giá đã không

được tuân thủ giữa người công nhân và nhà tư bản . Ông thấy rằng nhà tư bản chỉ trả cho người công nhân
một phần giá trị, phần khác của giá trị được nhà tư bản giữ lại với tư cách là lợi nhuận. Từ đó, ông cho
rằng, trong chủ nghĩa tư bản, giá trị đuợc quyết định bởi thu nhập, nó bao gồm tiền lương, lợi nhuận và địa
tô. "Tiền lương, lợi nhuận, địa tô là ba nguồn gốc đầu tiên của mọi thu nhập cũng như là của bất kỳ giá trị
trao đổi nào". Đây là giáo điều của A.Smith đã lẫn lộn giữa sự hình thành giá trị và phân phối giá trị. Ông
đã xem thường yếu tố tư liệu sản xuất trong việc hình thành giá trị (chỉ có V + M mà thiếu C). Ông đã biến
các bộ phận thu nhập từ giá trị nguồn gốc của giá trị. Như vậy, ông đã xa rời lý luận giá trị - lao động.
Tóm lại, A.Smith có nhiều cống hiến đối với lý luận về giá trị-lao động. Nhưng trong phân tích đã có
những mâu thuẫn do tính hai mặt của ông, trong lý luận giá trị lao động còn những vấn đề mâu thuẫn.
2. Phân tích lý thuyết tiền lương của W.Petty và quan điểm trả lương của A.Smith và Ricardo
• Lý thuyết tiền lương của W.Petty
- Dựa trên lý luận giá trị - lao động W.Petty phân tích lý luận tiền lương. Ông coi tiền lương là một hiện
tượng hợp quy luật, bởi vì đây là một hiện tượng kinh tế mới xuất hiện trong thời kỳ này, mà trong thời đại
phong kiến không hề có.
- Về bản chất của tiền lương, ông đã nắm đuợc mối quan hệ giữa công của người với giá trị những tiêu
dùng của họ. Tiền lương là khoản sinh họat tối thiểu cần thiết cho công nhân và không vượt quá mức này.
Ông phản đối việc trả lương cao, nếu lương cao người công nhân không muốn làm việc mà chỉ thích uống
rượu. Điều này là hợp lý trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản chưa phát triển, năng suất lao động còn thấp,
chỉ có hạ thấp tiền lương của công nhân xuống mức tối thiểu cần thiết mới đảm bảo lợi nhuận cho nhà tư
bản. Như vậy, Petty là người đầu tiên đề cập đến "quy luật sắt và tiền lương" .
- Petty thấy đuợc mối quan hệ giữa tiền lương và lợi nhuận. Đây là một quan hệ nghịch, một khi tiền lương
tăng thì lợi nhuận giảm. Như vậy, ông đã thấy đuợc tính mâu thuẫn và đối lập giữa lợi ích của người công
nhân và nhà tư bản. Theo ông, việc tăng lương trực tiếp gây thiệt hại cho xã hội, tức là thiệt hại cho các
nhà tư bản. Thực sự thì tiền lương là một phần của giá trị thặng dư do chủ sở hữu chiếm lấy.
Nhìn chung, lý luận tiền lương của W.Petty còn rời rạc nhưng dù sao ông cũng đã đưa ra đuợc một số
nguyên lý đúng đắn về tiền lương.
• Quan điểm trả lương của A.Smith và Ricardo
A.Smith cho rằng, tiền lương là thu nhập của bất kỳ người lao động nào. Nó là sự bồi hoàn nhờ công lao
động. Trong xã hội tư bản tiền lương là thu nhập của giai cấp công nhân làm thuê. Như vậy, tiền lương là
thu nhập có lao động, nó gắn liền với lao động. Theo ông, trong sản xuất hàng hóa giản đơn cũng có tiền

lương, nó bằng toàn bộ sản phẩm của lao động. Còn trong chủ nghĩa tư bản, tiền lương cần phải đủ để đảm
bảo người công nhân mua phương tiện sống, tồn tại và phải cao hơn mức đó. Ông cho rằng tiền lương
không thể thấp hơn chi phí tối thiểu cho cuộc sống của công nhân. Nếu quá thấp họ sẽ không làm việc và
bỏ ra nước ngoài. Tiền lương cao sẽ kích thích tiến bộ kinh tế bởi vì nó làm tăng năng suất lao động. Ông
thấy được các nhân tố tác động tiền lương. Đó là điều kiện kinh tế - xã hội, truyền thống văn hóa, thói
quen tiêu dùng; quan hệ cung cầu trên thị trường lao động; tương quan lực lượng giữa nhà tư bản và công
nhân trong cuộc đấu tranh của công nhân đòi tăng lương.Ông nói rằng công nhân ít được đảm bảo, họ gặp
khó khăn trong việc duy trì thời gian bãi công, còn các nhà tư bản lại dễ dàng cấu kết với nhau, luật pháp
của nhà nhà nước thì lại dễ dàng cấu kết với nhau, luật pháp của nhà nước thì lại bênh vực cho nhà tư bản.
A.Smith còn tuyên bố rằng lương cao là điều hay, ông không đồng ý với một số nhà kinh tế cho rằng
lương cao là sự kích thích đối với người lao động. Ông nói rằng bao giờ người ta cũng thấy thợ thuyền
đuợc trả công cao, lanh lẹ hơn là công xá thấ
Để xác định đuợc mức tiền lươngA.Smith đã tính đến những đặc điểm cụ thể về lao động của con người.
Theo ông chỉ trong những ngành khó khăn thì cần phải trả lương cao, A.Smith còn nói tới mối quan hệ
giữa tăng tiền lương và tăng cung về lao động, tăng sự cạnh tranh giữa công nhân.
- A.Smith phân biệt 3 loại quốc gia: loại quốc gia thứ nhất, tiền lương tăng lên cùng với việc tăng thêm tư
bản - đó là loại quốc gia tiến bộ; lọai quốc gia thứ hai tiền lương không thay đổi vì số tư bản không đổi;
lọai quốc gia thứ ba tiền lương sụt xuống thấp hơn mức tối thiểu. Như vậy là mức tiền lương phụ thuộc
vào mức tăng của cải đất nước, nhà tư bản càng tích lũy thì công nhân càng có lợi. A.Smith cho rằng qui
mô của tư bản giữ vai trò quyết định trong việc quy định tiền lương. Đó là những kết luận tương đối khách
quan trong thời kỳ công trường thủ công. Vì lúc đó tích lũy tăng thì nhu cầu về lao động sẽ tăng lên.
Tuy nhiên, Smith không hiểu được bản chất của tiền lương. Ông chỉ thấy đuợc sự khác nhau về số lượng
giữa tiền lương trong sản xuất hàng hóa giản đơn và trong chủ động bởi vì ông không hiểu phạm trù sức
lao động. Đây là một hạn chế lớn củaSmith khi phân tích tiền lương.
• Quan điểm trả lương của Ricardo
Ông coi lao động cũng như các hàng hóa khác có giá cả thị trường và giá cả tự nhiên. Giá cả thị trường của
lao động là tiền lương, nó lên xuống chung quanh giá cả tự nhiên của lao động. Giá cả tự nhiên của lao
động bằng với giá trị tư liệu sinh họat cần thiết cho cuộc sống của người công nhân và gia đình anh ta. Nó
phụ thuộc vào điều kiện lịch sử, trình độ phát triển, thuyền thống và hình thức tiêu dùng của mỗi dân tộc.
Ricardo ủng hộ "quy luật sắt về tiền lương", tiền lương phải ở mức tối thiểu và không được cao hơn mức

đó. Ông cho rằng, người công nhân không nên than phiền về tiền lương thấp vì đây là quy luật tự nhiên.
Ông giải thích sự xung đột của tiền lương là phụ thuộc vào độ màu mỡ của tự nhiên và sự tăng dân số.
Ông chống lại sự can thiệp của nhà nước vào thị trường lao động và không nên giúp đỡ người nghèo, vì
vậy sẽ vi phạm quy luật tự nhiên.
Như vậy, lý luận tiền lương của Ricardo có những tiến bộ nhất định tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế. Thứ
nhất. Ricardo coi lao động là hàng hóa nên chưa hiểu đuợc bản chất của tiền lương tư bản chủ nghĩa; thứ
hai, khi nói về giá cả những tư liệu sinh họat tối thiểu ông chỉ đề cập đến nhu cầu tối thiểu về mặt sinh lý.
Do đó, ông không thể giải thích được sự giảm sút của tiền lương một cách có hệ thống; thứ ba, vì cho rằng
sự tăng dân số tự nhiên là nhân tố điều tiết tiền lương, nên ông không hiểu được tiền lương phụ thuộc vào
số công nhân có việc làm và số công nhân bị thất nghiệp.
3. Phân tích lý thuyết giá cả của A. Marshall và cho biết ý nghĩa của việc nghiên cứu lý thuyết này
Trung tâm nghiên cứu của Marshall là thị trường và cơ chế hình thành giá cả thị trường. Thị trường là tổng
thể những người có quan hệ mua bán hay là nơi gặp gỡ của cung và cầu. Khi nghiên cứu cô chế thị trừơng,
Marshall cho rằng một mặt trong điều kiện cạnh tranh hoàn toàn thì cung cầu phụ thuộc vào giá cả. Mặt
khác cơ chế thị trường tác động làm cho giá cả phù hợp với cung và cầu, nghĩa là giá cả được quyết định
bởi cung, cầu.
Ông đề ra khái niệm "giá cung" và "giá cầu". Giá cung là giá cả mà ngừơi SX có thể tiếp tục sản xuất ở
mức đương thời. Giá cung đuợc quyết định bởi chi phí sản xuất. Chi phí sản xuất bao gồm chi phí ban đầu
và chi phí tăng thêm. Chi phí ban đầu là chi phí mà doanh nghiệp phải chịu bất kể có hay không có sản
lượng. Chi phí tăng thêm bao gồm chi phí về nguyên liệu, tiền lương công nhân, nó tăng khi gia tăng sản
lựơng.
Giá cầu là mức giá mà người mua có thể mua số lượng hàng hóa hiện tại. Giá cầu vận động theo nguyên lý
ích lợi cận biên. Nghĩa là giá cầu sẻ giảm dần khi số lựơng hàng hóa tăng lên khi các nhân tố khác không
đổi.
Khi giá cung và giá cầu gặp nhau thì hình thành nên giá cả cân bằng và số lượng tại mức giá đó gọi là số
lượng cân bằng. "Khi giá cung và giá cầu bằng nhau, thì sẽ chấm dứt cả khuynh hứơng tăng lẫn khuynh
hướng giảm lựơng hàng hóa sản xuất, thế cân bằng đuợc thiết lập"
Marshall cho rằng yếu tố thời gian có ành hưởng quan trọng đến cung, cầu và giá cả cân bằng. Trong giời
gian ngắn thì cầu có tác động đến giá cả còn trong thời gian dài thì chi phí sản xuất tác độngquan trọng đến
giá cả.

Ngoài ra theo Marshall sự động quyền cũng có tác động đến giá cả. để có lợi nhuận cao, các nhà độc
quyền thừơng giảm sản lượng để nâng giá bán. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là độc quyền quyết định
đuợc tất cả bởi vì trên thị trường còn chịu sự tác động của sự co dãn của cầu.
Marshall đưa ra khái niệm "sự co dãn giá cả của cầu". Khái niệm này diễn tả sự tác động của mức giá cả
đối với cầu. Khi giá cả hàng hoá thay đổi thì cầu của hàng hóa cũng thay đổi họăc rất mạnh, hoặc rất nhẹ,
họăc thay đổi một cách bình thừơng.
Để đo độ co dãn của cầu, Marshall dùng công thức "sự co dãn giá cả của cầu". Theo ông đó là tỉ lệ phần
trăm của sự thay đổi số lượng tiêu thụ chia cho tỷ lệ phần trăm của sự thay đổi giá cả.
Biểu diễn bằng đại số định nghĩa trên như sau:
Ed=
Trong đó:
Ed: hệ số co dãn của cầu đối với giá cả
%DQ: phần trăm thay đổi trong số lựơng cầu
%DP: phần trăm thay đổi trong giá cả hàng hóa
Hệ số co dãn đánh giá sự thay đổi củ số lựơng cầu đối với mỗi phần trăm thay đổi của giá, nó thay đổi từ 0
đến vô cực, thông thường nó có các dạng sau đây:
- Khi mỗi phần trăm thay đổi của giá thì phù hợp với nó là 1 phần trăm thay đổi của cầu (Ed=1)
- Khi số cầu thay đổi nhỏ hơn mức độ thay đổi của giá (Ed <1)
- Khi số cầu thay đổi lớn hơn mức độ thay đổi của giá (Ed >1)
- Khi số lượng cầu không thay đổi trong bất cứ sự thay đổi của giá (Ed=0)
- Khi số lượng cầu thay đổi hoàn tòan khi giá cả không thay đổi (Ed=¥)
Theo Marshall sự co dãn giá cả của cầu còn phụ thuộc vào các nhân tố: Giá cả các hàng hóa khác có liên
quan, sức mua và nhu cầu của dân cư.
Tóm lại, lý thuyết giá cả của Marshall là cơ sở lý luận của kinh tế học vi mô hiện đại trong phân tích thị
trường, cung, cầu và giá cả.
Ý nghĩa của việc phân tích lý thuyết giá cả: Với tính phê phán và đứng trên cơ sở lý luận giá trị-lao động
của chủ nghĩa Mác thì có thể nhận xét lý thuyết giá cả củaMarshall như sau: Trong thời gian ngắn thì t1nh
lợi ích cận biên quyết định giá trị, điều này lại mắc phải sai lấm mà thuếyt ít lợi đã gặp phải. Còn trong
thời gian dài chi phí sản xuất quyết định giá cả thì không giải thích được trong giá cả đó bao gồm cả lợi
nhuận của nhà tư bản chứ không chỉ có chi phí sản xuất. Nhà tư bản không thể bán hàng hóa với giá bằng

chi phí sản xuất được. Nếu cho rắngquan hệ cung cầu quyết định giá cả thì cũng không có căn cứ vững
chắc vì giá cả thay đổi cũng tác động làm cung cầu thay đổi. Điều này thể hiện sự lẫn quẩn trong lý luận
của Marshall : Cung, cầu quyết định giá cả, sau đó giá cả lại quyết định cung, cầu. Thực ra quan hệ cung ,
cầu về một hàng háo nào đó trên thị trường chỉ làm cho gaa1 cả lao động xung quanh giá trị chứ không tạo
ra giá trị (giá trị chỉ đuợc tạo ra trong quá trình sản xuất chứ không phải trong trao đổi).
4. Phân tích lý luận chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ của J.M.Keynes (chủ yếu mô hình số nhân
và vai trò của Nhà nước :
Nội dung của lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ của J.M.Keynes bao gồm nhiều lý thuyết:
• Lý thuyết "khuynh hướng tiêu dùng cận biên": Trong lý thuyết của mình, Keynes chia thu nhập làm 2
phần: phần co tiêu dùng và phần tiết kiệm. Từ đó, sẽ có hao khuynh hướng xảy ra đối với việc sử dụng thu
nhập: Khuynh hướng tiêu dùng và khuynh hướng tiết iệm. khuynh hứơng tiêu dùng là mốiquan hệ giữa thu
nhập và phần chi tiêu cho tiêu dùng còn khuynh hướng tiết kiệm là mối quan hệ giữa thu nhập và phần tiết
kiệm.
• Tiêu dùng và tiết kiệm phụ thuộc vào các nhân tố: Thu nhập; những nhân tố khách quan ttác động đến
thu nhập: tiền công danh nghĩa, lãi suất, thuế khóa.....; những nhân tố chủ quan, những khuynh hứơng tâm
lý.
• Những khuynh hướng kích thích tiêu dùng: xa hoa, hào phóng, thiển cận, phô trương....Trong đó có
những khuynh hướng tâm lý tác động đến sự tiết kiệm: thận trọng, nhìn xa, tính toán, hà tiện.....Ngoài ra
còn có các động lực ảnh hướng đến tiết kiệm xã hội: Động lực kinh doanh, tiền mặt, cải tiến, thận trọng về
tài chính.
Khuynh hướng tiêu dùng cận biên(MPC) là mối quan hệ giữa sự gia tăng tiêu dùng với sự gai tăng thu
nhập. MPC=
Khuynh hướng tiết kiệm cận biên là mối quan hệ giữa gia tăng tiết kiệm so với sự gia tăng thu nhập
(MPS). VD: với một đồng thu nhập tăng thêm dành 0.8 đồng cho tiêu dùng thêm và 0.2 đồng cho tiết kiệm
thêm thì ta có MPC = 0.8 còn MPS = 0.2.
Theo Keynes, quy luật tâm lý cơ bản của con người là cùng với sự gia tăng của thu nhập, khuynh hướng
tiết kiệm cận biên sẽ ngày càng tăng, đồng thời khuynh hướng tiêu dùng cận biên sẽ giảm tương đối so với
sự gia tăng của khuynh hướng tiết kiệm cận biên. Đó là nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế và thất
nghiệp.
* Lý thuyết "số nhân đầu tư"

Gắn liền với lý thuyết khuynh hướng tiê dùng cận biên là lý thuyết số nhân đầu tư.
Số nhân đầu tư thể hiện mối quan hệ giữa gia tăng đầu tư với gia tăng thu nhập. Nó chỉ rõ sự gia tăng đầu
tư sẽ kéo theo sự gia tăng thu nhập lên bao nhiêu. "Nó cho chúng ta biết rằng khi có một lượng thêm về
đầu tư tổng hợp thì thu nhập sẽ tăng thêm một lượng bằng k lần mức gia tăng đầu tư"
Ta có: k=
Từ đó ta có thay đổi về thu nhập = số nhân x thay đổi đầu tư
Xác định trị số k như sau: theo Keynes thu nhập được chia thành tiêu dùng và tiết kiệm, đồng thời thu
nhập cũng có thể chia thành tiêu dùng và đầu tư
. Như vậy:
Thu nhập = tiêu dùng + tiết kiệm
Y= C + S
Thu nhập = tiêu dùng + Đầu tư
Y= C + I
Từ đó: Tiết kiệm = đầu tư
S = I
Nếu xét dưới phương diện cận biên thì :
Suy ra:
Nên: k===
Như vậy trị số k sẽ là: k=hay =
Qua sự phân tích trên ta thấy khuynh hướng tiêu dùng cận biên có vai trò quan trọng trong số nhân và đến
lượt mình số nhân làm khuyếch đại thu nhập khi có sự gia tăng đầu tư. Khuynh hướng tiêu dùng cận biên
càng tăng thì số nhân đầu tư càng lớn, do đó độ khuyếch đại của gia tăng đầu tư đối với thu nhập, sản
lượng và công ăn việc làm ngày càng lớn và ngược lại, khuynh hướng tiết kiệm cận biên càng tăng thì sự
rò rĩ trong chi tiêu càng lớn nên số nhân càng nhỏ, do đó, độ khuyếch đại thu nhập, sản lượng công ăn việc
làm của gia tăng đầu tư càng nhỏ.
Theo Keynes, mỗi sự gia tăng của đầu tư đều kéo theo cầu bổ sung về công nhân và tư liệu sản xuất, có
nghĩa là việc làm gia tăng, thu nhập gia tăng. Thu nhập tăng sẽ là tiền đề cho tăng đầu tư mới. Như vậy, số
nhân có tác động dây chuyền, nó khuyếch đại thu nhập lên.
Ở đây cần chú ý là Keynes sử dụng khái niệm số nhân để chứng minh những hậu quả tích cực của một
chính sách đầu tư của nhà nước vào các công trình công cộng để giải quyết việc làm. Ví dụ nếu nhà nước

đầu tư 2 tỷ xây dựng một cảng biển. Giả sử khuynh hướng tiêu dùng cận biên trong xã hội là 0,75 thì số
nhân là k=1/1-0.75=4. Lúc này thu nhập trong xã hội sẽ khuyếch đại lên 8 tỷ( tỷ).
* Lý thuyết lãi suất
Lãi suất có ý nghĩa rất lớn đối với đầu tư, do đó tác động đến công ăn việc làm và thu nhập trong xã hội.
Về bản chất, Keynes cho rằng lãi suất là số tiền trả cho vi6ẹc không sử dụng tiền mặt trong 1 khoảng thời
gian nhất định. Có 2 nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất
+ Thứ nhất, khối lượng tiền tệ đưa vào lưu thông. Nếu khối lựơng tiền tệ đưa vào lưu thông càng tăng thì
lãi suất càng giảm và ngược lại. Đây là một công cụquan trọng để đưa ra chính sách điều chỉnh kinh tế của
Nhà nước. Để kích thích đầu tư cần hạ lãi suất, muốn ạh lãi suất thì phải tăng số lượng tiền trong lưu
thông. Thực ra, Keynes phân tích thị trường tiền tệ ở đó lãi suất là giá cả. Khi cung tiền tệ gặp cầu tiền tệ
thì hình thành nên lãi suất thị trường. Cung tiền tệ phụ thuộc vào chính sách cung tiền của ngân hàng

×