Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

KHẢO sát, THỐNG kê, PHÂN LOẠI NGUỒN gốc của BIỂU TƯỢNG SÓNG đôi TRONG CA DAO GIAO DUYÊN xứ NGHỆ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.94 KB, 57 trang )

CHƯƠNG 1: KHẢO SÁT, THỐNG KÊ, PHÂN LOẠI. NGUỒN GỐC CỦA
BIỂU TƯỢNG SĨNG ĐƠI TRONG CA DAO GIAO DUN XỨ NGHỆ
1.1. Ca dao và ca dao giao duyên xứ Nghệ
1.1.1. Ca dao
Khái niệm ca dao được nhiều tác giả bàn đến trong nhiều cơng trình
nghiên cứu khoa học. Song cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất trong quan
niệm. Trước đây, " người ta gọi ca dao là phong dao, vì có những bài ca dao
phản ánh phong tục của mỗi địa phương, mỗi thời đại" [ 27, Tr 40].
Nhưng dần dần, cách gọi này ít được sử dụng, nhường chỗ cho từ ca dao:
"Ca dao vốn là một thuật ngữ Hán Việt. Theo cách hiểu thơng thường thì
ca dao là lời của các bài hát dân ca đã tước bỏ đi những tiếng đệm, tiếng láy…
hoặc ngược lại, là những câu thơ có thể" bẻ " thành những làn điệu dân ca"
[ 19, Tr 436].
Như vậy, giữa ca dao và dân ca khơng có ranh giới rõ rệt. Sự phân biệt
giữa ca dao và dân ca chỉ là chỗ khi nói đến ca dao, người ta thường nghĩ đến
những lời thơ dân gian; cịn khi nói đến dân ca người ta nghĩ đến cả làn điệu,
những thể thức hát nhất định.
Theo tác giả Vũ Ngọc Phan, "Ca dao là một loại thơ dân gian có thể
ngâm được như các loại thơ khác và có thể xây dựng thành các điệu ca" [ 27, Tr
40]. Định nghĩa này xem ca dao là một thuật ngữ, chỉ một thể thơ dân gian. Ông
cho rằng, nếu xét về nguồn gốc phát sinh thì dân ca khác với ca dao ở chỗ nó
được hát lên trong những hồn cảnh nhất định, trong những nghề nhất định hay
ở những địa phương nhất định. Dân ca thường mang tính chất địa phương,
khơng như ca dao là những bài ít có địa phương tính, dù nội dung ca dao có nói
về một địa phương nào thì cũng vẫn được phổ biến rộng rãi.
Trong khi đó, tác giả Nguyễn Xuân Kính lại cho rằng: Ca dao được hình
thành từ dân ca. Khi nói đến dân ca, người ta thường nghĩ đến cả làn điệu với
những thể thức hát nhất định. Như vậy khơng có nghĩa là toàn bộ hệ thống
những câu hát của một loại dân ca nào đó (như hát trống quân, hát quan họ, hát

1




ghẹo, hát phường vải,…) cứ tước bớt tiếng đệm, tiếng láy, tiếng đưa hơi,… thì
sẽ đều là ca dao. Từ cách lập luận đó ơng đi đến định nghĩa:
"Ca dao là những sáng tác văn chương được phổ biến rộng rãi, được lưu
truyền qua nhiều thế hệ, mang những đặc điểm nhất định và bền vững về phong
cách" [ 20, Tr 79].
Tuy có nhiều cách hiểu và mỗi cách hiểu là một cách tiếp cận khác nhau,
nhưng ở đây chúng tôi không bàn về khái niệm ca dao mà chỉ điểm qua các ý
kiến để đi đến thống nhất theo một quan niệm nhất định, làm cơ sở nghiên cứu.
Theo đó, chúng tơi áp dụng định nghĩa của nhóm tác giả Lê Bá Hán- Trần Đình
Sử- Nguyễn Khắc Phi: "Ca dao là danh từ ghép chỉ toàn bộ những bài hát lưu
hành phổ biến trong dân gian có hoặc khơng có khúc điệu" [ 15, Tr 31].
1.1.2. Ca dao giao duyên xứ nghệ
Văn học dân gian xứ Nghệ có nhiều thể loại khác nhau, mỗi thể loại lại
mang những đặc trưng riêng làm cho vườn hoa văn học thêm phong phú, tỏa
ngát hương thơm. Tuy nhiên, không phải thể loại nào cũng phát triển như nhau
mà ở Nghệ Tĩnh có một số thể loại văn học dân gian phát triển mạnh, đặc biệt là
thơ ca dân gian như hát ví, hát giặm… Điều này cũng dễ hiểu, bởi:
" Người xứ Nghệ thích thơ ca, thích nhạc dân gian, có thể nói cịn hơn cả
thích kể chuyện. Cho nên thơ ca, nhạc dân gian Nghệ Tĩnh có thể ví như một
dịng sơng bắt nguồn từ những mạch sâu kín qua nhiều thời đại, mang theo tâm
tư, tình cảm, ước mơ con người Việt Nam trên mảnh đất này. Nó khơng ngừng
tỏa khí mát bồi bổ mạch hào hứng cho quân chúng cần lao ở các địa phương.
Nó cũng khơng ngừng đem nước và mầu mỡ đến tưới tắm cho nền thơ ca nhạc
dân tộc. Chính nguồn thơ ca nhạc dân gian này đã sản sinh khơng ngớt những
nghệ sĩ bình dân nổi tiếng được nhân dân từng vùng, từng thời ca ngợi; đã góp
phần bồi dưỡng nhiều tài năng lỗi lạc của dân tộc" [ 10, Tr 252].
Giống với một số địa phương khác, Nghệ Tĩnh có kho tàng ca dao riêng
của mình. " Ca dao xứ Nghệ " là cách nói để chỉ những bài ca dao sưu tầm ở xứ

Nghệ( bao gồm cả nghệ An và Hà Tĩnh), kể cả những câu ca dao phổ biến trong
nước mà người Nghệ vẫn quen sử dụng. Có thể nói, kho tàng ca dao xứ Nghệ có
2


rất nhiều bài ca dao cổ, nhiều bài ca dao của những vùng khác nhau do nhiều
đời, nhiều nguồn để lại. Những bài ca dao như thế đã được thời gian sàng lọc,
gọt giũa cho phù hợp với cái" gu" của người Nghệ, mang hơi thở của con người
trên mảnh đất Hồng Lam này.
Về hình thức, ca dao xứ Nghệ cũng không khác mấy so với ca dao của cả
nước. Nó cũng sử dụng các thể lục bát, lục bát biến thể, trường đoản cú và rất ít
thể song thất lục bát… Có khác chăng là nó có sử dụng phần nào lối hát ví, hát
giặm, ít thấy ở ca dao nhiều nơi khác. Ca dao xứ Nghệ, vừa mang phong cách
địa phương độc đáo, vừa tình tứ, sâu lắng, thấm đẫm tâm hồn dân tộc: " Cái tinh
thần chung của ca dao xứ Nghệ là ham sống, vui vẻ tranh đấu, lạc quan, tin
tưởng vào sức lực của chình mình, tin tưởng vào thiên nhiên, tin tưởng vào
tương lai và rất tế nhị, mượt mà, dồi dào tình cảm" [ 14, Tr 14].
Nó khơng những thể hiện bản sắc của nhân dân trong vùng, mà kỳ diệu
thay, nó đã thầm lặng giúp đỡ bao nhiêu nhà thơ cổ điển ở xứ Nghệ xây dựng
nên những tác phẩm bất hủ, làm sáng rực lâu đài văn học dân tộc như Nguyễn
Du với Truyện Kiều, Nguyễn Huy Tự với truyện Hoa Tiên, Hồ Xuân Hương với
bao bài thơ độc đáo, táo bạo, Nguyễn Cơng Trứ với những vần thơ hào phóng,
lưu lốt bằng thể hát nó và bao nhà thơ nhà văn khác nữa ở thời kì cận- hiện đại.
Ca dao xứ Nghệ bao gồm nhiều mảng đề tài khác nhau. Đó là những bài
ca dao về đặc điểm địa phương, về lao động sản xuất, về thói hư tật xấu hay
những hủ tục của xã hội phong kiến và một mảng quan trọng, khơng thể thiếu là
ca dao giao dun.
Tình yêu là thứ đạt đến độ cao nhất, sâu sắc và thiêng liêng nhất của cảm
xúc. Chẳng thế mà dù ở miền nào thì ca dao tình yêu cũng chiếm tỉ lệ lớn nhất.
Trong kho tàng ca dao xứ Nghệ có 1894 bài ca dao giao duyên, chiếm 45% [16,

Tr 17 ]. Bộ phận ca dao giao duyên là tiếng nói từ trái tim của nam nữ thanh
niên xứ Nghệ- những người đang rạo rực, say đắm trong tình yêu. Toàn bộ ca
dao giao duyên xứ Nghệ giống như một vở kịch thơ dài với trăm hồi ngàn cảnh
khác nhau, góp phần làm phong phú thêm kho tàng ca dao Nghệ và giúp ta hiểu
sâu hơn về cuộc sống cũng như tâm hồn con người nơi đây.
3


1.2. Biểu tượng và biểu tượng sóng đơi trong ca dao giao duyên xứ
Nghệ
1.2.1. Biểu tượng và biểu tượng sóng đôi
Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học [ 15 ], khái niệm biểu tượng được
giới thuyết như sau:
" Trong triết học và tâm lí học, biểu tượng là khái niệm chỉ một giai đoạn,
một hình thức nhận thức cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật cịn giữ
lại trong đầu óc sau khi tác động của sự vật vào giác quan ta chấm dứt.
Biểu tượng như là thuật ngữ của mĩ học, lí luận văn học và ngơn ngữ học
cịn được gọi là tượng trưng, nó có nghĩa rộng và nghĩa hẹp... Bằng hình tượng,
nghệ thuật sáng tạo ra một thế giới hồn tồn mang tính biểu tượng. Cho nên,
trong nghĩa rộng, biểu tượng là đặc trưng phản ánh cuộc sống bằng hình tượng
của văn học nghệ thuật. Theo nghĩa hẹp, biểu tượng là một phương thức chuyển
nghĩa của lời nói hoặc một loại hình tượng nghệ thuật đặc biệt có khả năng
truyền cảm lớn, vừa khái quát được bản chất của một hiện tượng nào đấy, vừa
thể hiện một quan niệm, một tư tưởng hay một triết lí sâu xa về con người và
cuộc đời"...[ 15, Tr 23+ 24].
Hay trong Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao truyền thống người Việt,
Nguyễn Thị Ngọc Điệp đã đưa ra cách hiểu như sau về biểu tượng: " Biểu tượng
là dạng thức dùng một hình ảnh cụ thể để nói lên một ý niệm trừu tượng. Đặc
điểm nổi bật của biểu tượng là tính quy ước, thể hiện ở nhiều mức độ tùy từng
loại biểu tượng cụ thể" [ 2 ].

Hoặc trong Thi pháp ca dao, Nguyễn Xuân Kính cho rằng:
"Biểu tượng được hình thành trong một q trình lâu dài, có tính ước lệ
và bền vững. Biểu tượng là cái nhìn thấy được mang một kí hiệu dẫn ta đến cái
khơng nhìn thấy được. Biểu tượng là vật môi giới giúp ta tri giác cái bất khả tri
giác... Biểu tượng được hiểu như là những hình ảnh tượng trưng, được cả cộng
đồng dân tộc chấp nhận và sử dụng rộng rãi trong một thời gian dài. Nghĩa của
biểu tượng phong phú, nhiều tầng bậc, ẩn kín bên trong nhiều khi khó nắm bắt"
[ 20, Tr 309 + 310 ].
4


Biểu tượng nghệ thuật bao gồm mọi dạng thức hình ảnh tĩnh cũng như
động. Những biểu tượng này có thể được tạo nên từ các loại hình nghệ thuật
khác nhau: Hội họa, điêu khắc, kiến trúc, điện ảnh, sân khấu… Điều này cũng
có nghĩa là biểu tượng có thể được hình thành bởi những chất liệu khác nhau:
Màu sắc, đường nét, hình khối, điệu bộ, động tác của con người… Trong văn
học, chất liệu để xây dựng nên biểu tượng là ngơn ngữ. Với ca dao, " khơng có
ngơn ngữ thì khơng có biểu tượng" (Bùi Mạnh Nhị).
Biểu tượng trong ca dao là một loại biểu tượng nghệ thuật, được xây dựng
bằng ngôn từ với những quy ước của cộng đồng. Thế giới biểu tượng này vừa
mang những đặc điểm của biểu tượng nói chung, vừa mang những nét riêng đặc
thù của nó do nghệ thuật ngơn từ, nghệ thuật thi ca dân gian qui định.
Có thể khẳng định, biểu tượng ca dao là sự mã hóa các giá trị tinh thần
của loài người theo suốt chiều dài thời gian. Ở đó, những người đi sau khám phá
và tri nhận được lối tư duy và những giá trị tinh thần của những người đi trước,
đến lượt họ lại tiếp tục đắp bồi thêm các lớp nghĩa mới.
Như vậy, biểu tượng ln chứa đựng trong mình những giá trị đã được
vĩnh hằng hóa, song khơng vì thế mà nó trở thành nơi tồn đọng những giá trị cũ
mòn, nơi giam giữ các tầng ý nghĩ trong sự xơ cứng. Trái lại, biểu tượng là một
thực thể sống động, ln ln có sự ln chuyển nghĩa. Nó được ni dưỡng

bằng những lối tư duy, những tưởng tượng phong phú của con người. Đời sống
của con người không bao giờ bớt phức tạp và biểu tượng vì thế cũng khơng bao
giờ đơn giản hơn. Những phức tạp của cuộc sống dội vào tâm tư con người
những suy tưởng không cùng, để rồi từ đó chúng lại được dồn nén vào hệ thống
biểu tượng. Đó là con đường tất yếu của đời sống và cũng là xu hướng tồn tại,
phát triển tất yếu của biểu tượng.
Các biểu tượng cũng được hình thành theo những cách cấu tạo khác nhau,
phổ biến trong ca dao là 2 loại: biểu tượng đơn và biểu tượng đôi. Biểu tượng
đơn là biểu tượng chỉ bao gồm một sự vật, một hình ảnh duy nhất. Chẳng hạn:
- Đừng lo phận áo khơng tay
Trời kia ngó lại anh may mất rồi.
5


- Mình em như tấm lụa đào
Cịn ngun chẳng xé, vng nào ai hay.
Biểu tượng sóng đơi ( biểu tượng đôi, biểu tượng cặp đôi) là biểu tượng
được tạo thành bởi hai sự vật, hai hình ảnh đi song song với nhau, liên kết bền
vững trong nhiều bài ca dao. Cá - nước, loan - phượng, dâu - tằm, bèo - sen, bạc
- vàng, trầu - cau, trăng - sao, rồng - mưa, ong - bướm, thuyền - bến, kim - chỉ,
gương - lược, cá - sông, cây đa - bến cũ - con đò, cúc - khuy,... là những biểu
tượng sóng đơi, mang những giá trị thẩm mĩ nhất định, tạo nên lối nói riêng cho
thể loại trữ tình này.
1.2.2. Biểu tượng sóng đơi trong ca dao giao dun xứ Nghệ
Đến với kho tàng ca dao Việt Nam, có lẽ khó ai qn được những hình
ảnh sóng đơi như mận- đào, bướm- hoa, trúc- mai, thuyền- bến, rồng- mây,
gương- lược, ngọc- vàng, đũa ngọc- mâm thau, rồng- mây, hồ- sen... Chúng xuất
hiện trong nhiều bài ca khác nhau:
- Bây giờ rồng mới gặp mây
Sao rồng chẳng thở với mây vài lời.

- Bấy lâu còn lạ chưa quen
Hỏi hồ đã có hoa sen chưa hồ
Hồ cịn leo lẻo nước trong
Bấy lâu chỉ dốc một lòng đợi sen.
Nhưng những biểu tượng sóng đơi này khơng chỉ xuất hiện trong kho tàng
ca dao người Việt mà ca dao mỗi vùng miền khác nhau đều sử dụng, đáng chú ý
là kho tàng ca dao xứ Nghệ với mảng ca dao tình yêu.
Nghệ Tĩnh là cả nước thu hẹp lại. Theo đó, văn học dân gian xứ Nghệ là
một bộ phận quan trọng làm nên những giá trị tinh thần vô cùng quý báu của
nước Việt nghìn năm văn hiến:
" Hình như trên đất nước ta có loại hình văn hóa nghệ thuật gì, phạm vi
đề tài ra sao, nội dung phản ánh những vấn đề gì với mức độ ra sao, bề rộng, bề
sâu của nó, thì văn hóa văn nghệ dân gian ở xứ Nghệ cũng có đủ các loại hình,
với bấy nhiêu đề tài, nội dung và mức độ phản ánh như vậy. Hơn nữa nó lại
6


mang một sắc thái riêng- sắc thái xứ Nghệ…" [ 13, 9]. Nghệ Tĩnh từ miền ngược
đến miền xuôi, thời này qua thời khác, cha ông ta đã để lại một gia tài bất tận,
một kho văn học dân gian vơ cùng phong phú. Cụ thể đó là kho tàng ca dao xứ
Nghệ nhiều màu, nhiều vẻ, nhiều dáng điệu. Nó cũng bao gồm những thể thơ,
những phương thức, những yếu tố như trong ca dao người Việt. Bởi thế, trong ca
dao giao duyên xứ Nghệ, nhân dân đã sử dụng khơng ít những biểu tượng sóng
đơi để diễn tả tâm tư, tình cảm của mình.
Đó có thể là những biểu tượng mang tính truyền thống biểu trưng cho
những nhân vật khác nhau trong tình yêu nam nữ: thuyền - bến, bướm - hoa,
loan - phượng, cúc - khuy, bút - nghiên, Kim Trọng - Thúy Kiều, Vân Tiên Nguyệt nga, mây - rồng, dâu - tằm, trúc - mai…Vì ca dao xứ Nghệ là một bộ
phận của ca dao Việt Nam nên nhiều biểu tượng ăn sâu vào tâm thức người dân
bao thế hệ, được nhân dân lao động xứ Nghệ đưa vào trong sáng tác của mình
một cách phổ biến, rất tình tứ, bay bổng, lãng mạn:

- Chờ em như bướm chờ hoa
Chờ duyên chờ phận giang ca đến giừ.
( Câu 363/ 264)
- Đôi ta như cúc với khuy
Như kim với chỉn( chỉ) may đi cho rồi.
( Câu 557/ 286)
- Than ra cho biết đó đây
Cho loan biết phượng, cho mây biết rồng.
( Câu 1536/ 401)
- Thiên thai là của nàng Kiều
Chờ chàng Kim Trọng sớm chiều vào ra.
( Câu 1570/ 405)
Có lẽ khơng ít người đặt câu hỏi: những biểu tượng trên có gì khác so với
ca dao người Việt? Điểm khác ở đây là ngoài những biểu tượng truyền thống,
người dân Nghệ còn mượn ngay những sự vật, sự việc, hiện tượng gắn liền với
cuộc sống khó khăn, khắc nghiệt, lam lũ trên q hương mình để đưa vào trong
7


mỗi bài ca: ách - cày, trâu( bừa)- chạc mũi, cải - dưa, cà- dưa, nghé - trâu, mật
ong - khoai mài, mướp chột - kê tàn, lá hẹ - lá gừng... Dù tỏ tình hay giãi bày
những cung bậc khác nhau trong tình yêu thì người Nghệ vẫn viện dẫn những
biểu tượng giản đơn, bình thường, thậm chí tưởng như tầm thường. Nó khơng có
vẻ mĩ miều, mượt mà như xứ Bắc hay nhiều vùng miền khác, nhưng lại chân
thật, sâu sắc. Những biểu tượng đó thật bình dị, mộc mạc như chính cuộc sống
con người nơi đây:
- Ai làm cho vịt bỏ đồng
Cho cuông( công) bỏ rú, cho rồng bỏ mưa
( Câu 18/ 220)
- Được trâu anh lại bán bị

Được o( cơ) má thắm, bỏ o có chồng
( Câu 645/ 296)
- Ai làm cho ách xa cày
Trâu xa chạc mũi( dây thừng), đôi ta rày xa nhau.
( Câu 20/ 220)
- Mật ong bấm với khoai mài
…Trái cà bấm với cục dưa trong nồi
( Câu 140/ 237)
Tóm lại, có thể thấy, những biểu tượng sóng đơi trong ca dao giao duyên
xứ Nghệ vừa mang đặc trưng chung cuả biểu tượng sóng đơi trong ca dao Việt
Nam, vừa mang sắc thái địa phương độc đáo. Trên mảnh đất khắc nghiệt nắng
lắm mưa nhiều, gió Lào cát trắng này, cuộc sống nơng nghiệp là chủ yếu của
người dân gặp khơng ít khó khăn, vất vả. Tuy vậy, họ vẫn ln lạc quan và bằng
sự sáng tạo của mình, những sự vật, hiện tượng trong đời sống hàng ngày đã
được đưa vào ca dao một cách độc đáo. Cũng nhờ đó mà ca dao giao duyên xứ
Nghệ trở nên ấn tượng, hấp dẫn hơn nhưng vẫn giữ được nét riêng của nó.
1.3 Khảo sát, thống kê, phân loại
1.3.1. khảo sát thống kê

8


Hệ thống biểu tượng sóng đơi trong ca dao người Việt nói chung và ca
dao giao duyên xứ Nghệ nói riêng rất đa dạng, phong phú. Theo Nguyễn Thị
Ngọc Điệp, trong 286 biểu tượng trong ca dao người Việt thì số biểu tượng sóng
đơi đã chiếm gần phân nửa, gồm 114/ 286 biểu tượng [ 2, Tr 53 ]. Điều này cho
thấy biểu tượng sóng đơi có vị trí, vai trị khơng nhỏ trong việc giãi bày tâm tư,
tình cảm của nhân dân lao động. Nó góp phần làm cho mỗi bài ca dao thêm hay,
thêm đẹp, giàu sức biểu cảm, tứ độc đáo mà ý tình cũng sâu sắc, thiết tha.
Nếu ca dao người Việt sử dụng biểu tượng sóng đơi gần phân nửa trong

những bài ca của mình, thì ca dao xứ Nghệ cũng khơng thua kém. Theo thống kê
của chúng tôi, trong 1894 bài ca dao giao duyên ở xứ Nghệ, có tới 373 bài xuất
hiện biểu tượng sóng đơi (chiếm 19,69 %), với 206 biểu tượng, tần số lặp lại là
475 lần.
Nhìn vào số liệu trên có thể thấy, mặc dù ca dao giao duyên xứ Nghệ chỉ
là một mảng nhỏ của ca dao người Việt, nhưng tần số biểu tượng sóng đơi xuất
hiện nhiều hơn hẳn: Người Việt chỉ có 114 biểu tượng sóng đơi, trong khi đó ca
dao giao duyên xứ Nghệ có tới 206 biểu tượng sóng đơi (gấp 1,8 lần). Điều này
một lần nữa khẳng định sự phong phú, đa dạng của ca dao giao duyên xứ Nghệ
và khả năng tư duy, sự vận dụng tài tình hiện thực cuộc sống vào trong sáng tác
của người dân Nghệ.
1.3.2. Phân loại
Hệ thống biểu tượng sóng đơi trong ca dao giao dun xứ Nghệ tồn tại
thành các tiểu loại, các hệ thống nhỏ dựa trên các tiêu chí khác nhau. Nếu dựa
vào dạng hình ảnh (chất liệu để xây dựng nên biểu tượng là cái biểu đạt) có các
dạng: Biểu tượng sóng đơi tương đồng, biểu tượng sóng đơi đơi lập. Nếu dựa
vào nguồn gốc hình thành nên biểu tượng có các tiểu loại: Biểu tượng sóng đơi
là các sự vật và hiện tượng tự nhiên, biểu tượng sóng đơi là các vật thể nhân tạo,
biểu tượng sóng đơi là con người.
Biểu tượng sóng đôi trong ca dao giao duyên xứ Nghệ rất phong phú, dựa
vào nguồn gốc hình thành nên các biểu tượng đó có thể phân thành những tiểu
loại sau:
9


1.3.2.1. Biểu tượng sóng đơi là các sự vật, hiện tượng trong mơi trường tự
nhiên
Tiểu loại này có 109/ 206 biểu tượng sóng đơi( chiếm 52,91%). Tỉ lệ này
trong ca dao người Việt là 166/ 286 biểu tượng, bao gồm cả biểu tượng đơn và
đôi [ 2 ]. Trong 113 biểu tượng kể trên gồm các nhóm:

- Biểu tượng sóng đôi là hiện tượng tự nhiên: rồng - mây, trăng - sao,
trăng - cuội, gió - mây, nước - non, sao hôm - sao mai, sông - nước, mây mưa…
- Biểu tượng sóng đơi là thực vật: hoa lý - hoa lài, liễu - đào, cây - lá,
trúc - mai, hòe - quế, dâu cỏ - dâu tàu, thiên lý - mẫu đơn, sen - bèo…
- Biểu tượng sóng đơi là động vật: tằm - nhện, nghé - trâu, bướm - tằm,
phượng - loan, én - nhạn, cá - chim, rắn - rồng, phượng - rồng, trâu- bò, ong bướm, quạ - cị…
1.3.2.2 Biểu tượng sóng đơi là các vật thể nhân tạo
Theo khảo sát của chúng tôi, tiểu loại này có 76/ 206 biểu tượng sóng đơi(
chiếm 36,89%). ( Ca dao người Việt là 102/ 286 biểu tượng, gồm cả biểu tượng
đơn và đơi [2] ). Trong đó gồm:
- Biểu tượng sóng đơi là các đồ dùng cá nhân và dụng cụ sinh hoạt gia
đình: chăn - gối, nồi đồng - nồi đất, quạt - lài, cửa - then, kim - chỉ, nút - khuy,
bát sứ - bát đàn, khóa - rương, bút - nghiên, màn - chiếu, sáo - nhị, sách - bìa…
- Biểu tượng sóng đơi là các công cụ, phương tiện sản xuất: ách - cày,
thuyền - bến, ván - đò, cuốc - thuổng, sào - nước, thuyền chài - lưới đăng, bừa chạc mũi…
- Biểu tượng sóng đơi là các cơng trình kiến trúc: chợ - đình, nhà ngói nhà tranh, sơng - cầu, cầu ván - cầu tre, giếng - bàu…
- Biểu tượng sóng đôi liên quan tới ẩm thực: cơm - canh, rượu - nem, mật
ong - khoai mài, trầu - rượu, trầu - thuốc…
1.3.2.3. Biểu tượng sóng đơi là con người

10


Tiểu loại này ít hơn cả, chỉ có 21/ 206 biểu tượng sóng đơi( chiếm
10,20%). ( Ca dao người Việt là 18/ 286 biểu tượng, gồm cả biểu tượng đơn và
đơi). Trong tiểu loại này lại gồm có:
- Biểu tượng sóng đơi là các nhân vật lịcch sử, văn học, nghệ thuật: Kim
Trọng - Thúy Kiều, Ngưu Lang - Chức Nữ, Ông Tơ - Bà Nguyệt, Tấn - Tần,
Châu - Trần, Phạm Công - Cúc Hoa, Phạm Tải - Ngọc Hoa, Lưu Bình - Dương
Lễ, Phan - Trần…

Biểu tượng sóng đôi chỉ các bộ phận cơ thể con người: môi - răng, ruột gan
Như vậy, từ số liệu trên có thể thấy số lượng biểu tượng sóng đơi trong ca
dao giao duyên xứ Nghệ được sử dụng với số lượng lớn. Trong đó nhiều nhất là
biểu tượng thuộc hệ thống I: Các sự vật hiện tượng tự nhiên (chiếm 52,91 %),
tiếp đó là hệ thống II: Các vật thể nhân tạo (chiếm 36,82 %), sau cùng là hệ
thống III: Biểu tượng là con người (chiếm 10,20 %). Điều này sẽ được trình bày
một cách cụ thể, rõ nét trong bảng phân loại biểu tượng sóng đơi dưới đây.

Bảng phân loại biểu tượng sóng đơi trong ca dao giao dun xứ Nghệ
I: Biểu tượng sóng đơi là các sự vật, hiện tượng trong
mơi trường tự nhiên

Nhóm biểu tượng

Biểu tượng sóng đơi

Số lần xuất hiện

Các hiện tượng
tự nhiên.

Rồng - mưa

2

Rồng - trăng
Trăng - cuội
Gió - mây
Trăng - trời
Khúc sơng - ngọn nguồn

Nước - non

1
2
2
1
2
4

11


Thế giới thực vật

Trăng - gió
Sao hơm - sao mai
Sơng - nước
Nước - mương
Trăng - sao
Trăng - mây
Trăng - nồm
Trăng - mặt trời
Sương - núi
Mây - rồng
Trăng - đèn

5
1
1
1

3
2
1
1
1
9
3

Trăng - hoa/ nguyệt- hoa

4

Thủy - ngư
Cỏ héo - mưa rào

2
2

Trầu - cau

21

Cây cả bóng cao - cây cả lá thưa
Sen - hồ
Hoa lí - hoa lài/ hoa lăng
Liễu - đào
Cau - hạt
Cây - lá/ rễ
Trúc - mai
Hoa - cành/ cội

Lá - tàu( tàu lá)
Hòe - quế
Dâu cỏ - dâu Tàu
Dâu - tằm/ tơ/ kén
Cà - cây

1
3
1
13
3
5
10
3
1
1
1
6
1

Cải/ muối - gừng

1

Thiên lí - mẫu đơn
Cau - bẹ
Lá hẹ - lá gừng
Bèo - nước
Sen - bèo
Hoa bông hoa bụt - hoa đào

Hoa - nhị
Lan - huệ
Khế - chanh

1
2
1
1
1
1
1
4
1

12


Cau già - cau hoa
Mận - đào
Tùng - cúc
Liễu - mai
Mướp chột - kê tàn
Cây quế - đất xấu
Hoa gạo - cỏ may
Hoa lí - hoa chiêng chiểng
Hoa - mùa xuân
Cam( quýt) - bòng
Lá liễu - lá hồng
Trầu- cuống
Bá - tùng

Quế - trầm
Hoa lý/ hoa lài - hoa khoai
Cam rịm hồng rim - khế rụng
Tre - măng
Trúc - chồi
Cam - qt
Cây - dây leo
Cây - gió
Gỗ lim - bìm bìm
Bèo - sóng
Đào - mơ
Hoa - mưa
Kén - tơ
Cây đa - bến đò
Tằm - nhện
Nghé - trâu
Chim - lồng
Chim - cây/ cành
Bướm - tằm
Phượng - loan
Tằm - tơ
Én - nhạn
Cá - chim
Cá - lừ( đó)
Rắn - rồng
Phượng - rồng
Trâu - bị
Chim - bầy
Chim - ngàn
Tằm xoan- tằm già

Cá- lưới/ câu
Phượng hoàng - cây cao
13

1
5
1
1
1
1
1
1
2
2
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1

2
2
1
2
2
1
8
7
2
1
5
1
3
1
1
1
1
2
1


Ong - bướm
Phượng hoàng - chim én
Phượng hoàng - cây ngơ đồng
Quạ - cị
Tằm - kén
Ong - mật
Hạc - qui
Tằm - nhộng
Chim nhạn - chim oanh

Cá - sao
Cá - sông( ao/ đìa)
Cá - mưa
Trâu - chạc mũi
Chim - tổ
Hạc - hương án
Bướm bạch - trăng rằm
Vịt - đồng
Cuông (công) - rú
Ong (bướm) - hoa

3
1
1
1
1
1
1
1
1
1
9
4
2
2
1
1
1
1
24

Tổng: 268 lần/
109 biểu tượng

II : Biểu tượng sóng đơi là các vật thể nhân tạo

Nhóm biểu tượng
Đồ dùng cá nhân
và dụng cụ sinh
hoạt gia đình

Biểu tượng sóng đơi

Số lần xuất hiện

Chăn - gối
Nồi đồng - nồi đất
Nồi đồng/ kiềng sắt - than lim
Quạt - lài
Cửa - then
Bát sứ - bát đàn
Khóa - rương
Áo ngắn - áo dài
Áo vải - quần lụa
Ngọc - vàng( ngà)
Bút - nghiên
Cán - dao
Bạc - vàng

5
1

1
3
2
1
2
1
3
9
2
2
2

14


Công cụ, phương
tiện sản xuất

Màn - chiếu
Đĩa ngọc - mân thau
Lược - gương
Bấc - dầu/ đèn
Nống (nong) - tằm
Thuốc - điếu
Đuốc - đèn
Đĩa ngọc - mâm vàng/ mâm son
Cúc - khuy
Kim - chỉ
Lửa - hương
Giường/ sập - chăn/ chiếu

Bếp- lửa
Sáo/ nhị - đàn/ đờn
Lược - trâm
Lụa - màu điều
Võng điều - chiếu hoa
Giấy - bút
Điếu bạc - đèn đồng
Cơi ngà - chén ngọc
Khăn nhung - nhiễu tàu
Quai đãy - chỉ vàng
Nắp bạc - ấm chè
Sách - bìa
Ngọc lành- giá cao
Kim vàng - lụa đào
Diêm - thuốc
Tơ vương - tơ mành
Kèo - cột
Diều - sáo
Nắp - chum
Gương - thủy
Ách - cày
Thuyền - bến/ biển- tàu
Ván - đò/ cầu
Thuyền - lưới
Cuốc - thuổng
Sào - nước

1
1
4

5
1
1
1
4
1
6
2
4
2
3
1
2
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
2
1
1
1
1
1
1

14
2
2
1
1

Bừa - chạc mũi (dây thừng)
Ruộng - bờ
Cưởi - ngành dâu

1
3
1

15


3. Các cơng trình
kiến trúc

Biểu tượng sóng
đơi liên quan tới
ẩm thực

Chợ - đình
Câu đối - đình
Mõ - đình
Nhà ngói - nhà tranh
Sơng - cầu/ đị
Cầu ván - cầu tre

Giếng - bàu
Phấn - hồ

1
1
1
1
6
1
2
1

Rượu cúc - trà lan
Cà - dưa
Muối- vôi
Cơm - canh
Mật ong - khoai mài
Cá - dưa
Trầu - rượu
Trầu - thuốc
Trầu - cơi( cơi đựng)
Trầu - vôi
Vôi - thuốc
Phấn- hồ
Xôi - gà
Cải - dưa

1
1
1

3
1
1
2
7
2
3
1
1
1
1
Tổng: 157 lần/ 76
biểu tượng

III: Biểu tượng sóng đơi là con người

Tiểu loại
Các nhân vật
lịch sử, văn học,
nghệ thuật

Biểu tượng sóng đơi
Hán - Hồ
Lưu Linh - rượu
Bá Nha - cầm
Anh hùng - thuyền quyên
Tấn - Tần
Phạm Công - Cúc Hoa
16


Số lần xuất hiện
3
1
2
6
6
1


Các bộ phận
cơ thể người

Sơn Bá - Anh Đài
Dương Lễ - Lưu Bình
Kim Trọng- Thúy Kiều / Thúy Vân
Châu - Trần
Chức - Ngưu
Phạm Tải - Ngọc Hoa
Phan - Trần

1
2
7
7
1
1
2

Tần - Sở


1

Tiên - rồng
Cú - tiên
Vân Tiên - Nguyệt Nga
Ông Tơ - Bà Nguyệt
Thục nữ - anh đào/ trượng phu
Môi - răng
Ruột - gan

1
1
1
2
1
1
1
Tổng: 50 lần/ 21
biểu tượng

Nhận xét:
Nhìn vào bảng phân loại trên có thể thấy, biểu tượng sóng đơi trong ca
dao giao dun xứ Nghệ mn hình, mn vẻ. Tất cả các sự vật, hiện tượng
trong thế giới tự nhiên cũng như trong đời sống sinh hoạt, lao động sản xuất của
nhân dân đều được đưa vào trong ca dao. Ngay cả những nhân vật trong các tác
phẩm văn học cổ, nhờ trí tưởng tượng phong phú và cách vận dụng linh hoạt
cũng được người Nghệ vận dụng vào thơ ca dân gian của mình, làm cho ca dao
xứ Nghệ vừa bình dị, mộc mạc, vừa đài các, sang trọng.
Các biểu tượng sóng đơi được sử dụng hàng loạt, trong đó có một số biểu
tượng xuất hiện với tần số cao. Tiêu biểu như: ong (bướm )- hoa (24 lần), trầucau (21 lần), liễu- đào (13 lần), thuyền- bến (14 lần), trúc- mai (10 lần), Kim

Trọng- Thúy Kiều (7 lần), rồng- mây (9 lần)…
Trong một số trường hợp sự phân loại có tính chất tương đối. Vì biểu
tượng sóng đơi gồm hai hình ảnh đi liền nhau, có khi hình ảnh này là một hình
ảnh về hiện tượng tự nhiên nhưng hình ảnh kia hình ảnh về vật thể nhân tạo hoặc
17


con người. Chẳng hạn: Tiên - rồng, cú - rồng, hạc - hương án, Bá Nha - cầm…
Tuy nhiên người viết vẫn hi vọng rằng nó sẽ cung cấp cho chúng ta cái nhìn hệ
thống về các biểu tượng sóng đôi trong ca dao giao duyên xứ Nghệ.
1.4. Nguồn gốc của biểu tượng sóng đơi trong ca dao giao dun
xứ Nghệ
Hệ thống biểu tượng sóng đơi trong ca dao xứ Nghệ đa dạng như chính
bản thân cuộc sống- nguồn cội ban đầu đã sinh ra biểu tượng. Theo nghiên cứu
bước đầu của chúng tơi, 206 biểu tượng sóng đơi trong ca dao giao duyên xứ
Nghệ được hình thành từ 3 nguồn chính: Biểu tượng sóng đơi có nguồn gốc từ
tín ngưỡng, phong tục, tập qn; Biểu tượng sóng đơi có nguồn gốc từ văn học
cổ Việt Nam và văn học cổ Trung Quốc; Biểu tượng sóng đơi có nguồn gốc từ
các sự vật, con vật, hiện tượng trong tự nhiên và trong đời sống hàng ngày của
nhân dân.
1.4.1. Biểu tượng sóng đơi có nguồn gốc từ tín ngưỡng, phong tục, tập
quán của nhân dân
Trước hết là biểu tượng trầu- cau xuất hiện 21 lần, trầu- thuốc (7 lần),
trầu- vôi (3 lần)…có nguồn gốc từ tục ăn trầu, mời trầu, dùng trong giao tiếp,
hôn nhân, cúng tế…Hầu hết trong mọi công việc( hiếu hoặc hỉ) khơng thể thiếu
miếng trầu. Nó chính là khởi nguồn của mọi của mọi khởi nguồn. Đặc biệt, biểu
tượng này xuất phát từ truyện cổ "Sự tích trầu cau" - một câu chuyện tình để nói
về sự thủy chung, son sắt, và khát vọng hạnh phúc lứa đôi của con người.
-Bây giờ trầu lại gặp cau
Cũng mong tu ở với nhau một nhà

( Câu 134/ 235)
-Trầu say là bởi vơi nồng
u em là bởi má hồng có duyên
( Câu 1722/ 423)
Tiếp đó là biểu tượng rồng- mây (9 lần), rồng- mưa (2 lần), hay loanphượng (8 lần), rồng- phượng 3 lần…có nguồn gốc từ thần thoại, truyền thuyết
"Con Rồng cháu Tiên"; từ tín ngưỡng phong tục của người xưa (tín ngưỡng thờ
18


cúng vật tổ, tục xăm mình…). Đây chính là những con vật quý, được gọi là "tứ
linh", bao gồm long - ly - quy - phượng. Nó là biểu tượng cho sự tốt đẹp, may
mắn, thịnh vượng trong đời sống tinh thần của người Việt.
Trong bài Rồng trong quan niệm phương Đơng và phương Tây có viết:
" Yếu tố sơng nước quan trọng với người phương Đơng, vì vậy họ đã sáng
tạo ra rồng với ý nghĩa đầu tiên là biểu tượng cho nước- sự phóng đãng, mùa
màng bội thu. Ở Trung Hoa xưa, rồng là thần linh bảo hộ bốn phương, có khả
năng hơ gió, gọi mưa, có thể đội sóng lật bể, gọi mây che mặt trời. Đối với
người Nhật, rồng là con vật chủ yếu trong những con vật lý tưởng. Đối với
người Triều Tiên, rồng là một trong bốn con vật siêu tự nhiên có phép lạ. Nó là
hiện thân của mọi sức di động, thay thế năng lực để tiến cơng, về mùa xn nó
bay lên trời, về mùa thu nó náu mình dưới nước sâu. Đối với người Việt Nam,
trong kí ức dân gian thần mưa và thần nước mang hình thái một con rồng to
thường xuyên ra biển Đông hút nước mang vào đất liền tưới tắm cho đất đai.
Được xem là vua của tạo sinh động vật, rồng hay loan, phượng đều là biểu
tượng của điềm lành, của sự may mắn và tốt đẹp".
Tiếp thu tinh hóa văn hóa của cha ơng từ ngàn đời, ca dao xứ Nghệ cũng
sử dụng nhiều biểu tượng này với mong muốn thể hiện những khát vọng về một
cuộc sống tốt đẹp, mưa thuận gió hịa, khơng cịn cảnh lam lũ, đói kém trên
mảnh đất Lam Hồng sỏi đá. Đó cịn là ước mơ về những điều may mắn, hạnh
phúc, sự tương xứng trong tình yêu lứa đơi.

- Bạn ơi có nhớ ta chăng
Ta thì nhớ bạn như rồng nhớ mây.
( Câu 122/ 234)
- Đưa lên ta ví dăm ba
Cho loan biết phượng, cho ta biết mình.
( Câu 625/ 294)
- Làm chi tắc mắc thêm sầu
Chim cịn đón gió rồng hầu đợi mưa.
( Câu 863/ 322)
19


Biểu tượng cây đa - bến cũ - con đò gắn với tục thờ Thành Hoàng, thờ
thần cây "Thần cây đa, ma cây gạo", gắn với thực tế cây đa cổ thụ là chứng
nhân của biết bao kỉ niệm đối với mỗi người nơi làng quê. Cây đa, bến đò là tín
hiệu nghệ thuật, là biểu tượng nghệ thuật gắn liền với quê hương đất nước từ
xưa đến nay. Cây đa cổ thụ là biểu tượng về sự sinh tụ, trường thọ của cộng
đồng, làng xã. Cây đa vừa có ý nghĩa thực tiễn, vừa có ý nghĩa xã hội và tâm
linh cho nên nó là niềm hãnh diện của cả xóm làng: sợ ơng thần phải sợ cây đa.
Cịn bến nước( khi gắn với con đò thành bến đò), là cửa ngõ giao lưu của cộng
đồng làng xóm với xã hội bên ngồi.
Xa hơn thế, Cây đa, bến đị cịn là biểu tượng cho tình u của các chàng
trai cơ gái. Đây chính là nơi chờ đợi, hẹn hị của lứa đôi trong những đêm trăng
thơ mộng. Cây đa trường tồn cùng thời gian và là biểu tượng cho tình u thủy
chung, khơng bao giờ đổi thay. Chẳng thế mà ca dao Việt Nam nói chung, ca
dao giao duyên xứ Nghệ nói riêng đã sử dụng khơng ít biểu tượng này trong
sáng tác của mình.
- Trăm năm đành lỗi hẹn hò
Cây đa bến cũ, con đò khác đưa
( Kho tàng ca dao người Việt)

- Cây đa bến cũ năm xưa
Chữ tình ta cũng đón đưa cho trọn đời
( Câu 195/ 244)
- Cây đa bến nước con đò
Biết rằng bạn cũ cịn chờ ta khơng
( Câu 196/ 244)
Biểu tượng xơi-gà gắn với tục thờ cúng ông bà tổ tiên của người dân Việt
nói chung và người Nghệ nói riêng:
- Ước chi em hóa ra xơi
Anh như gà cộc lại ngồi lên trên
( Câu 1777/ 430)

20


Nói tóm lại, các biểu tượng thuộc nhóm này đều có nền tảng văn hóa tinh
thần bền vững của lịch sử - văn hóa - xã hội lâu đời, kết tinh trong nó nhiều giá
trị văn hóa dân tộc.
1.4.2. Những biểu tượng sóng đơi có nguồn gốc từ văn học cổ Việt Nam
và văn học cổ Trung Quốc
Đầu tiên phải kể đến các biểu tượng bắt nguồn từ văn học cổ Việt Nam.
Một số nhân vật trong các tác phẩm văn học cổ Việt Nam có sức phổ biến sâu
rộng trong quần chúng đã trở thành biểu tượng cho những con người, những
cảnh đời: Thúy Kiều- Kim Trọng (Truyện Kiều - Nguyễn Du), Vân Tiên- Nguyệt
Nga (Truyện Lục Vân Tiên - Nguyễn Đình Chiểu), Phạm Tải- Ngọc Hoa
(Truyện thơ Nơm Phạm Tải- Ngọc Hoa), Phạm Công- Cúc Hoa (Truyện thơ
Nôm Phạm Cơng- Cúc Hoa), Lưu Bình - Dương Lễ (Truyện thơ Nơm Lưu BìnhDương Lễ)…
- Bóng ai thấp thống vườn hoa
Hình như Kim Trọng đến nhà Kiều, Vân
(Câu 162/ 240)

- Tình cờ ta lại gặp ta
Vân Tiên mới gặp Nguyệt Nga một lần
(Câu 1513/ 397
- Vui xuân ta ví cho kiêu( cao)
Tình Trọng ngãi Kiều vấn vít, bâng khng.
(Câu 1827/ 436)
- Bóng ai thấp thống cửa dinh
Hình như Dương Lễ, Lưu Bình sang chơi
( Câu 161/ 240)
Khơng chỉ có các biểu tượng bắt nguồn từ văn học cổ Việt Nam mà nhiều
điển cố Trung Quốc đi vào ca dao đã thành biểu tượng quen thuộc:
Một số điển cố- biểu tượng vẫn giữ nguyên nghĩa gốc: Ngưu Lang- Chức
Nữ (xuất phát từ chuyện tình Ngưu- Chức); Châu- Trần (hai họ Châu - Trần thời
xưa đời đời kết làm thông gia với nhau); Tấn- Tần (chuyện năm đời liền con
21


cháu của vua Tấn, vua Tần được cưới gả cho nhau); Sơn Bá- Anh Đài (câu
chuyện tình giữa Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài). Hay hàng loạt các biểu tượng
như Hán- Hồ, Bá Nha- cầm, Lưu Linh- rượu, Phan- Trần, Tần- Sở, ông Tơ- bà
Nguyệt …đều là những biểu tượng bắt nguồn từ các điển tích trong văn học cổ
Trung Quốc. Chẳng hạn:
- Bây giờ con tạo xoay vần
Xui nên kẻ Tấn người Tần gặp nhau
(Câu 129/ 235).
- Một đấu gạo năm bảy đấu khoai ngô
Thiếp đưa chàng về cho tới kinh đô
Giừ phân chia đôi ngả, Hán với Hồ xa nhau
(Câu 1079/ 349).
- Ra về nước mắt phân vân

Lịng Châu có nhớ nghĩa Trần hay khơng
(Câu 1327/ 378).
Một số biểu tượng ý nghĩa có phần khác biệt so với nghĩa gốc: Đào - mận
( từ chuyện Địch Nhân Kiệt tiến cử hiền tài và câu thơ Đào ngã dĩ đào, báo chi
dĩ lý); trúc - mai (từ các điển tích "trúc Tưởng Hủ là trúc do Tưởng Hổ trồng.
Ơng bà người đời Hán liêm khiết, ngay thẳng, khơng chịu làm bầy tơi cho
Vượng Mãng. Ơng đã trồng ba hàng cây trúc trước nhà để tỏ chí khí của mình.
Mai Lâm Bơ là mai do Lâm Bơ trồng. Ơng là người đời Tống, tính ưa thanh
đạm, khơng màng danh lợi, hai mươi năm không tới chốn phồn hoa thị thành"
[20, 314]); chim phượng hồng - cây ngơ đồng (bắt nguồn từ điển tích: linh
phụng đậu trên cây ngơ đồng)…
- Phượng hồng vỗ cánh bay cao
Quyết tìm cho thấy được cây ngô đồng
(Câu 1273/ 373)
- Muốn cho đào mận vợ chồng
Đào yêu mận nhớ não nùng thương thay
(Câu 1091/ 351)
22


- Trồng trúc xin đừng trồng mai
Đã thương anh, không dám nghe ai dỗ dành
(Câu 1752/ 427)
Việc sử dụng nhiều biểu tượng có nguồn gốc từ văn học cổ như trên gắn
với tinh thần hiếu học, ham chữ nghĩa của người Nghệ. Dù ăn không no, mặc
không đủ ấm nhưng họ ln sẵn sàng chịu khó chịu khổ, chắt chiu dành dụm để
nuôi con ăn học. Ham học, hiếu học, người dân Nghệ thuộc nhiều văn thơ. Đặc
biệt, đây còn là mảnh đất có nhiều ơng đồ hay chữ, mê hát dân ca, thường tham
gia vào các cuộc hát dân gian. Chính những lý do trên đã làm cho ca dao xứ
Nghệ giàu màu sắc chữ nghĩa, mang tính bác học. Việc sử dụng nhiều biểu

tượng có nguồn gốc từ văn học cổ trong ca dao cũng đã phần nào thể hiện đặc
trưng đó của người Nghệ.
Qua trên có thể thấy, những biểu tượng là các điển cố này khi đi vào ca
dao, đặc biệt là ca dao giao duyên xứ Nghệ thì trường nghĩa của chúng đã có sự
thay đổi cho phù hợp. Đó là lời của những nam thanh nữ tú thể hiện tình cảm,
cảm xúc của mình trong mỗi bài ca.Qua đó, q trình dân tộc hóa, dân gian hóa
các ngữ liệu của văn học cũng được thể hiện rõ.
1.4.3. Những biểu tượng sóng đơi có nguồn gốc từ các sự vật, con vật,
hiện tượng trong tự nhiên và trong đời sống hàng ngày của nhân dân
Các biểu tượng thuộc nhóm này chiếm số lượng hơn hẳn so với các nhóm
khác do cái nơi lớn nhất của văn học dân gian vẫn là hiện thực đời sống sinh
hoạt của nhân dân. Nhiều sự vật từ cuộc sống đời thường đã bước vào thơ ca
nhờ tư duy liên tưởng và sự sáng tạo nghệ thuật của người xưa: Thuyền - bến là
công cụ sản xuất, phương tiện đi lại, nơi sinh sống, sinh hoạt văn hóa nghệ thuật,
nơi ngóng đợi mịn mỏi chờ người thân trở về trên; Sơng - cầu: cuộc sống của
người dân Việt Nam nói chung và xứ Nghệ nói riêng gắn chặt với mơi trường
sơng nước: sơng Lam, sơng La… Cịn cầu là phương tiện quen thuộc ở vùng
sông nước để đi lại, giao lưu; cá - lừ / đó là sản vật đặc trưng vùng sông nước.
Rồi đến các loại cây, hoa, trái hay động vật hoặc những vật dụng hàng ngày của
23


người Nghệ : cải - gừng, muối- gừng, cam - qt -bịng, sen - bèo, vịt - đồng,
cơng - rú, bướm - hoa, dâu - tằm, nút - khuy, kim - chỉ, gương - lược…Tất cả
đều quen thuộc, hữu dụng.
Đó cịn là những biểu tượng được hình thành từ những hiện tượng tự
nhiên trong vũ trụ: gió - mây, trăng - sao, sao hôm - sao mai, trăng - mây, mâymưa, trăng- cuội, non- nước…
- Ai làm cho đó xa đây
Cho trăng xa cuội cho mây xa trời
Ai làm cho bến xa thuyền

Cho trăng xa cuội, bạn hiền xa ta.
(Câu 28/ 221).
-Chữ rằng nhất nhật đơi ta
Gió với trăng là bạn, bướm với hoa tình
(Câu 380/ 265).
- Đơi ta như cúc với khuy
Như kim với chỉn( chỉ) may đi cho rồi
( Câu 557/ 286).

Thực ra, việc phân chia ba nhóm như trên chỉ mang tính chất tương đối
mà thơi. Một số biểu tượng có nguốn gốc khá phức tạp, là sự đan xen của nhiều
quan niệm, ảnh hưởng từ nhiều nguồn khác nhau (trầu - cau, cây đa - bến đị,
rồng - mây, trúc - mai…).
Như vậy, con đường hình thành của các biểu tượng trong nhóm này là từ
thực tế cuộc sống đến với tâm thức dân gian, rồi đi vào ca dao. Tất cả đều bắt
nguồn từ đời sống lao động bình dị của người Nghệ. Dù đói nghèo nhưng họ vẫn
giàu ước mơ hoài bão. Cuộc sống và tâm tình người Nghệ đã được gửi gắm vào
những biểu tượng sóng đơi trong những câu hát giao dun tình tứ. Mộc mạc
thơi nhưng lại chứa chan tình cảm thiết tha của con người nơi đây.
Tiểu kết chương 1
24


Ở chương này, chúng tơi đã trình bày khá bao qt về biểu tượng sóng đơi
trong ca dao giao dun xứ Nghệ. Trong 1894 bài ca dao giao duyên có tới 373
bài sử dụng biểu tượng sóng đơi. Những biểu tượng này rất phong phú, đa dạng,
gồm 206 biểu tượng khác nhau, tồn tại thành nhiều tiểu loại và được hình thành
từ nhiều nguồn khác nhau nhưng chủ yếu là từ đời sống sinh hoạt của người dân
Nghệ. Cũng chính nhờ những biểu tượng này mà ca dao giao duyên nói riêng, ca
dao xứ Nghệ nói chung vừa gần gũi vừa mang tính chữ nghĩa, bác học.


CHƯƠNG 2: KẾT CẤU. PHƯƠNG THỨC XÂY DỰNG. CHỨC NĂNG
NGHỆ THUẬT CỦA BIỂU TƯỢNG SĨNG ĐƠI TRONG
CA DAO GIAO DUN XỨ NGHỆ
2.1. Kết cấu của biểu tượng sóng đơi trong ca dao giao dun xứ Nghệ
Như đã biết, biểu tượng sóng đơi được tạo thành bởi hai sự vật, hai hình
ảnh đi song song, liên kết bền vững với nhau. Mỗi sự vật, hình ảnh có khi nó
được biểu hiện bằng một từ: rồng- mây, cúc- khuy, trăng- sao, sen- hồ, trúcmai, mận - đào, cam - quý, chăn - gối; thuyền - bến; rượu - nem…
- Muốn cho phượng múa loan dồn
Muốn cho tiếng nhị lên đờn hòa chung
(Câu 1101/ 352)
25


×