Tải bản đầy đủ (.doc) (167 trang)

Nghe thuat trong tho chinh huu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (518.87 KB, 167 trang )

1

Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Chính Hữu là một trong những gơng mặt tiêu biểu
của thế hệ nhà thơ trởng thành sau Cách mạng tháng Tám
nói chung và lớp nhà văn chiến sỹ nói riêng đà góp phần làm
nên thành tựu của nền thơ ca Việt Nam hiện đại.
1.2. Chính Hữu viết không nhiều nhng thơ ông là một
thế giới nghệ thuật riêng, độc đáo và hấp dẫn. Chính Hữu
viết nhiều về đề tài ngời lính và đấu tranh cách mạng trong
mấy mơi năm qua. Cả cuộc đời ông chỉ có 3 tập thơ với
khoảng hơn 50 bài đợc công bố. Đó là một con số không
nhiều của cả cuộc đời hơn 50 năm cầm bút. Nhng Quý hồ
tinh bất quý hồ đa. Với những đóng góp quan trọng cho thơ
ca cách mạng Việt Nam, ông vinh dự đợc nhận giải thởng Hồ
Chí Minh về Văn học - nghệ thuật lần thứ 2 năm 2000 do
Đảng và Nhà nớc ta trao tặng.
1.3. Thơ Chính Hữu cho đến nay còn đợc ít ngời nghiên
cứu. Tuy đà có một số bài báo giới thiệu thơ ông, nhng nhìn
chung còn mang tính cảm nhận bình tán. Cha có một công
trình nào tập trung nghiên cứu thơ Chính Hữu một cách
toàn diện, có hệ thống. Vì vậy, nghiên cứu Thế giới nghệ
thuật thơ Chính Hữu là một việc làm cần thiết và có nhiều
ý nghĩa.
Thực hiện luận văn này chúng tôi cố gắng làm nổi bật
các đặc điểm độc đáo trong thế giới nghệ thuật thơ Chính
Hữu, để từ đó khẳng định những đóng góp và vị thế của


2


ông đối với nền thơ hiện đại Việt Nam nói chung và thơ
kháng chiến nói riêng.
1.4. Chính Hữu không chỉ có vị trí quan trọng trong
lịch sử văn học dân tộc mà còn có một vị trí quan trọng
trong chơng trình văn học ở phổ thông. Nghiên cứu vấn đề
này chúng tôi còn nhằm mục đích góp phần vào việc nâng
cao chất lợng giảng dạy thơ Chính Hữu trong nhà trờng phổ
thông hiện nay đợc tốt hơn.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
2.1. Lịch sử nghiên cứu về Chính Hữu
Ngày 27 tháng 11 năm 2007, nhà thơ Chính Hữu qua
đời, ngay sau đó có khá nhiều bài viết về ông, của bạn bè
đồng nghiệp và cả những ngời thân quen lúc sinh thời.
Phần lớn những bài viết này xoay quanh các mối quan hệ về
tình cảm hoặc một số khía cạnh tiêu biểu trong cuộc đời và
sáng tác của Chính Hữu. Có thể kể đến một số bài viết tiêu
biểu nh bài viết của Hoàng Cát: Nhà thơ Chính Hữu mÃi bên
đời Đầu súng trăng treo đà đề cập đến con ngời, sự nghiệp
sáng tác của Chính Hữu. Trần Nhơng với Chính Hữu - trong
đến tận nguồn, cho rằng Có thể nói Chính Hữu rất đồng
chí, một nhà thơ viết ít, nhng thơ ông cũng tinh khiết nh
cuộc đời ông vậy. Vũ Duy Thông khẳng định sự đổi mới
trong thơ Chính Hữu trên con đờng tìm đến chân lý nghệ
thuật văn học.
Ngô Vĩnh Bình nhận xét: Chính Hữu đà tạo đợc cho
mình một giọng thơ, một phong cách thơ riêng, chất giọng
và phong cách đó không thể hoà lẫn vào bÊt kú mét giäng


3

thơ nào khác, kể cả những tác giả thơ quân đội. Thuỳ An
thì lại mạnh mẽ hơn: Cái tài và cái tình trong thơ ông, khiến
những vần thơ đậm màu bộ đội và màu giai cấp vợt qua cả
chiến tuyến. Phơng Nguyên trong bài viết: Thơng tiếc
Chính Hữu nhà thơ - chiến sỹ thì lại cho rằng: sự nghiệp
sáng tác của Chính Hữu cũng nh cuộc đời ông hình thành
hai giai đoạn ghi dấu hai chặng đờng lớn của lịch sử dân
tộc, trong chiến tranh và khi hoà bình lập lại.
Bên cạnh những bài viết đó còn có một số bài phê bình,
đánh giá rải rác trên các báo. Tuy nhiên, đây mới chỉ là
những cảm nhận, phẩm bình, cha phải là những công trình
khoa học dựa trên một sự khảo sát công phu, qui mô.
2.2. Vấn đề thế giới nghệ thuật thơ Chính Hữu
Thế giới nghệ thuật thơ Chính Hữu nhìn chung còn là
vấn đề mới mẻ, cha đợc tìm hiểu, nghiên cứu. Có thể nói
đây nh một kiến trúc nghệ thuật sắc nét đợc tạo dựng công
phu.
Đà có một số bài viết tuy còn mỏng nhng phần nào đÃ
thể hiện cái nhìn đáng trân trọng và có những khám phá,
kiến giải khá sắc sảo về thế giới nghệ thuật thơ Chính Hữu
trên một số phơng diện.
Chẳng hạn Hồ Sỹ Vịnh nhận thấy: Chính Hữu có sở trờng miêu tả những cái cao cả, những biến cố vĩ đại của lịch
sử nớc ta, qua những cái có vẻ rất bình thờng, qua cảm xúc
chân thật của một công dân, qua tình đồng đội của một
chiến sỹ. Mợn hình tợng trống dục cờ bay, câu hò, Anh nói
đến cách mạng, nhìn đồng chí thơng binh trên đôi nạng gỗ
Anh thấy cả 15 năm lịch sử hùng vỹ, tay cầm lá phiÕu bÇu cư


4

nhà thơ nao nao kiêu hÃnh với niềm tự hào dân tộc độc lập.
Đọc khẩu hiệu Chính Hữu liên tởng đến những chặng đờng
của cách mạng.
Theo Hồ Sỹ Vịnh, tập thơ Đầu súng trăng treo (trong
Tuyển tập thơ Chính Hữu, Nxb Văn học Hà Nội, 1998) đợc
Chính Hữu sáng tạo thông qua tâm hồn và ý thức của nhà
thơ. Hơn thế nữa điều đáng bàn ở đây là Chính Hữu có
khả năng tạo dựng những hình tợng đồ sộ, hấp dẫn kỳ diệu
trong thơ. Cho nên đọc thơ ông chúng ta thấy có sức lan toả
rất xa, đó cũng là điểm xác định nét riêng và đôi khi là
chỗ mạnh của thơ ông [8, 195].
Nhà thơ Diệp Minh Tuyền (trên tạp chí Văn học số 5 1967) xác định tập thơ Đầu súng trăng treo đà khẳng định
tài năng của nhà thơ Chính Hữu - một nhà thơ quân đội,
cuộc đời chiến sỹ đà tạo cho Chính Hữu một tâm hồn thi sỹ
dễ rung động. Vì vậy mà Chính Hữu có thể viết nhiều về
hình tợng ngời chiến sỹ và có lẽ ông là một trong số những
ngời viết thành công nhất về đề tài ngời lính. Vì thế thơ
Chính Hữu trở thành một đốm sáng trong thơ cách mạng
kháng chiến Việt Nam, mà mỗi lần nhắc đến thơ ca giai
đoạn này chúng ta không thể không nhắc đến tên ông [8,
215]. Nhị Ca ở bài viết Một lối cảm nghĩ, một cách viết trong
tập thơ Đầu súng trăng treo đợc in trong cuốn Từ cuộc đời
vào tác phẩm (Nxb Văn học 1972) lại khẳng định rằng: Trải
năm nọ sang năm kia từ bài trớc đến bài sau, thơ Chính Hữu
có chín dần theo thời gian, bớc tiến của thơ Chính Hữu là ở
sự đổi mới về tâm hồn. Mặc dầu Chính Hữu viết quá ít và


5
quá chậm thế nhng từng bài trong thơ ông vẫn giữ đợc

phong cách riêng. Nhị Ca cho rằng: Thơ Anh vốn thuộc loại
trữ tình có chiều hớng thiên về khái quát và Chính Hữu tỏ
ra có khiếu thẩm mỹ, có vốn hiểu biết nghệ thuật đà giúp
cho câu thơ mang vẻ hiện đại mà không xa lạ [8, 172]. Vơng Trí Nhàn khi đọc tập thơ Đầu súng trăng treo của Chính
Hữu, đà xác định một mạch thơ kháng chiến từ buổi đầu
cho đến những chặng đờng sáng tác sau này của Chính
Hữu. Đó là mạch thơ mang tính đặc trng riêng mà hình tợng
chủ yếu trong thơ là: khẩu súng và vầng trăng. Đây là một
nét riêng của tác giả kể từ khi cầm bút cho đến những
chặng đờng sau cùng của cuộc kháng chiến [8, 236]. Nếu Vơng Trí Nhàn đánh giá: Đầu súng trăng treo - một mạch thơ
kháng chiến đợc tiếp tục thì bài viết của Vũ Quần Phơng về
Chính Hữu lại nêu lên những ấn tợng chung về phong cách
nghệ thuật thơ Chính Hữu, tìm hiểu những cảm xúc cũng
nh cách thể hiện của nhà thơ qua các bài thơ ở từng thời kỳ,
từ những bài thơ đầu tiên nh: Ngày về, Đồng chí...cho đến
những bài thơ sau này nh: Th nhà, Ngọn đèn đứng gác. Tác
giả đà nêu lên những nhận xét tổng quát về nhiều phơng
diện trong thơ Chính Hữu nh cảm hứng, kết cấu thơ, nhịp
điệu thơ...Vũ Quần Phơng còn nhận định: Thơ Chính Hữu
mang đậm tính chất ca dao [8, 163]. Mang phong vị của ca
dao nhng không có nghĩa Chính Hữu sao chép, chụp lại, hay
mô phỏng mà tất cả đà đợc nhà thơ cảm nhận, nhào nặn lại,
chuyển hoá thành giọng điệu riêng để tiếp cận hiện thực
và để thể hiện mình. Vì thế Chính Hữu đà thể hiện mét


6
phong cách riêng mang đậm bản sắc của Chính Hữu, Thơ
ông gần gũi hơn với cách nói, cách nghĩ của nhân dân.
Ngoài ra một số bài viết của các tác giả nh Xuân Tửu, Phạm

Hổ, Mai Quốc Liên...[8] cũng góp phần khẳng định nghệ
thuật, cảm hứng cũng nh hình tợng trong thơ Chính Hữu.
Các bài viết trên thực sự ít nhiều có những đóng góp
trong việc nghiên cứu tiếp nhận thơ Chính Hữu, song nhìn
chung các ý kiến trong những bài viết trên chủ yếu đánh giá
thiên về con ngời nhà thơ, chứ cha nói nhiều, cha chú tâm
vào tác phẩm, cha tạo đợc cái nhìn hệ thống về thế giới
nghệ thuật thơ Chính Hữu.
2.3. Nhận thấy đây là một chỗ trống, một thiếu sót
trong nghiên cứu thơ Chính Hữu nên luận văn đi vào tìm
hiểu và nghiên cứu.
Luận văn của chúng tôi có thể nói là công trình đầu tiên
đi sâu tìm hiểu Thế giới nghệ thuật thơ Chính Hữu nh một
hệ thống chỉnh thể và nhìn nó với t cách nh một đối tợng
chuyên biệt.
3. Đối tợng nghiên cứu và giới hạn của đề tài
3.1. Đối tợng nghiên cứu
Đúng nh tên gọi của đề tài, đối tợng mà chúng tôi nghiên
cứu là Thế giới nghệ thuật thơ Chính Hữu.
3.2. Giới hạn của đề tài
Trong luận văn này, chúng tôi nghiên cứu những gì là
biểu hiện của thế giới nghệ thuật thơ, những yếu tố cấu
thành thế giới nghệ thuật thơ Chính Hữu thể hiện qua toàn
bộ sáng tác cđa «ng.


7
Chúng tôi giới hạn nghiên cứu thơ ca Chính Hữu chủ yếu
tập trung vào văn bản Tuyển tập Chính Hữu, Nxb Văn học,
Hà Nội, 1998.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khảo sát, xác định đặc trng của thế giới nghệ thuật thơ
Chính Hữu, luận văn đặt ra 3 nhiệm vụ nghiên cứu:
4.1. Đa ra một cái nhìn tổng quát về Chính Hữu trong
thơ Việt Nam hiện đại.
4.2. Khảo sát, phân tích và xác định hình tợng tác giả,
hình tợng cái tôi trữ tình trong thơ Chính Hữu.
4.3. Khảo sát, phân tích nghệ thuật tổ chức ngôn từ thơ
Chính Hữu.
Cuối cùng rút ra mét sè kÕt ln vỊ thÕ giíi nghƯ tht
th¬ ChÝnh Hữu.
5. Phơng pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng nhiều phơng pháp nghiên cứu khác
nhau, trong đó có các phơng pháp chính:
- Phơng pháp phân tích - tổng hợp
- Phong pháp so sánh - đối chiếu
- Phơng pháp cấu trúc - hệ thống
6. Đóng góp và cấu trúc của luận văn
6.1. Đóng góp
Đây là công trình đầu tiên tìm hiểu Thế giới nghệ
thuật thơ Chính Hữu nh một hệ thống chỉnh thể từ đó xác
định vị trí và đóng góp của Chính Hữu cho thơ Việt Nam
hiện đại.
Kết quả của luận văn có thể vận dụng, tham khảo cho
vấn đề dạy - học thơ văn Chính Hữu ở trờng phổ thông.


8
6.2. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung

chính của luận văn đợc triển khai trong 3 chơng:
Chơng 1: Hiện tợng Chính Hữu trong thơ Việt Nam hiện
đại
Chơng 2: Hình tợng tác giả và hiện thực cuộc sống, con
ngời trong thơ Chính Hữu
Chơng 3: Nghệ thuật tổ chức ngôn từ thơ Chính Hữu.

Chơng 1
hiện tợng chính hữu trong thơ
việt nam hiện đại
1.1. Tổng quan về nền thơ cách mạng Việt Nam
sau năm 1945


9
Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, thực tiễn cách mạng
và đờng lối văn nghệ của Đảng đà giải phóng ngêi nghƯ sÜ,
gi¶i phãng cho nghƯ tht. Tõ trong chiÕn ®Êu, ®éi ngị
nh÷ng ngêi nghƯ sü kiĨu míi xt hiƯn và ngày càng trởng
thành. Đó là ngời nghệ sỹ - chiến sỹ giác ngộ lý tởng cách
mạng, trung thành với đất nớc, với nhân dân. Họ tự nguyện
đem tài năng và nghị lực của mình cống hiến cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc. Các thế hệ nhà thơ tuy có
những ®iĨm kh¸c nhau, nhng hä cïng chung lý tëng, ®Õn với
cách mạng.
Nghệ thuật thơ ca thời kì này không phải là phong cách
cầu kỳ, khó hiểu mà chính ở sự giản dị dễ hiểu, ở sự hài
hoà phổ cập và nâng cao giữa truyền thống và cách tân,
giữa dân tộc và hiện đại.
Các nhà thơ đi với Cách mạng, với kháng chiến đều thấy

rõ ý nghĩa cuộc thay đổi. Nhiều nhà thơ đà tình nguyện
lên đờng nhập ngũ, sống, chiến đấu và viết ở chiến trờng.
Những nhà thơ mang trong mình lý tởng cách mạng, họ là
những ngời đà từng tham gia hoạt động bí mật trong những
tổ chức quần chúng của Việt Minh và cả những ngời còn lờ
mờ về cách mạng, tất cả đều hăm hở xung phong lên đờng
kháng chiến. Họ từ già xóm làng, từ già thủ đô, thành phố ra
đi, hoà cái Tôi vào cái “Ta” chung nhiỊu ý nghÜa, víi ý thøc
cđa ngêi c«ng dân đi để dành độc lập cho đất nớc, thoát
khỏi cuộc đời nô lệ. Nhà thơ Tú Mỡ đà ghi lại ý nghĩ chân
thành của mình:
Kháng chiến bùng lên biệt Thủ Đô


10
Lên đờng dẻo bớc khoác ba lô
Mang theo ý chí ngời dân Việt
Thà chết không làm vong quốc nô
(Tự Thuật) [43,148].
Cuộc sống kháng chiến đà tạo ra nguồn cảm hứng và cảm
xúc lớn cho thơ. Tính lí tởng cao cả hoà cùng chất liệu hiện
thực phong phú bắt nguồn từ cuộc chiến đấu, sản xuất gian
khổ nhng vô cùng anh dũng của dân tộc, đà nâng thơ lên
một tầm cao của thời đại. Và điều dễ nhận thấy là tâm hồn
các nhà thơ cũng đợc thay đổi, một sự thay đổi có tính
chất căn bản, nội tại. Sự thay đổi đó đà tạo ra những kết
quả trong sáng tác. Cuộc sống chiến đấu đà có tác dụng
quyết định đến sự chuyển biến t tởng nhà thơ, khơi gợi
những tình cảm tốt đẹp, những nhận thức đúng đắn về
cách cảm, cách nghĩ về đối tợng của văn học. Cũng thời kỳ

này xuất hiện đội ngũ nhà thơ - những ngời đà trải qua cuộc
đời nô lệ của ngời dân mất nớc, hồ hởi đến với cách mạng, từ
thung lũng đau thơng đến cánh đồng vui. Đó là các nhà thơ
từng là trụ cột của phong trào thơ mới nh: Xuân Diệu, Huy
Cận, Chế Lan Viên, Tế Hanh, Anh Thơ, Nguyễn Bính.....tìm
đến cách mạng, Nh chờ vang tiếng sét xé trời mây (Chế
Lan Viên). Một Xuân Diệu yêu đời khát vọng mạnh mẽ, mà
phải rợn ngợp giữa cô đơn: Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề.
Nay tìm ra mái ấm cho tâm hồn mình:
Tôi cùng xơng thịt với nhân dân của tôi
Cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu.
Một Huy Cận khi xa:
Đôi tay không tím mộ


11
Chỉ lạc hớng thiên đờng
Giờ đây thấy Trời mỗi ngày lại sáng trên Đất nở hoa.
Một Chế Lan Viên từng thấy thân phận mình sờ soạng cùng
đám ma hồn mất nớc, ao ớc gom lá vàng lại để chắn nẻo
xuân sang, gặp cách mạng vui mừng Xa phù du mà nay phù
sa... Phong trào Thơ mới là cuộc cách tân thơ lớn nhất nửa
đầu thế kỷ XX ở nớc ta. Việc hầu hết các nhà thơ tiêu biểu
của phong trào này tìm đến với cách mạng, tiếp tục phát huy
năng lực sáng tạo của mình, luôn có mặt ở vị trí hàng đầu,
là một hiện tợng đặc sắc. Điều đó chứng tỏ sức hấp dẫn của
cách mạng đối với các nhà thơ Việt Nam, dù sáng tác ở khuynh
hớng nào, ở vị trí nào trớc khi đất nớc đợc độc lập thì cách
mạng đà làm thay đổi, nhận thức, tình cảm của lớp nhà thơ
có tên tuổi. Cách mạng đà đào tạo và bồi dỡng lớp nhà thơ trởng thành từ trong thực tế của cuộc kháng chiến chống ngoại

xâm và xây dựng đất nớc.
Đội ngũ nhà thơ chiến sĩ trởng thành trong kháng chiến
chống Pháp là những nhà thơ vốn xuất thân từ các đơn vị
bộ đội, cơ quan tuyên truyền báo chí, vốn là các hạt nhân
văn hoá, văn nghệ địa phơng nh Trần Mai Ninh, Hồng
Nguyên, Hoàng Lộc, Chính Hữu, Hoàng Trung Thông, Thôi
Hữu, Hữu Loan, Quang Dũng, Xuân Hoàng, Lơng An, Khơng
Hữu Dụng, Lu Dơng, Vĩnh Mai, Việt Anh, Trần Hữu Thung,
Trinh Đờng, Phạm Hổ, Huỳnh Văn Nghệ, Hà Mậu Nhai, Bảo
Định Giang, Nông Quốc Chấn, Cầm Biên, Bàn Tài Đoàn.... Có
thể nói, lớp nhà thơ này do cách mạng mà trởng thành, từ
cách mạng mà ra.


12
Lớp nhà thơ - chiến sỹ trởng thành trong thực tế chiến
đấu đà tạo đợc dòng thơ riêng ngay từ đầu cuộc kháng
chiến chống Pháp - dòng thơ quân đội, một dòng thơ mới
mẻ, mộc mạc nhng tràn đầy sức sống, thành công của nó cha
có gì là rực rỡ chói lọi nhng đà tạo ra đợc tiếng vang lớn trong
văn học Việt Nam. Đó là dòng thơ do các đội viên chiến sỹ là
những ngời lính tự viết về mình, từ cuộc sống chiến đấu
gian khổ nhng đầy hào hùng của họ.
Bớc đầu những sáng tác của họ còn non nớt về nghệ
thuật, tác giả hầu nh cha am hiểu nhiều về kỷ thuật thơ, nhng cũng chính vì vậy mà họ lại không bị một ràng buộc nào
của quan niệm nghệ thuật cũ. Từ đó họ tự tạo cho mình một
phong cách riêng, không thể trộn lẫn. Thơ ca thời kì này đÃ
xây dựng đợc nhiều hình tợng đẹp về những con ngời
chiến đấu, lao động giàu lòng yêu nớc. Hình ảnh cuộc sống
kháng chiến gian khổ in đậm nét trong thơ. Thơ hớng đến

những ngời nông dân từ già làng xóm, ruộng đồng, gia nhập
vệ quốc quân, tình nguyện làm anh lính cụ Hồ, tới những
ngời vợ trẻ đảm đang nơi quê nhà và cả những em bé gan
dạ, đến những cảnh sinh hoạt của quân và dân trong kháng
chiến, họ đùm bọc đoàn kết yêu thơng nhau nh ruột thịt
đầy tình nghĩa của con ngời Việt Nam
Chẳng hạn trong bài Quê hơng Việt Bắc, mở đầu tập
thơ, tác giả cho thấy đất nớc đà nuôi dỡng ngời chiến sĩ trởng thành trong lòng dân tộc. Bài thơ với những địa danh
gợi nhớ, những cuộc hành quân đầy gian khổ, của buổi ban
đầu kháng chiến. Nhắc đến Việt Bắc căn cứ địa của Cách
mạng, ngời chiến sĩ rất tự hào:
Việt Bắc quê hơng ta sáng chói


13
Đất tự do của những anh hùng
Chim bay rợp trời mây rộng rÃi
Quân đi rung chuyển những sông rừng
(Quê hơng Việt Bắc Nguyễn Đình Thi)
Quang Dũng xây dựng hình ảnh anh vệ quốc đoàn
trong Tây Tiến nguyên vẹn là anh sinh viên Hà Thành khoác
áo chinh phu:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
(Tây Tiến - Quang Dũng)
Hình ảnh ngời chiến sỹ trong thơ Hữu Loan có chút gì
đó vừa đáng yêu vừa lập dị:
Ngày hợp hôn

Nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi dày đinh
Bết bùn đất hành quân
Nàng cời xinh xinh
Bên anh chồng độc đáo
(Màu tím hoa sim - Hữu
Loan)
Chính Hữu cảm nhận ngời lính theo một góc nhìn khác,
họ là những ngời nông dân từ các miền quê họp lại, thiếu
thốn gian khổ nhng thật kiên cờng, dũng cảm đánh giặc. Ngời ở vùng nớc mặn đồng chua, ngời ở làng nghèo, đất cày lên


14
sỏi đá. Mặc dầu xuất thân khác nhau nhng họ ®Ịu chung
mét lý tëng chiÕn ®Êu ®Ĩ b¶o vƯ tỉ quốc.
Nhớ của Hồng Nguyên là một minh chứng nữa, bổ sung
thêm về hình tợng ngời lính. Họ cũng là những con ngời ở
thôn quê ra đi:
Gửi lại quê hơng mái lều tranh
Tiếng mõ đêm trờng luống cày đất đỏ
ít nhiều ngời vợ trẻ mòn chân bên cối gạo
canh khuya
Đó còn là những thiếu thốn thờng gặp của quân đội ta
ngày đầu kháng chiến:
áo vải chân không
Lột sắt đờng tàu
Rèn thêm dao kiếm
Họ là những con ngời chân tình, giản dị, yêu thơng
đùm bọc lẫn nhau trong suốt thời gian và không gian hành

quân luyện tập và chiến đấu.
Kỳ hộ lng nhau ngang bờ cát trắng
Quờ chân tìm hơi ấm đêm ma
Anh bộ đội trong bài thơ Lên Cấm Sơn của Thôi Hữu
cũng là những con ngời đang vơn lên để chiến thắng kẻ thù,
tạo ra niềm vui đem lại ánh sáng cho nhân dân vùng rừng núi
heo hút. Những con ngời ấy đà qua nhiều gian khổ và hiện
tạị:
Họ vẫn gầy vẫn ốm
Mắt vẫn lỏm da vàng
áo chăn cha đủ Êm


15
ăn uống vẫn tồi tàn
(Lên Cấm Sơn - Thôi Hữu)
Thơ ca giai đoạn kháng chiến chống Pháp phát triển,
đánh dấu bớc ngoặt có ý nghĩa về sự phát triển nhận thức t
tởng, tình cảm, quan điểm nghệ thuật của các nhà thơ.
Điều đó có nghĩa, có rất nhiều nhà thơ trởng thành trong
quân đội, từ trong thực tế chiến đấu họ đà tự vẽ lên cuộc
sống hào hùng của mình trên những trang thơ, đà tạo đợc
dấu ấn riêng trong lòng ngời đọc qua bao thế hệ, tác phẩm
của họ có sự vô t thẳng thắn của một ngời lính, ngời cách
mạng, hiểu hơn ai hết thực tế chiến đấu. Đó là đặc điểm
riêng khác so với các nghệ sỹ chuyên nghiệp của thơ ca giai
đoạn này.
Nh vậy, thơ Việt Nam những năm 1945 - 1954 đà đi vào
nhiều mặt của cuộc sống. Vấn đề cách mạng và kháng
chiến đợc phản ánh trong thơ kịp thời. Từ những vấn đề

thời sự, thực tế hàng ngày, từ những mức độ khác nhau, các
bài thơ đà làm nổi lên hình tợng nhân dân, đất nớc. Viết
về lÃnh tụ, về ngời lính, anh công nhân, chị dân công, và
những ngời lao động sản xuất, các nhà thơ đà hớng độc giả
suy nghĩ về tổ quốc. Hình tợng tổ quốc đợc biểu hiện ở
dáng vẻ khẩn trơng của cuộc chiến đấu và xây dựng, ở
những liên hệ phong phú với tính cách dân tộc và truyền
thống vinh quang của nhân dân ta. Tinh thần yêu nớc, tình
làng nghĩa xóm, tình đồng chí đồng đội, lòng dũng cảm,
đức hy sinh... Tất cả đợc biểu hiện trong thơ một cách sinh
động và đợc nhìn nhận trong hoàn cảnh chiến tranh, đầy
gian khổ mà gắn bó với tỉ qc víi nh©n d©n.


16
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc, đất nớc
chuyển sang một giai đoạn mới. Miền Bắc hoà bình, bắt
đầu cuộc sống lao động xây dựng khẩn trơng hàn gắn vết
thơng do chiến tranh để lại và xây dựng xà hội chủ nghĩa,
tiếp đó cả nớc lại phải tiếp tục bớc vào cuộc chiến đấu chống
Mỹ cứu nớc tiến tới thống nhất nớc nhà. Trên cơ sở đó, thơ ca
cũng đà phát triển mạnh mẽ theo hai nguồn cảm hứng chủ
đạo là cảm hứng yêu nớc và cảm hứng về xây dựng chủ
nghĩa xà hội.
Lực lợng các nhà thơ ngày càng đông đảo và đợc khẳng
định. Trình độ t tởng nhận thức đợc nâng cao hơn và
trình độ nghề nghiệp cũng vững vàng lên rất nhiều. Đội ngũ
những nhà thơ trong giai đoạn này, tiêu biểu là Lê Anh
Xuân, Dơng Hơng Ly, Trần Nguyên, Tế Hanh,Thanh Hải,
Giang Nam, Nguyễn Bao, Xuân Quỳnh, Bằng Việt, Ngô Văn

Phú, Võ Văn Trực...
Thơ ở giai đoạn này tập trung biểu hiện nhịp sống mới,
sôi nổi, náo nức của cuộc sống lao động xây dựng trên khắp
mọi miền đất nớc. Tuy nhiên, nhiều bài thơ vẫn tiếp tục khai
thác đề tài kháng chiến chống thực dân Pháp, chống Mỹ nêu
những tấm gơng anh hùng, những tình cảm đồng đội,
đồng chí, những tâm hồn trong sáng. Song có một điều dễ
nhận thấy, nét riêng của thơ những năm đầu khi hoà bình
vừa lập lại, có nhiều nhà thơ quê hơng miền Nam đà thổi
vào thơ, một tình cảm sâu nặng về quê nhà, giới thiệu với
đồng bào miền Bắc, cái đẹp, cái phong phú của đất miền
Nam thân yêu, con ngời miền Nam trung hậu bất khuất đảm
đang:


17
Qua những con đờng bụi đỏ
Ngỡ ngàng tôi đứng trớc Cao Nguyên
Nh một chàng trai nhiều bỡ ngỡ
Gặp Buôn Mê Thuột rất dịu hiền
(Hát từ Ban Mê Thuột thân yêu
- Trần Tấn Ngô)
Và:
Xa yêu quê hơng vì có chim có bớm
Có những ngày trốn học bị đòn roi...
Nay yêu quê hơng qua từng nắm đất
Có một phần xơng thịt của em tôi
(Quê Hơng - Giang Nam)
Tế Hanh nhớ quê hơng da diết, và nỗi nhớ ấy gắn liền với
kỷ niệm tuổi thơ, với dòng sông quen thuộc và niềm tin thật

chắc chắn:
Tôi sẽ lại nơi tôi hằng mong ớc
Tôi sẽ về sông nớc của quê hơng
Tôi sẽ về sông nớc của tình thơng
(Nhớ con sông quê hơng - Tế Hanh)
Nhìn chung, thơ ca giai đoạn 1954 - 1964 miêu tả cuộc
sống với sinh khí lành mạnh và mang nhiều màu sắc. Từ vùng
than Hòn Gai - Hạ Long xinh đẹp, đến những bến cảng Hải
Phòng, nhà máy dệt Nam Định, từ những công trờng xây
dựng thuỷ lợi Bắc Hng Hải đang ngày đêm phấn khởi thi
đua một ngời làm việc bằng hai, từ những xóm làng phấn
khởi thi đua tăng gia sản xuất, tng bừng tiến lên xây dựng
hợp tác xÃ. Toàn miền Bắc đà hiện lên trong thơ nh mét bøc


18
tranh sinh ®éng vỊ con ngêi, vỊ tỉ qc, vỊ ý chí xây
dựng xà hội chủ nghĩa ở miền Bắc vững mạnh, làm hậu
thuẫn cho miền Nam, sát cánh cùng miền Nam quyết tâm
chiến đấu đánh thắng giặc Mỹ, giành độc lập tự do và
thống nhất nớc nhà.
Bên cạnh đó, thì thơ ca giai đoạn này cũng tập trung tố
cáo tội ác của giặc Mỹ thơ đợc mài sắc và có sức cổ vũ lôi
cuốn mạnh mẽ. Nhiều bài thơ hay đà xuất hiện nh: Ngời con
gái Việt Nam, Thù muôn đời muôn kiếp không tan của Tố
Hữu, Em là tất cả quê hơng, của Trần Nguyên, tập thơ Tiếng
sóng, của Tế Hanh.
Phong trào cách mạng miền Nam ngày càng tiÕn m¹nh,
më ra bao niỊm l¹c quan tin tëng trong lòng nhân dân.
Niềm vui ấy đợc đa vào thơ tạo nên một âm hởng mới và

cũng từ thực tế của hiện thực cách mạng đang phát triển.
Tiếng hát miền Nam vút lên vợt qua cả giới tuyến 17 ra miền
Bắc. Những bài thơ của đồng bào miền Nam, những bài hát
đều nói đến niềm mong muốn thống nhất đất nớc, không
có uỷ mỵ, buồn tủi luôn lạc quan yêu đời tin tởng vào cách
mạng. Nhiều bài thơ viết về lòng yêu tổ quốc, yêu chủ
nghĩa xà hội đà nói lên điều đó.
Tố Hữu không cầm nổi xúc động trớc cảnh đẹp kỳ vĩ
của thiên nhiên đất nớc:
Đẹp vô cùng tổ quốc ta ơi
Rừng cọ, đồi chè, đồng xanh ngào ngạt
Nắng chói sông Lô, hò dô tiếng hát
Chuyến phà dào dạt, bÕn níc B×nh Ca


19
(Ta đi tới - Tố
Hữu)
Không những thế đất nớc ta còn giàu đẹp vô cùng, rừng
vàng biển bạc, đẹp nh một huyền thoại trong cổ tích:
Cá Nhụ, cá Chim cùng cá Dé
Cá Song lấp lánh đuốc đen hồng
Cá Đuôi em quẩy trăng vàng choé
Đêm thở, sao lùa nớc Hạ Long
(Đoàn thuyền đánh cá
- Huy Cận)
Có nhiều cách để thể hiện đất nớc. Thơ đi đến với
thiên nhiên, chiêm ngỡng, ca ngợi, trở về với lịch sử oai hùng
của dân tộc, khai thác tâm hồn và tính cách con ngời Việt
Nam, trình bày những đổi thay đang hiện hình trớc

mặt.... Tất cả đều cần thiết và thơ ca có nhiệm vụ phải
đáp ứng yêu cầu cuộc sống để đấu tranh thống nhất đất nớc, xây dựng chủ nghĩa xà hội.
Lao động xây dựng miền Bắc xà hội chủ nghĩa là một
đề tài lớn, mà thơ ca hớng tới với một nhiệm vụ nặng nề. Thơ
phản ánh không khí khẩn trơng, hăng say lao động sản xuất
của miền Bắc. Huy Cận, Khơng Hữu Dụng, Nguyễn Xuân
Sanh đi vùng mỏ Quảng Ninh, Phạm Hổ đi nhà máy dệt Nam
Định, Hoàng Trung Thông, Yến Lan về với hợp tác xà nông
nghiệp... Những chuyến đi này có nhiều thu hoạch lớn.
Nhiều bài thơ hay đà ra đời: Nông trờng cà phê của Tế
Hanh, Về đây của Trần Hữu Thung, Bài ca hợp tác thôn tôi
của Yến Lan, Chị đẩy xe goòng của Xuân Sanh, Chiếc gơng
của cô gái vùng mỏ của Trinh Đờng, Cô thợ dƯt cđa Ph¹m Hỉ,


20
Hạ Long đêm bốc vác của Nguyễn Viết LÃm, Đoàn thuyền
đánh cá của Huy Cận,...Hoàng Trung Thông trong bài Gửi về
Thái Thụy viết:
Ngời ở nơi này mới giỏi cha
Trai cày cuốc giỏi, gái không vừa
Hai tay vật lộn cùng ma nắng
Ma nắng thua ngời, ngời chẳng thua
(Gửi về Thái Thụy - Hoàng
Trung Thông)
Tác giả thấy đợc vẻ đẹp bình dị của những ngời nông
dân, đang phát huy ý thức làm chủ đầy sáng tạo, thấy đợc
khó khăn gian khổ trong bớc đờng đi lên xà hội chủ nghĩa
còn nhiều mới mẻ, thấy đợc sức mạnh của con ngời, đầy phấn
chấn và lạc quan. Tố Hữu trong bài Tiếng chổi tre ca ngợi một

công việc lao động rất bình thờng, song đầy ý nghĩa.
Huy Cận với Đoàn thuyền đánh cá, cả bài thơ là bài ca lao
động, ca ngợi sự giàu có của biển cả.
Chủ nghĩa xà hội và lao động trë thµnh niỊm vui, lµ
nghÜa vơ trong cc sèng cđa mỗi một con ngời, bởi lao
động đều đợc coi trọng cho dù ở công việc gì, mà có lợi cho
xà hội và cộng đồng. Mọi ngời yêu nghề và có ý thức làm chủ.
Từ đó chủ nghĩa xà hội đà mở ra cho thơ một đối tợng và
một khả năng phản ánh rộng lớn, dồi dào hơn và phong phú
hơn, không chỉ quẩn quanh hay bị hạn chế trong mỗi giải
đất quê hơng quen thuộc, mà còn vơn đến mọi ngõ ngách
thôn xóm, mọi miền của đất nớc.
Tóm lại, thơ 1954 - 1964 đà đánh dấu sự trởng thành của
một giai đoạn thơ. Đó là kết quả của một quá tr×nh tÝch lịy,


21
chuyển biến trong mời năm cách mạng. Sự trởng thành chứng
tỏ các nhà thơ đà có sự thay đổi về chất, có trình độ t duy
cao, nghệ thuật độc đáo, t tởng vững chắc, với một đội ngũ
đông đảo các nhà thơ, một đội ngũ bao gồm các nhà thơ
đà từng sáng tác từ trớc cách mạng tháng tám, họ ra đời và trởng thành trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Các
nhà thơ trẻ xuất hiện trong những năm hoà bình. Đội ngũ
này có những đóng góp tích cực, nhất là khi đất nớc bớc vào
thời kỳ đổi mới và thời kỳ chống Mỹ cứu nớc và xây dựng chủ
nghĩa xà hội ở miền Bắc.
Cuộc kháng chiến lần thứ hai của dân tộc nổ ra, sau mời
năm ngày kết thúc chiến thắng Điện Biên Phủ. Cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nớc, đà sản sinh ra vô vàn những tấm gơng, những anh hùng cho dân tộc, với những kỳ tích hào hùng,
phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, có

sức cổ vũ lớn, khích lệ lòng tự hào, tạo niềm tin sắt đá vào sự
nghiệp đấu tranh của Đảng, của dân tộc ta. Trên cơ sở đó
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nớc đà mở ra một chặng đờng
mới cho sự phát triển của nền thơ ca nớc nhà.
Có thể nói cha, bao giờ thơ lại phát triển mạnh và rực rỡ
nh thời kỳ này. Ngay từ giờ phút đầu của cuộc chiến đấu,
mỗi ngời nghệ sỹ đà nhận thức đợc trách nhiệm của mình
đối với dân tộc, đối với thời đại trong giờ phút thiêng liêng
nhất của lịch sử. Tiếng súng chống Mỹ bùng nổ thì lời thơ
ca ngợi cháy bỏng căm thù giặc cũng đợc vang lên hoà cùng
một nhịp:
Yêu với căm hai đợt sóng ào ào
Vỗ bên lòng và dội mÃi tới trăng sao


22
(Xuân
Diệu)
Thơ ca phát huy đợc tính chiến đấu kịp thời và tính
thời sự nhạy bén. Trên tuyến đầu của cuộc chiến đấu, lòng
căm thù và từ trong chiều sâu thầm kín của mỗi trái tim yêu
nớc, thơ ca có mặt khắp mọi nơi, đặc biệt các nhà thơ trẻ
lăn lộn ở khắp mọi chiến trờng, ở các mặt trận nóng bỏng
nên đôi tay cầm súng, bản thảo trên lng.
Đội ngũ các nhà thơ trẻ bao gồm: Lê Anh Xuân, Diệp Minh
Tuyền, Thanh Thảo, Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm, Dơng Hơng Ly, Phạm Ngọc Cảnh, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy,
Nguyễn Đức Mậu, Hữu Thỉnh, Hoàng Nhuận Cầm, Vơng
Trọng, những nhà thơ nữ nh: Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ,
ý Nhi, Phan Thị Thanh Nhàn... Điều đáng quý là họ luôn ý
thức đợc trách nhiệm cầm bút của mình trớc cuộc sống của

dân tộc.
Thơ chống Mỹ đà biểu hiện sâu sắc t tởng yêu nớc, yêu
chủ nghĩa xà hội, lòng tự hào về truyền thống của dân tộc
ta, về thắng lợi hiện tại và niềm tin vào tơng lai. Thơ ca
chống Mỹ là khúc ca chiến thắng, chất thơ đà hoà quyện
cùng chất thép, niềm lạc quan cách mạng vợt lên trên những
tổn thất đau thơng, ít có những hạn chế trong t tởng nh
thơ ca những năm đầu kháng chiến chống Pháp, hay trong
những năm đấu tranh thống nhất đất nớc và xây dựng nền
hoà bình.
Thơ ca chống Mỹ cứu nớc mang lý tởng cao đẹp, giàu
tính chiến đấu, chân thực, tự nhiên thô sơ, mộc mạc, nói
đến tổn thất chia ly nhng kh«ng ngËm ngïi, bi lơy, lu«n


23
khẳng định một niềm tin tất thắng của cách mạng. Chủ
nghĩa anh hùng cách mạng là nội dung chủ yếu, là cảm hứng
chủ đạo đợc thơ khai thác và biểu hiện với nhiều sắc thái
phong phú. Nh vậy, cũng có nghĩa cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nớc đà đem đến cho các nhà thơ một tầm nhìn cao,
một cảm xúc lớn. Đề tài đợc mở rộng đến nhiều mặt của
cuộc sống. Từ những bài thơ viết về những điển hình ngời
thật, việc thật nh: Nguyễn Văn Trỗi, Nguyễn Viết Xuân, Trần
Thị Lý, Mẹ Suốt....Từ tiếng đàn, tiếng hát, tiếng gà gáy tra,
đến chiến công của những chiến sỹ cao xạ pháo, chiến sỹ
Hải quân và anh không quân nhân dân, từ cô gái tự vệ
Bạch Long Vĩ hay đến mẹ con bản Nà Làng, từ cuộc chia tay
đêm Hà Nội đến những trận đánh ở đờng Trờng Sơn, Tây
Nguyên, Nam Bộ...

Thơ đà toả rộng diện phản ánh đi vào nhiều híng, nhiỊu
ng· cđa cc sèng nhng vÉn tËp trung vµo những đề tài
chính. Cho dù viết về đề tài nào thì thơ chống Mỹ cứu nớc
vẫn gắn bó với thực tế sôi động của dân tộc. Các nhà thơ có
một cái nhìn mới đối với chiến tranh, với những mất mát hy
sinh và sự bất tử, lòng căm thù giặc, tình bạn chiến đấu,
tình yêu và lòng tin về sự tất thắng của cách mạng, suy
nghĩ về số phận của dân tộc. Nhiều bài thơ hay của giai
đoạn này đà ra đời nh: Ngời con gái sông Gianh của Lu Trọng
L, Hoa dứa trắng của Anh Thơ, Nhật ký quê biển của Nguyễn
Xuân Sanh. Quê hơng của Giang Nam, Mồ anh hoa nở của
Thanh Hải, Vầng trăng quầng lửa của Phạm Tiến Duật, Đất
ngoại ô của Nguyễn Khoa Điềm, Gió Lào cát trắng của Xuân
Quỳnh, Cát trắng của Nguyễn Duy, §êng tíi thµnh phè, cđa


24
Hữu Thỉnh, Những ngời đi tới biển, của Thanh Thảo và
những trờng ca sắc sảo của Thu Bồn...
Đề tài bao quát trung tâm của thơ giai đoạn này là đề
tài đất nớc. Với cảm xúc nồng cháy và suy nghĩ chín chắn,
các nhà thơ đà biểu hiện tổ quốc một cách sâu sắc đầy
đủ về nhiều mặt. Hiện lên trong thơ là hình tợng tổ quốc
Việt Nam có bề dày lịch sử và chiều cao hiện tại. Tổ quốc
Việt Nam trong thơ trở thành một biểu tợng thiêng liêng. Trần
Hữu Thung trong bài Việt Nam tổ quốc tôi, đà nói đến một
đất nớc kiên cờng, tự hào qua bốn nghìn năm xây dựng và
chiến đấu giữ gìn những nét đậm đà bản sắc dân tộc.
Từ dáng đứng của ngời chiến sỹ Giải phóng quân, Lê Anh
Xuân liên tởng đến một, Dáng đứng Việt Nam, một Tổ quốc

bay lên bát ngát mùa xuân. Trờng ca Mặt đờng khát vọng của
Nguyễn Khoa Điềm, đặc biệt là chơng Đất nớc, biểu hiện
phong phú những sắc thái tình cảm đối với tổ quốc. Lời thơ
xúc động, suy tởng mạnh mẽ tràn đầy tinh thần ca ngợi nhân
dân. Những đặc điểm tâm lý dân tộc, những cuộc đời,
những câu chuyện huyền thoại, tình yêu say đắm, lòng
quả cảm, đức hy sinh, tính siêng năng cần cù trong lao
động... đều đợc tởng tợng liên kết trong một kết cấu thơ
vững vàng uyển chuyển. Đất nớc ấy là đất nớc của nhân
dân. Đất nuớc ấy đặt ra cho thế hệ trẻ một nhiệm vụ trọng
đại là chiến đấu bảo vệ và xây dựng quê hơng:
Ôi sông núi của nghi ngàn dặm đất
Có tiếng chúng con xin có mặt
Nguyện làm ngời xung kích
của quê hơng!


25
(Trích trờng ca mặt đờng khát vọng Nguyễn Khoa Điềm)
Cũng trong thời điểm này Chế Lan Viên tập trung làm
nổi bật lên hình tợng tổ quốc Việt Nam tợng trng cho lòng tin
và sức mạnh chân lý, là sự hy sinh lớn để bảo vệ nhân dân
và cả nhân phẩm của nhân loại:
Việt Nam chục vạn ngàn đạn lửa
Cho ngàn năm sau nhân loại ngẩng cao
đầu
(Tổ quốc bao giờ đẹp thế này
chăng? - Chế Lan Viên)
Tố Hữu nói đến dân tộc Việt Nam, là nói đến những
ngời mẹ với nhiều đức tính quý báu, chịu thơng, chịu khó,

nhẫn nại âm thầm hy sinh trong mọi đau khổ. Hình tợng tổ
quốc và ngời mẹ nh hoà quyện xuyên suốt trong t duy sáng
tạo của Tố Hữu. Từ những ngày cách mạng Việt Nam đang
còn trong bóng tối với hình ảnh một bà má Hậu Giang đến
những ngày kháng chiến chống thực dân Pháp với hình ảnh
một bà Bủ, một bà Bầm..., tất cả đều gợi lên cho ngời đọc
một sự rung động của sợi dây tình cảm về tổ quốc. Trong
thơ Tố Hữu, Việt Nam còn là hạt giống mùa sau, là ngời lính
đi đầu
Nhiều bài thơ viết về tiền tuyến lớn, phản ánh trực tiếp
những trận đánh, nhiều bài thơ viết về hậu phơng vừa sản
xuất vừa chiến đấu kiên cờng, về hạnh phúc, về gia đình,
về tình yêu chung thuỷ sắt son... Trong thơ hình ảnh ngời
chiến sỹ xuất hiện ở một t thế đẹp, dũng cảm:
Hỡi ngời anh giải phóng quân


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×