Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tài liệu CẢI LƯƠNG HOA MAI: HÀNH TRÌNH 50 NĂM ĐẾN VỚI KHÁN GIẢ docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.93 KB, 7 trang )

CẢI LƯƠNG HOA MAI: HÀNH TRÌNH 50
NĂM ĐẾN VỚI KHÁN GIẢ



Nhắc đến Cải lương Hoa Mai là người ta nhắc đến tên tuổi những nghệ sĩ
tài danh: NSND Mạnh Tưởng; NSƯT Tuyết Sơn, NSƯT Huỳnh Kim, NSƯT
Thanh Lâm... Đối với họ, Cải lương Hoa Mai như một gia đình lớn. Ở đó, họ
được hoà mình dưới ánh đèn sân khấu, được thoả thích phô bày những lời ca,
giọng hát mượt mà tình cảm và được đắm say cùng nhân vật.
Trải qua 50 năm xây dựng và trưởng thành, những ký ức ngọt ngào, những vất
vả đắng cay vì nghệ thuật vẫn hiển hiện trong tâm tưởng họ như vừa mới diễn ra hôm
qua…
Tên mới, người cũ
Sau hoà bình lập lại (năm 1954), Đảng và Nhà nước ta có chủ trương cải tạo
các đoàn cải lương tư nhân theo hướng hoạt động nghệ thuật xã hội chủ nghĩa. Với
tinh thần đoàn kết, các văn nghệ sĩ đến từ Đoàn Cải lương Trung ương; Ban hát tư
nhân Kim Sơn và một nhóm nghệ sĩ diễn tự do đã cùng nhau hội ngộ để xây dựng một
nền nghệ thuật mới. Cải lương “Hoa Mai” đã được Giáo sư Vũ Khiêu yêu mến mà đặt
tên, với mong muốn các nghệ sĩ sẽ đem hết tâm huyết của mình hiến dâng cho công
chúng và nghệ thuật, biểu thị như loài hoa cao quý, tinh khiết này.
Từ khi thành lập (năm 1957), Cải lương Hoa Mai gặp phải không ít khó khăn:
các Đoàn có sự khác nhau về cung cách sinh hoạt, tuổi tác, trình độ chuyên môn nghệ
thuật. Trong khi đó, yêu cầu đặt ra đối với các nghệ sĩ, diễn viên là phải từ bỏ lối diễn
cương, tự do cá nhân, ngôn ngữ sáo mòn chuyển sang học tập nghệ thuật cải lương
diễn có nội tâm nhân vật, tính kịch mang nội dung hiện thực cuộc sống mới, khiến
cuộc cải cách vẫn còn xa lạ. Bù lại, ở họ có một điểm chung là nhiệt thành, đam mê
nghệ thuật, chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ để nói lên sự quyết tâm của mỗi người nghệ sĩ.
Ở thời điểm này, tiếng là được sự quan tâm, chỉ đạo của các cấp chính quyền nhưng
phương châm hoạt động của Đoàn là tự cấp, tự túc từ âm thanh, phục trang, phông
cảnh… đều do các thành viên đóng góp. Các thành viên vẫn không ngừng trau dồi bản


thân, người thì tìm cho mình thế mạnh trong từng vai diễn, người trăn trở suy ngẫm
cho lời thoại làm sao phải thật logic, động tác diễn sao cho hấp dẫn khán giả. Định
hướng của Đoàn là dựng vở nào cũng phải hướng tìm một phong cách nghệ thuật mới
cách tân sân khấu và nghệ thuật ca diễn nhằm khẳng định Cải lương Hoa Mai. Năm
1958, Đoàn khởi dựng vở
Kiều hồi II (Hoạn thư ghen) do Kính Dân sáng tác, đạo diễn
Ngọc Như, âm nhạc Nhạc Tấn tham dự Liên hoan nghệ thuật Quân khu III. Cái khó
nhất của vở này là người diễn viên phải diễn như thế nào để nàng Kiều trong vở cổ ra
được nàng Kiều cải lương xã hội chủ nghĩa. Cuộc thử nghiệm đã lên sàn, Tuyết Sơn,
Kim Oanh vai nàng Kiều, Thanh Lâm vai Thúc ông, Thuỳ Dương vai Hoạn Thư,
Huỳnh Kim vai Thúc Sinh… đã đi sâu thể hiện lối diễn nội tâm nhân vật, diễn theo lối
kịch bản văn học mới, bước đầu đã thành công. Vở diễn được Hội đồng nghệ thuật
đánh giá cao, các diễn viên đã được công chúng biết đến.
Một thời vàng son
Năm 1965 Đoàn dựng vở Bên xác máy bay, kể về chiến công của quân và dân
ta ra quân trận đầu đã bắn rơi máy bay Mỹ. Thật vui khi vở diễn được các chiến sĩ
ngoài chiến trường, trên trận địa, ruộng đồng, nhà máy xí nghiệp nồng nhiệt đón nhận,
vì họ như thấy hành động của chính mình được nghệ thuật phản ánh. Phải nói rằng,
gần chục năm trời Cải lương Hoa Mai ở trong tình trạng nửa tư nhân, nửa Nhà nước,
người ta gọi là “Dân doanh công trợ”, nhưng nhờ thành công của vở diễn mà Cải
lương Hoa Mai từ đây mới thực sự được công nhận là một đoàn nghệ thuật Nhà nước,
do Nhà nước đài thọ kinh phí.
Vào những năm 1967-1968, khi đất nước ta bước vào cuộc chiến tranh ác liệt,
các nghệ sĩ, diễn viên của Đoàn không quản ngại khó khăn đã xông pha biểu diễn ngay
trên trận địa pháo, trên tuyến lửa dù đạn bom khốc liệt. Mọi người không sợ hy sinh
gian khổ, đem tiếng hát át tiếng bom động viên nhân dân, bộ đội, thanh niên xung
phong, đồng bào các dân tộc anh dũng chiến đấu, bảo vệ quê hương đất nước. Cải
lương Hoa Mai dựng nhiều vở diễn theo hai hướng đề tài: dàn dựng những vở cổ và
những vở về đề tài cách mạng, cuộc sống lao động sản xuất. Nhiều vở diễn như


Thường Kiệt, Ngô Quyền, Thanh gươm cô đô đốc, Lam Sơn tụ nghĩa
đã được đi biểu
diễn phục vụ nhiệm vụ chính trị trọng đại ở Trung ương. Năm 1970, Đoàn tham dự
Hội diễn sân khấu chuyên nghiệp miền Bắc vở Dấu chân người trước, kịch bản Thùy
Linh, Hoàng Yến, Thanh Tuyền, đạo diễn Chi Lăng.
Sự thành công của vở diễn là kịch bản có cốt truyện hay, văn phong cải lương
giàu hình ảnh, khẳng định bước phát triển vượt bậc về ca diễn và là đỉnh cao về đề tài
cuộc sống mới. Đoàn mang về 3 Huy chương Vàng cho các nghệ sĩ Mạnh Tưởng,
Tuyết Sơn, Kim Oanh và 4 Huy chương Bạc cho Thanh Lâm, Lê Vân, Hồng Quang,
Trần Hùng. Sau
Dấu chân người trước, vở Ngô Quyền (còn có tên là Tiếng gọi non
sông
) viết về người Anh hùng dân tộc ở xứ Đoài (Sơn Tây) cũng là một thành công vô
giá trong thời chiến. Vở được mời biểu diễn nhân dịp khởi công xây dựng Lăng Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Kỷ niệm nhớ nhất là khi mang vở về các địa phương trong tỉnh biểu
diễn, Đoàn nhận được nhiều lá thư của thanh niên gửi về báo tin đã tình nguyện nhập
ngũ, có chiến sĩ kể chuyện đánh trận ở chiến trường được ngợi khen, điều đó chứng tỏ
vở diễn có tác dụng tuyên truyền động viên nhân dân sâu sắc.
Đặc biệt, vở
Thanh gươm cô đô đốc, kịch bản Thuỳ Linh, Hoàng Yến đã được
Bộ Văn hoá thông tin chọn làm vở cải lương tiêu biểu, đưa cho Đoàn Cải lương Nam
bộ dàn dựng để sang Pari biểu diễn. Thanh thế của Hoa Mai càng được khẳng định khi
nghệ sĩ Mạnh Tưởng (nay là Nghệ sĩ Nhân dân) được mời tham diễn... Con đường 20
năm tồn tại và phát triển, Cải lương Hoa Mai đã dựng hơn 30 vở diễn theo hai hướng
đề tài: cải lương cổ và cải lương phản ánh hiện thực cuộc sống mới đã tạo cho Hoa
Mai một phong cách diễn mang tính thời đại, gắn cùng tên tuổi một số nghệ sĩ: Tuyết
Sơn, Mạnh Tưởng, Huỳnh Kim, Thanh Lâm, Minh Đức, Kim Oanh… khẳng định một
thời vàng son của Cải lương Hoa Mai.
Giữ gìn “thương hiệu”
Bước vào thời kỳ đổi mới (1986), Nhà nước xoá bỏ bao cấp khiến sân khấu và

nghệ thuật chao đảo. Cải lương Hoa Mai cũng khốn khó tìm kiếm doanh thu và mong
giữ gìn “thương hiệu”. Muốn tồn tại được, Đoàn thực hiện tinh giản biên chế từ 100%
diễn viên, hành chính, nhân viên xuống còn 50%. Ngoài phục vụ nhiệm vụ chính trị ở
địa phương khoảng 50-60 buổi; biểu diễn phục vụ các xã vùng sâu, vùng xa 150 buổi
mỗi năm, Đoàn phải “ngoại giao” tốt để tạo nhiều doanh thu theo hợp đồng. Đoàn
thường xuyên hợp tác chặt chẽ với các cơ quan trong tỉnh, Đài PTTH Hà Tây tổ chức
các chương trình cải lương phục vụ khán giả. Đoàn dựng vở mới Tình yêu và tội phạm
do Mạnh Tưởng đạo diễn để đi lưu diễn, thật bất ngờ khi vở đạt doanh thu cao. Ấn
tượng nhất là đợt biểu diễn ở Hải Phòng, các rạp: Tháng Tám, Sông Cấm, Nhà hát
nhân dân thiếu ghế ngồi cho khán giả đến xem. Đoàn diễn liên tục 31 ngày đêm, tổng
số 83 buổi diễn, đây là con số kỷ lục của Cải lương Hoa Mai. Năm 1990, Hoa Mai
dựng vở
Ông thánh sinh đôi tham gia Hội diễn sân khấu toàn quốc, Đoàn đã huy động
4 thế hệ diễn viên tham gia. Lớp già ca diễn chắc, sâu sắc, lớp trẻ tươi mới hồn nhiên,
sự nhiệt thành đó đã đem về 5 Huy chương Vàng cho các diễn viên: Kim Oanh, Mạnh
Tưởng, Minh Đức, Lê Tuấn, Đoàn Tý, ngoài ra còn 3 Huy chương Bạc. Năm 1994,
Đoàn có 6 nghệ sĩ, diễn viên tham gia Hội thi Tiếng hát hay toàn quốc tại thành phố
Vinh (Nghệ An) thì giành 5 huy chương Vàng cho Trà My, Thu Hoài, Lê Tuấn, Đình

×