Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

BÀI THU HOẠCH HỒ SƠ 10 bà ngợi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.54 KB, 17 trang )

HỒ SƠ LS.HC 10/B7 - DA:
KHIẾU KIỆN GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Người khởi kiện: Nguyễn Thị Ngợi
Người bị kiện: Uỷ Ban Nhân Dân Thành Phố Hải Dương
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Hữu Phong , Nguyễn Thị Nghiệm,
Nguyễn Thị Đón, Nguyễn Thị Phú, Nguyễn Thị Thao, Nguyễn Thị Thảo
I.

TĨM TẮT HỒ SƠ VỤ VIỆC

Ơng Nguyễn Hữu Đặt và bà Nguyễn Thị Ngợi có 05 người con chung là Nguyễn
Thị Đón -1963, Nguyễn Hứa Phong - 1966, Nguyễn Thị Phú - 1968, Nguyễn Thị Thao
– 1973, Nguyễn Thị Thảo – 1976 đều trú tại thôn Thanh Liễu, xã Tân Hưng, Tp. Hải
Dương. Ông Đặt và bà Ngợi có Thửa đất số 195 và số 19 tờ bản đồ số 07 tại Xứ
Đồng- Thanh Liễu với diện tích 785m2 đất thổ và 150 m2 đất ao theo tờ bản đồ năm
1980, cập nhật thành thửa đất số 329 và 327 tờ bản đồ số 03 vào năm 1992.
Năm 2001, ông Nguyễn Hữu Đặt mất không để lại di chúc hay giấy tờ gì khác.
Năm 2002 khi có chủ trương của nhà nước về cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đồng loạt trên địa bàn, UBND xã Tân Hưng đã gửi thơng báo về việc gia đình
tự kiểm tra thửa đất đang sử dụng để lập hồ sơ thì anh Nguyễn Hữu Phong và vợ là
Nguyễn Thị Nghiệm đã tự làm thủ tục đứng tên xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đối với các thửa đất nêu trên của ông Đặt và bà Ngợi. Việc sang tên từ ông
Đặt và bà Ngợi sang cho anh Phong và chị Nghiệm khơng có bất kỳ văn bản nào thể
hiện việc chuyển quyền sử dụng đất giữa các bên.
Ngày 30/12/2007, Uỷ ban Nhân dân huyện Gia Lộc đã cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số AK 734508 tờ bản đồ số 03 thửa đất 334, diện tích 1.181 m2 cho
anh Nguyễn Hữu Phong và vợ là Nguyễn Thị Nghiệm.
Năm 2009 Xã Tân Hưng thuộc Huyện Gia Lộc được sáp nhập vào Thành Phố
Hải Dương, tỉnh Hải Dương.
Việc cấp GCN nêu trên bà Ngợi cùng các anh chị em cịn lại khơng biết cho đến
ngày 15/01/2016, khi bà Ngợi lên xã để làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử


dụng đất cho con gái là Nguyễn Thị Thao thì được biết giấy tờ chứng nhận mảnh đất
đã được đứng tên anh Phong và Chị Nghiệm. Ngày 07/03/2016, UBND xã Tân Hưng
đã tiến hành hòa giải tranh chấp đất đai giữa bà Ngợi với anh Phong và Chị Ngiệm
nhưng không thành.
Ngày 23/05/2016, do nhận thấy việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
anh Phong và Chị Nghiệm mà chưa có sự đồng ý hay sang tên của mình, thủ tục tiến
hành cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất là không đúng theo
quy định của pháp luật, Bà Ngợi đã khởi kiện UBND TP. Hải Dương và đề nghị Tòa
1


án hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho Nguyễn Hữu Phong và vợ là
Nguyễn Thị Nghiệm.
*Những người tham gia tố tụng trong vụ án gồm:
1. Người khởi kiện:
Bà NGUYỄN THỊ NGỢI - Sinh ngày 20/10/1935
Địa chỉ : Thôn Thanh Liễu, xã Tân Hưng, Thành phố Hải Dương, Tỉnh Hải Dương
Người được ủy quyền hợp pháp: Bà Nguyễn Thị Nhàn - Sinh năm 1991
Địa chỉ thường trú : xã Long Xuyên, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương
Địa chỉ liên hệ: số 234 Lê Thanh Nghị, phường Lê Thanh Nghị, Tp.Hải Dương,Hải
Dương.
2. Người bị kiện: UỶ BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG
Địa chỉ : P.Trần Hưng Đạo, Tp.Hải Dương, tỉnh Hải Dương.
Đại diện: Ông Vũ Tiến Phụng – Chủ tịch UBND TP.Hải Dương
Người được ủy quyền: Ông Trần Hồ Đăng – Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân TP.Hải
Dương.
3. Người có quyền lợi liên quan:
Ơng Nguyễn Hữu Phong – Sinh năm: 1966
Bà Nguyễn Thị Nghiệm – Sinh năm: 1971
Bà Nguyễn Thị Đón – sinh năm 1963

Nguyễn Thị Phú – sinh năm 1968
Nguyễn Thị Thao – sinh năm 1973
Nguyễn Thị Thảo – sinh năm 1976
Cùng trú tại: thôn Thanh Liễu, xã Tân Hưng, Tp. Hải Dương, Hải Dương.
* Đối tượng khởi kiện:
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 734508 do UBND huyện Gia Lộc cấp ngày
30/12/2007 cho ông Nguyễn Hữu Phong, bà Nguyễn Thị Nghịêm đối với thửa đất số
334 tờ bản đồ số 3 tại xã Tân Hưng, Thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.
*Yêu cầu của người khởi kiện:
Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 734508 do UBND huyện Gia Lộc cấp
ngày 30/12/2007 cho ông Nguyễn Hữu Phong, bà Nguyễn Thị Nghịêm đối với thửa
đất số 334 tờ bản đồ số 3 tại xã Tân Hưng, Thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.
II. VĂN BẢN PHÁP LUẬT ÁP DỤNG:
2


-

-

-

-

Luật tố tụng hành chính năm 2015
Bộ luật Dân sự năm 2005;
Luật Đất đai số 13/2003/QH11 sửa đổi bổ sung 2009;
Luật Khiếu nại năm 2011;
Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 hướng dẫn thi hành
Luật đất đai;

Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 5 năm 2007 quy định về bổ sung việc
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng
đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và
giải quyết khiếu nại về đất đai;
Nghị định số 198/2004/NĐ-CP ngày 3/12/2004 của Chính phủ về thu tiền sử
dụng đất;
Luật số: 11/2003/QH11 tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ngày
26 tháng 11 năm 2003;
Nghị định số 4-HĐBT ngày 7/1/1988 của Hội Đồng Bộ Trưởng số 4-HĐBT
ngày 7-1-1988 ban hành điều lệ đăng ký và quản lý hộ khẩu;
Thông tư 117/2004/TT-BTC ngày 7/12/2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực
hiện Nghị định số 198/2004/NĐ-CP ngày 3/12/2004 của Chính phủ về thu tiền
sử dụng đất;
Nghị quyết 02/2016/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị
quyết số 103/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của Quốc hội về việc thi hành Bộ
Luật tố tụng dân sự và nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của
Quốc hội về việc thi hành Luật Tố tụng hành chính.
Cơng văn số 02/GĐ-TANDTC ngày 19/9/2016 của Tòa án nhân dân tối cao.

III. PHẦN TRÌNH BÀY YÊU CẦU KHỞI KIỆN CỦA NGƯỜI KHỞI KIỆN:
Kính thưa Hội đồng xét xử,
Thưa vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân,
Thưa vị Luật sư đồng nghiệp,
Thưa tất cả q vị có mặt tại phiên tịa sơ thẩm ngày hôm nay,
Tôi tên là …….., là luật sư - người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi
kiện là bà Nguyễn Thị Ngợi. Sau đây tôi xin đại diện trình bày yêu cầu khởi kiện của
bà Ngợi như sau:
Ông Nguyễn Hữu Đặt và bà Nguyễn Thị Ngợi có 05 người con chung là Nguyễn
Thị Đón -1963, Nguyễn Hứa Phong - 1966, Nguyễn Thị Phú - 1968, Nguyễn Thị Thao
– 1973, Nguyễn Thị Thảo – 1976 đều trú tại thôn Thanh Liễu, xã Tân Hưng, Tp. Hải

Dương. Ông Đặt và bà Ngợi có Thửa đất số 195 và số 19 tờ bản đồ số 07 tại Xứ
Đồng- Thanh Liễu với diện tích 785m2 đất thổ và 150 m2 đất ao theo tờ bản đồ năm
1980, cập nhật thành thửa đất số 329 và 327 tờ bản đồ số 03 vào năm 1992.
Năm 2001, ông Nguyễn Hữu Đặt mất khơng để lại di chúc hay giấy tờ gì khác.
Năm 2002 anh Nguyễn Hữu Phong và vợ là Nguyễn Thị Nghiệm đã tự ý làm thủ tục
3


đứng tên xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các thửa đất nêu trên của
ông Đặt và bà Ngợi. Việc sang tên từ ông Đặt và bà Ngợi sang cho anh Phong và chị
Nghiệm khơng có bất kỳ văn bản nào thể hiện việc chuyển quyền sử dụng đất giữa các
bên.
Ngày 30/12/2007, Uỷ ban Nhân dân huyện Gia Lộc đã cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số AK 734508 tờ bản đồ số 03 thửa đất 334, diện tích 1.181 m2 cho
anh Nguyễn Hữu Phong và vợ là Nguyễn Thị Nghiệm.
Đến ngày 15/01/2016, khi bà Ngợi lên xã để làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho con gái là Nguyễn Thị Thao thì mới được biết giấy tờ chứng
nhận mảnh đất đã được đứng tên anh Phong và Chị Nghiệm. Ngày 07/03/2016, UBND
xã Tân Hưng đã tiến hành hòa giải tranh chấp đất đai giữa bà Ngợi với anh Phong và
Chị Ngiệm nhưng không thành.
Nay nhận thấy việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho anh Phong và
Chị Nghiệm mà chưa có sự đồng ý hay sang tên của mình, thủ tục tiến hành cấp Giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất là không đúng theo quy định của
pháp luật, ảnh hưởng đến quyền lợi của mình, Bà Ngợi đã khởi kiện UBND TP. Hải
Dương tại Tòa án nhân dân Thành Phố Hải Dương và đề nghị Tòa án hủy Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số AK 734508 tờ bản đồ số 03 thửa đất 334, diện tích 1.181
m2 cho anh Nguyễn Hữu Phong và vợ là Nguyễn Thị Nghiệm..
*Chứng cứ chứng minh yêu cầu khởi kiện:
- Đơn khởi kiện;
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 734508 tờ bản đồ số 03 thửa đất 334,

diện tích 1.181 m2 do UBND huyện Gia Lộc cấp cho anh Nguyễn Hữu Phong và chị
Nguyễn Thị Nghiệm.
- Giấy chứng tử của ông Nguyễn Hữu Đặt
- Giấy ủy quyền của bà Ngợi cho bà Nguyễn Thị Nhàn
- Đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01/12/2002
- Thơng báo về việc hộ gia đình tự kiểm tra thửa đất ngày 01/12/2002
- CMND, Sổ hộ khẩu bà Ngợi và bà Nhàn.
IV. KẾ HOẠCH HỎI CỦA LUẬT SƯ TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM:
Đề cương hỏi của Luật sư – người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Người
khởi kiện bà Nguyễn Thị Ngợi.
A. Kế hoạch hỏi Người bị kiện:
- Ông cho biết nguồn gốc đất của thửa đất 334 tờ bản đồ số 3 xã Tân Hưng?
- Hiện tại, ai là người được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng
đất của thửa đất 334 tờ bản đồ số 3?
4


- Ai là người đã có cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 734508 tờ bản đồ
số 03 thửa đất 334 cho anh Nguyễn Hữu Phong và chị Nguyễn Thị Nghiệm?
- Xin ơng cho biết Trình tự thủ tục xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại địa
phương như thế nào?
-

UBND huyện Gia Lộc căn cứ vào đâu để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
và quyền sở hữu nhà ở cho ông Nguyễn Hữu Phong và bà Nguyễn Thị Nghiệm ?

- UBND huyện Gia Lộc có tiến hành kiểm tra rõ nguồn gốc mảnh đất, xác định hiện
trạng đất trước khi cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho anh Phong và bà
Nghiệm khơng?
- UBND huyện Gia Lộc có ban hành Quyết định về việc Cấp Giấy chứng nhận

Quyền sử dụng đất cho ông Phong và bà Nghiệm hay không?
- Các ông giải thích như thế nào về việc Phịng Tài Ngun môi trường huyện Gia
Lộc trả lời tại Công văn số 16/CV-TNMT rằng đã chuyển hồ sơ cấp đất cho ông
Phong, bà Nghiệm cho Thành phố Hải Dương, nhưng các ông lại lập luận không
nhận được hồ sơ lưu trữ?
- Trước khi có thơng báo của UBND xã Tân Hưng về việc kiểm tra lại thửa đất để
cấp giấy đồng loạt trên địa phương thì bà Ngợi vẫn đang là chủ sở hữu sử dụng thửa
đất 334 tờ bản đồ 03 đúng không?
- Vậy ngày 01/12/2002 tại sao UBND xã Tân Hưng có Thơng báo về việc gia đình tự
kiểm tra thửa đất đang sử dụng để lập hồ sơ cấp GCNQSDĐ lại không gửi cho Bà
Ngợi – người đang là chủ sử dụng của thửa đất mà lại ghi tên ông Nguyễn Hữu
Phong ?
- Khi xét duyệt hồ sơ cấp giấy cho ơng Phong và bà Nghiệm thì họ có bất kỳ giấy tờ
nào liên quan đến với thửa đất theo quy định tại Điều 50 Luật đất đai 2003 hay
khơng?
- Ơng Phong và bà Nghiệm có cung cấp được văn bản phân chia di sản thừa kế hay
văn bản nhận chuyển nhượng thửa đất 334 hay không?
- Theo quy định tại Khoản 2 Điều 135 Nghị định 181/2004 Hướng dẫn luật đất đai có
quy định trách nhiệm của UBND xã là “trường hợp người đang sử dụng đất khơng
có giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật
Đất đai thì thẩm tra, xác nhận về nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất, tình trạng
tranh chấp đất đai đối với thửa đất” đúng không?
- Vậy UBND xã Tân Hưng có thực hiện việc thẩm tra, xác minh về nguồn gôc đất,
hiện trạng đất đối với thửa đất mà ông Phong và bà Nghiệm được cấp hay không?
- Nếu đã có thực hiện việc kiểm tra vậy tại sao lúc nào bà Ngợi đang là người sử
dụng đất theo hồ sơ địa chính nhưng ơng Phong bà Nghiệm khơng có bất kì giấy tờ
hay thơng tin nào liên quan đến thửa đất lại được xét và cấp giấy?
- Việc khơng có bất kì văn bản nào thể hiện việc chuyển quyền sử dụng đất từ ông
Đặt, bà Ngợi sang cho ông Phong và Bà Nghiệm nhưng UBND huyện đã cấp giấy
cho ơng Phong, bà Nghiệm có đúng thủ tục hay khơng?

- UBND Xã Tân Hưng đã ký đóng dấu vào đơn xin cấp đất vào ngày 01/12/ 2002 của
bà Nghiệm và lập hồ sơ cấp đất, công bố công khai danh sách người đủ điều kiện
được cấp trong đó có hộ anh Phong bà Nghiệm tại UBND xã đúng không?
5


- Theo quy định tại Điều 135 Nghị định 181/2004 thì việc cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất từ khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ đến khi được cấp không được quá 55 ngày
đúng không?
- Vậy việc nhận hồ sơ từ năm 2002 nhưng mãi đến năm 2007 mới cấp giấy cho ơng
Phong và bà Nghiệm có đúng thủ tục theo quy định không?
B. Kế hoạch hỏi Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là ơng Nguyễn Hữu Phong
và bà Nguyễn ThỊ Nghiệm (ông Phong cũng là đại diện ủy quyền của bà Ngiệm:
- Nguồn gốc đất thửa đất 334, tờ bản đồ 3 là của cha mẹ ông đúng không?
- Cha ông là ông Nguyễn Hữu Đặt mất năm 2001 có để lại di chúc hay khơng?
- Cha mẹ ơng có bao nhiêu người con, gồm những ai?
- Sau khi cha ông mất, các anh chị em cùng mẹ của ông đã cùng phân chia di sản của
ơng Đặt để lại chưa?
- Cha mẹ ơng có bất kỳ văn bản nào thể hiện việc chuyển quyền sử dụng đất của thửa
334 tờ bản đồ 03 cho ông và bà Nghiệm hay không?
- Có văn bản nào thể hiện chị em cùng mẹ của ơng có thống nhất để cho ơng và bà
Nghiệm tồn quyền sử dụng thửa đất 334 tờ bản đồ 3 khơng?
- Ơng có thông báo cho các chị em của ông biết việc bà Ngợi để cho ông đứng tên
trên giấy chứng nhận hay không?
- Khi UBND tiến hành đo đạc, ra thông báo kiểm tra đất để cấp đất, ông không báo
cho các chị em của ông biết đúng không?
- Sauk hi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và đứng tên trên thửa đất ơng
có thơng báo cho mẹ cùng các chị em của ông biết hay không?
C. Kế hoạch hỏi Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan khác gồm bà Thao, bà
Thảo, bà Phú, bà Đón (hỏi từng người các câu hỏi sau đây):

- Khi cha bà mất, bà có từ chối nhận di sản hay có đồng ý tặng cho phần di sản được
hưởng của mình cho ông Phong không?
- Khi bà Nghiệm và ông Phong thực hiện việc thủ tục xin cấp giấy chứng nhận bà có
biết hay khơng? Có được thơng báo hay khơng?
- Trước, trong và sau khi ông Phong được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
năm 2007 thì có thơng báo cho bà biết việc bà Ngợi đồng ý để cho ơng Phong đứng
tên hay khơng?
- Bà có ý kiến như thế nào về việc vợ chồng ông Phong đứng tên và có tồn quyền sử
dụng mảnh đất của cha mẹ?
- Việc bà Ngợi khởi kiện yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho
vợ chồng ông Phong bà có ý kiến như thế nào?
D. Kế hoạch hỏi Người khởi kiện:
- Bà cho biết mảnh đất thuộc thửa 334 có nguồn gốc từ đâu? Giấy tờ chứng minh
nguồn gốc đó?
6


- Bà là vợ của ông Đặt đúng không? Sauk hi ơng Đặt mất gia đình bà vẫn chưa thực
hiện kê khai di sản của ông Đặt đúng không?
- Bà cho biết thời điểm bà biết việc ông Nguyễn Hữu Phong và bà Nguyễn Thị
Nghiệm đứng tên trên GCN số AK 734508 của thửa đất số 334?
- Bà có biết thông báo của UBND xã Tân Hưng về việc đo đạt để thành lập bản đồ
địa chính phục vụ cho cấp mới, cấp đổi GCN quyền SDĐ hay không?
- Bà có từng nhận được thơng tin niêm yết cơng khai về việc cấp GCN cho ơng
Nguyễn Hữu Phong khơng?
- Ơng Phong có từng thơng báo cho bà biết việc ơng đang làm thủ tục đứng tên trên
thửa đất hay không?
- Bà có đồng ý cho ơng Phong được đứng tên và có quyền sử dụng đất đối với thửa
đất hay khơng?
- Bà có ý kiến gì về việc UBND huyện Gia Lộc đã cấp Giấy chứng nhận cho vợ

chồng ông Nguyễn Hữu Phong?
IV. BÀI LUẬN CỨ BẢO VỆ NGUYÊN ĐƠN
Kính thưa Hội đồng xét xử,
Thưa vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân,
Thưa vị Luật sư đồng nghiệp,
Thưa tất cả q vị có mặt tại phiên tịa sơ thẩm ngày hôm nay,
Tôi tên là ………., là Luật sư của Văn phịng Luật sư A, Đồn Luật sư Thành
phố B. Hơm nay tơi có mặt tại phiên tịa này để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
người khởi kiện là bà Nguyễn Thị Ngợi, trong vụ án hành chính “Khiếu kiện Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất” đối với người bị kiện là Uỷ Ban Nhân Dân Thành Phố
Hải Dương.
Sau khi nghiên cứu hồ sơ và tham gia phần hỏi tại phiên tịa, tơi xin được trình
bày một số ý kiến tranh luận bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp cho bà Tuyết như
sau:
Trước tiên, về việc bà Nguyễn Thị Ngợi khởi kiện yêu cầu hủy Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện Gia Lộc đã cấp cho ông Nguyễn Hữu Phong
và bà Nguyễn Thị Nghiệm:
Theo Khoản 1 mục I Công văn giải đáp một số vấn đề về tố tụng hành chính,
dân sự số 02/GĐ-TANDTC của Tòa án nhân dân tối cao ngày 19/09/2016 có quy định
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là quyết định hành chính. Theo Khoản 2 Điều 3
Luật Tố tụng hành chính năm 2015 thì “2. Quyết định hành chính bị kiện là quyết định
quy định tại khoản 1 Điều này mà quyết định đó làm phát sinh, thay đổi, hạn chế,
chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc có nội dung làm
phát sinh nghĩa vụ, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá
nhân.”.
Căn cứ Khoản 1 Điều 115 Luật Tố tụng hành chính “Cơ quan, tổ chức, cá nhân
có quyền khởi kiện vụ án đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết
định kỷ luật buộc thôi việc trong trường hợp không đồng ý với quyết định, hành vi
7



đó…” Bà Ngợi khơng đồng ý về việc UBND huyện Gia Lộc đã cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho ông Phong và Bà Nghiệm vào năm 2007, ảnh hưởng nghiêm
trọng đến quyền lợi của bà, do đó bà có quyền khởi kiện yêu cầu hủy Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đã cấp đối với thửa đất 334 tờ bản đồ 03.
Tiếp theo về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 734508 đối
với thửa đất 334, tờ bản đồ số 03 ngày 30/12/20107 của UBND huyện Gia Lộc cho
ông Nguyễn Hữu Phong và bà Nguyễn Thị Nghiệm: Chúng tơi hồn tồn khơng đồng
ý do việc cấp giấy chứng nhận này khơng đúng trình tự thủ tục pháp luật quy định,
không đáp ứng các điều kiện quy định cụ thể như sau:
Thứ nhất, Nguồn gốc sử dụng đất thể hiện chủ sử dụng đất là ông Đặt và bà
Ngợi, không phải ông Phong và bà Nghiệm:
Thửa đất 334 tờ bản đô 03 theo Giấy chứng nhận AK 734508 nguyên trước đây
theo hồ sơ địa chính của xã Tân Hưng, sổ Đăng ký ruộng đất và bản đồ lập theo chỉ thị
229/TTg ngày 10/11/1980 của Thủ tướng chính phủ là thửa đất số 195 và 197 tờ bản
đồ 07 thuộc quyền sử dụng và đăng ký đứng tên của Ông Nguyễn Hữu Đặt và vợ là
Nguyễn Thị Ngợi. Đến năm 1992 tại khoảnh 1 bản đồ địa chính xã 1992 được cập nhật
thành thửa đất số 329, 327 tờ bản đồ 03 cũng do vợ chồng ông Nguyễn Hữu Đặt đứng
tên. Đến năm 2001 ông Đặt qua đời không để lại di chúc. Vợ chồng ông Đặt bà Ngợi
có năm người con chung vẫn chưa tiến hành phân chia di sản của ông Đặt sau khi ông
mất. Di sản của ông Nguyễn Hữu Đặt là ½ quyền sử dụng đất nêu trên, vì khơng có di
chúc nên tài sản này sẽ được phân chia theo quy định của pháp luật. Theo quy định
pháp lệnh thừa kế năm 1990 tại Điều 25 khoản 1 có quy định “1. Những người thừa kế
theo pháp luật gồm có: a) Hàng thứ nhất: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ
nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”. Tại thời điểm bà Nghiệm làm đơn xin cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất là vào ngày 01/12/2002 các đồng thừa kế là bà Ngợi, bà
Địn, bà Thao , ơng Phong, Bà Thảo, bà Phú vẫn chưa tiến hành việc khai nhận và
phân chia di sản của ông Đặt nên lúc này bà Ngợi vẫn đang là chủ sử dụng đứng tên
thửa đất được thể hiện trong hồ sơ địa chính xã, cũng khơng có bất kì văn bản nào thể
hiện việc chuyển quyền sử dụng đất từ ông Đặt bà Ngợi sang cho vợ chồng ơng

Phong. Do đó việc ông Phong, bà Nghiệm đã tự ý làm thủ tục xin cấp Giấy chứng
nhận trên toàn bộ mảnh đất là khơng đúng quy định của pháp luật.
Thứ hai, về trình tự thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và
quyền sử dụng đất khơng đúng trình tự thủ tục:
a) Về Điều kiện để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất:
Theo quy định tại Khoản 1 và 2 Điều 50 Luật đất đai 2003:
“Điều 50. Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng
đồng dân cư đang sử dụng đất
1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường,
thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:
a) Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất đai trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do
cơ quan có thẩm quyền cấp trong q trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hồ miền
Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
8


b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;
c) Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với
đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất;
d) Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước
ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận
là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;
đ) Giấy tờ về thanh lý, hoá giá nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật;
e) Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất.
2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất khơng có các loại giấy tờ quy định tại khoản
1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993,
nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất khơng có tranh chấp,

phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử
dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử
dụng đất”
Điều 48 NĐ 181/2004/NĐ-CP cũng quy định: “2. Hộ gia đình, cá nhân đang
sử dụng đất mà tồn bộ thửa đất hoặc một phần thửa đất khơng có một trong các loại
giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất
đai được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần diện tích đất khơng có
giấy tờ khi có đủ các điều kiện sau:
a) Đất khơng có tranh chấp;
b) Đất đã được sử dụng trước thời điểm quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hoặc
quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị hoặc quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn
được xét duyệt; trường hợp đất được sử dụng sau thời điểm quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất hoặc quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị hoặc quy hoạch xây dựng điểm dân
cư nơng thơn được xét duyệt thì phải phù hợp với quy hoạch hoặc kế hoạch đó. Thời
điểm sử dụng đất do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất xác nhận;
c) Trường hợp sử dụng đất từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày 01
tháng 7 năm 2004 thì phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định của Chính phủ về thu
tiền sử dụng đất”
Xét trường hợp cấp đất cho ông Nguyễn Hữu Phong và bà Nguyễn Thị Nghiệm
cho thấy việc thủ tục để cấp giấy chứng nhận có rất nhiều sai sót, cụ thể là ơng Phong,
bà Nghiệm khơng có bất kì giấy tờ nào theo quy định nêu trên đối với quyền sử dụng
đất thửa đất số 334 tờ bản đồ 03. Trên đất tại thời điểm năm 2002 đến năm 2007 bà
Ngợi cùng các anh chị em của ông Phong đều đang cư ngụ trên thửa đất này và bà
Ngợi đang là chủ sử dụng đứng tên thửa đất theo bản đồ địa chính của xã, các đồng
thừa kế vẫn chưa tiến hành phân chia di sản của ông Đặt.
Như vậy, có thể thấy rằng khi có chủ trương cấp đất đồng loạt trên địa bàn xã
Tân Hưng thì Uỷ ban nhân dân xã Tân Hưng phải có trách nhiệm thơng báo cho người
đang sử dụng đất là bà Ngợi. Thế nhưng tại Thông báo ngày 01/12/2002 UBND xã
Tân Hưng lại tiến hành thơng báo về việc hộ gia đình tự kiểm tra đất đang sử dụng để
lập hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lại gửi cho ông Nguyễn Hữu Phong

– người không phải là chủ sử dụng theo hồ sơ địa chính mà khơng phải là thông báo
cho bà Ngợi.
9


Đồng thời tại đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 01/12/2002
do ông Nguyễn Hữu Phong cùng bà Nghiệm đứng đơn thế nhưng chỉ có bà Nghiệm ký
đơn. Hơn nữa ông Phong cho rằng bà Ngợi cho ông đứng tên và toàn quyền sử dụng
thửa đất nhưng lại khơng cung cấp được chứng cứ chứng minh có việc cho phép này.
Các đồng thừa kế và bà Ngợi cũng khơng có bất kỳ văn bản nào ủy quyền cho ông
Phong, bà Ngợi đứng tên trên giấy. Và cũng khơng có bất kỳ văn bản nào thể hiện việc
chuyển quyền sử dụng đất từ ông Đặt, bà Ngợi sang cho ông Phong, bà Ngiệm.
Theo quy định tại Điểm a và d khoản 2 Điều 135 NĐ 181/2004/NĐ-CP quy
định: “Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được quy định như sau:
a) ủy ban nhân dân xã, thị trấn có trách nhiệm thẩm tra, xác nhận vào đơn xin
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất về tình trạng tranh chấp đất đai đối với thửa
đất; trường hợp người đang sử dụng đất khơng có giấy tờ về quyền sử dụng đất quy
định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai thì thẩm tra, xác nhận về nguồn
gốc và thời điểm sử dụng đất, tình trạng tranh chấp đất đai đối với thửa đất, sự phù
hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt; công bố công khai danh sách các
trường hợp đủ điều kiện và không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất tại trụ sở ủy ban nhân dân xã, thị trấn trong thời gian mười lăm (15) ngày; xem
xét các ý kiến đóng góp đối với các trường hợp xin cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất; gửi hồ sơ đến Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thuộc Phịng Tài
ngun và Mơi trường”
“d) Thời gian thực hiện các công việc quy định tại các điểm a, b và c khoản
này không quá năm mươi lăm (55) ngày làm việc (không kể thời gian công bố công
khai danh sách các trường hợp xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và thời
gian người sử dụng đất thực hiện nghĩa vụ tài chính) kể từ ngày Uỷ ban nhân dân xã,
thị trấn nhận đủ hồ sơ hợp lệ cho tới ngày người sử dụng đất nhận được giấy chứng

nhận quyền sử dụng đất”
Theo đó khi xét hồ sơ cấp đất cho ông Phong bà Nghiệm ủy ban nhân dân xã
Tân Hưng phải có trách nhiệm kiểm tra về tình trạng sử dụng đất, để xem xét đối
tượng xin cấp đất có đủ điều kiện hay không. Nhưng UBND không thẩm tra hiện trang
sử dụng đất, bởi nếu có việc thẩm tra thì hồ sơ địa chính và thực tế bà Ngợi đang là
chủ sử dụng đất cùng các con cũng đang sinh sống tại đây lại không được nhận bất kỳ
thông báo, cũng k được quyền ý kiến về việc cấp đất theo quy định.
Hồ sơ xin cấp đất của ông Phong và Bà Nghiệm hiện Ubnd Xã Tân Hưng xác
định là xét cấp đất cho ông Phong là dựa trên đơn xin cấp giấy ngày 01/12/2002, hồ sơ
khơng có bất kì bút tích, văn bản giấy tờ nào thể hiện việc chuyển quyền sử dụng đất
từ bố mẹ cho con là ông Phong cùng bà Nghiệm, cũng như khơng có bất kỳ văn bản
thể hiện các đồng thừa kế đồng ý cho ông Phong được đứng tên, thực tế phần di sản
của ông Đặt để lại vẫn chưa được phân chia nên ông Phong khơng có quyền tự ý kê
khai xin cấp giấy. Do ông Phong không có các loại giấy tờ quy định tại Điều 50 Luật
đất đai, Ubnd xã phải có trách nhiệm thẩm tra nguồn gốc đất, hiện trạng đang sử dụng
đất có tranh chấp hay khơng, ai đang sử dụng, nhưng đã không thực hiện việc này. Mãi
đến năm 2016 bà Ngợi cùng các con mới biết có việc cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho ông Phong bà Nghiệm là không xét đến quyền lợi của chủ sủ dụng đất,
khơng đảm bảo tính cơng khai, chính xác khi thực hiện thủ tục xét cấp giấy chứng
nhận.
10


Từ những phân tích trên UBND huyện Gia Lộc chỉ căn cứ trên đơn xin cấp đất
chỉ có bà Nghiệm ký để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ơng Phong, bà
Ngiệm là hồn tồn khơng đúng quy định pháp luât đất đai về trình tự, thủ tục xét
duyệt hồ sơ và cấp đất. Đồng thời từ ngày bà Nghiệm ơng Phong có hồ sơ xin cấp giấy
chứng nhận là năm 2002 nhưng mãi đến năm 2007 UBND huyện Gia Lộc mới tiến
hành cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là không đúng quy định về thời hạn cấp
giấy chứng nhận (theo quy định tại Điều 135 Nghị định 181/2004 là không được quá

55 ngày).
Từ những phân tích và lập luận nêu trên, cho thấy UBND huyện Gia Lộc đã cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không đúng đối tượng sử dụng đất, không đủ điều
kiện được cấp đất, khơng đúng nguồn gốc đất và trình tự thủ tục để cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất không đúng quy định ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi
của bà Ngợi cũng như các đồng thừa kế khác.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 106 Luật Đất đai 2013 thì
“2. Nhà nước thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp trong các trường hợp sau đây:
d) Giấy chứng nhận đã cấp không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng sử dụng
đất, khơng đúng diện tích đất, khơng đủ điều kiện được cấp, khơng đúng mục đích sử
dụng đất hoặc thời hạn sử dụng đất hoặc nguồn gốc sử dụng đất theo quy định của
pháp luật đất đai, trừ trường hợp người được cấp Giấy chứng nhận đó đã thực hiện
chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo quy định của
pháp luật đất đai.”
Nay do xã Tân Hưng đã sáp nhập vào UBND thành phố Hải Dương. Tại văn bản thể
hiện quan điểm ngày 22/08/2016 gửi cho Tòa án thành phố Hải Dương, UBND Thành
phố Hải Dương đã thừa nhận việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông
Phong và bà Nghiệm là chưa đúng trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật nhưng
vẫn khơng có bất kỳ động thái nào để thu hồi giấy chứng nhận đã cấp, đảm bảo quyền
lợi cho bà Ngợi và các đồng thừa kế khác mà chờ đợi phán quyết bằng Bản án của Tịa
án.
Từ những lập luận nêu trên, chúng tơi kính đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết
và yêu cầu hủy bỏ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 734508 tờ bản đồ số 03
thửa đất 334, diện tích 1.181 m2 do UBND huyện Gia Lộc cấp cho anh Nguyễn Hữu
Phong và chị Nguyễn Thị Nghiệm.
Cảm ơn Hội đồng xét xử và những người tham gia phiên tịa hơm nay đã lắng nghe
phần tranh luận của tơi
Tơi đã trình bày xong, mời Hội đồng xét xử tiếp tục làm việc.

11



VI. PHẦN NHẬN XÉT
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………

12


…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………


…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………
13


…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
……………………………………………………


…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
……………………………………………………
14


…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
……………………………………………………
…………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
……………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
……………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
15


…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
……………………
…………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………

16


…………………

17



×