Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.81 KB, 16 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span>LÊ VĂN TÁM Là con một chiến sĩ Nam kì khởi nghĩa, Lê Văn Tám làm nghề bán lạc rang, đánh giày ở chợ Đakao (Sài Gòn). Lê Văn Tám thường la cà ở những nơi quân Pháp đóng để bán hàng nên anh biết giặc Pháp đang tập trung quân và vũ khí đạn dược để chiếm vùng tự do của ta. Hình ảnh những hòm đạn, trái bom cùng những cảnh giết chóc, tàn phá dã man của địch đối với đồng bào ta đã thôi thúc Tám nảy ra ý định phá kho xăng, đạn của chúng. Sau khi dò la, quan sát địch, Tám dấu xăng trong người rồi khoác thùng lạc rang đi bán cho bọn lính gác như thường lệ. Lợi dụng lúc địch sơ hở, Tám chạy như bay vào kho xăng rồi bật diêm. Lửa bốc lên từ người Tám đã làm cho kho xăng và đạn dược của Pháp bốc cháy, khói lửa ngút trời. Lê Văn Tám đã hy sinh anh dũng để lại trong trí nhớ của nhân dân ta hình ảnh một “Cây đuốc sống” với sự cảm phục, tiếc thương..
<span class='text_page_counter'>(2)</span> LÊ HỒNG PHONG (1902 – 1942) Là một trong những người lập nên nhóm Tâm Tâm Xã, được Bác Hồ giác ngộ Cách mạng và cử sang Liên Xô học. Năm 1935, đồng chí là trưởng đoàn đại biểu Đảng ta dự Đại hội lần thứ 7 của Quốc tế Cộng Sản và được bầu là Uỷ viên dự khuyết Quốc tế Cộng Sản. Tham gia lãnh đạo thời kì “Mặt trận dân chủ”, bị địch bắt, đồng chí đã tuyệt đối trung thành với Đảng. Chúng đày đồng chí ra Côn Đảo. Bị lao động khổ sai và hành hạ liên miên đến kiệt sức, đồng chí mất ngày 06/9/1942. Trước khi nhắm mắt, đồng chí nhắn lại: “Nhờ các đồng chí nói với Đảng rằng tới giờ phút cuối cùng Lê Hồng Phong vẫn một lòng tin tưởng ở thắng lợi vẻ vang của Cách mạng”..
<span class='text_page_counter'>(3)</span> NGUYỄN THỊ MINH KHAI (1910 – 1941) Tham gia Cách mạng từ năm 17 tuổi, Nguyễn Thị Minh Khai đã được Bác Hồ huấn luyện và cử sang Liên Xô học tập. Sau khi tham gia Đại hội Quốc tế Cộng Sản lần thứ 7, về nước đồng chí làm Bí thư thành uỷ Sài Gòn - Chợ Lớn. Bị địch bắt, đồng chí đã nêu cao khí tiết bảo vệ Cách mạng. Nguyễn Thị Minh Khai đã hy sinh anh dũng tại pháp trường Bà Điểm năm 1941, lúc ấy đồng chí mới vừa 31 tuổi..
<span class='text_page_counter'>(4)</span> NGUYỄN VIẾT XUÂN Tháng 8 năm 1964, giặc Mỹ bắt đầu cho máy bay bắn phá gây tội ác ở miền Bắc. Thiếu uý Nguyễn Viết Xuân cùng đồng đội hành quân lên miền tây Quảng Bình để bảo vệ vùng trời Tổ quốc. Buổi sáng ngày 18 tháng 11 năm 1964, máy bay địch lại đến bắn phá dữ dội. Vào giờ phút ác liệt đó, bỗng vang lên lời kêu gọi của chính trị viên đại đội Nguyễn Viết Xuân: - Các đồng chí! Hãy nhằm thẳng quân thù mà bắn! Tiếng anh truyền đi, cả trận địa như tiếp thêm sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng kẻ thù. Anh Nguyễn Viết Xuân đã anh dũng hy sinh trong trận chiến ấy, nhưng lời kêu gọi của anh đã được Bộ tư lệnh phòng không lấy làm khẩu lệnh tấn công: “Nhằm thẳng quân thù, bắn!”..
<span class='text_page_counter'>(5)</span> LÝ TỰ TRỌNG (1914 – 1931) Lý Tự Trọng tức “Trọng con”, sinh ngày 15/10/1914, con của một gia đình Cách mạng, quê ở Hà Tĩnh, cư trú tại Thái Lan. Năm 1925 lúc 11 tuổi, anh là một trong bảy thiếu niên được Bác Hồ trực tiếp bồi dưỡng ở Quảng Châu (Trung Quốc). Năm 1929 anh được đưa về nước hoạt động, làm liên lạc cho xứ ủy Nam Kỳ và ở tại Sài Gòn. Ngày 09/02/1931 anh đã bắn chết tên thanh tra mật thám Pháp Lơ-grăng để bảo vệ đồng chí diễn thuyết của mình, anh bị giặc Pháp bắt, mặc dù bị tra hỏi, dụ dỗ nhưng anh vẫn kiên trung với Cách mạng. Trước tòa đại hình của thực dân Pháp anh đã nói “Con đường của thanh niên chỉ có thể là con đường Cách mạng và không thể là con đường nào khác”. Anh hy sinh khi mới tròn 17 tuổi, anh là đoàn viên Thanh niên Cộng Sản đầu tiên của Đoàn ta..
<span class='text_page_counter'>(6)</span> KƠPA-KƠLONG KơPa-KơLong dân tộc Gia-Rai, Tây nguyên, sinh ngày 19/8/1948. Lúc 13 tuổi KơPa-KơLong xin nhập đội du kích nhưng không được chấp nhận vì còn nhỏ tuổi, KơLong tự làm lấy nỏ, vót tên, phục kích bắn giặc, anh đã giết 3 tên giặc và sau đó được gia nhập du kích. Anh đã cùng đồng đội mưu trí đánh nhiều trận diệt giặc Mỹ và xe cơ giới địch. Năm 15 tuổi, anh đã cùng đồng đội đánh 30 trận, giật 12 quả mìn, diệt 8 xe cơ giới, diệt 88 tên địch. Anh được phong tặng danh hiệu anh hùng Quân giải phóng vào năm 1967 lúc anh tròn 19 tuổi..
<span class='text_page_counter'>(7)</span> KIM ĐỒNG Kim Đồng tên thật là Nông Văn Dền, dân tộc Nùng, sinh năm 1928 ở thôn Nà Mạ, xã Xuân Hòa, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Anh là đội trưởng trong 5 đội viên đầu tiên của Đội. Kim Đồng theo cách mạng làm liên lạc. Trong một lần đi liên lạc về giữa đường gặp địch phục kích, Kim Đồng nhanh trí nhữ cho địch nổ súng về phía mình. Nhờ tiếng súng báo động ấy các đồng chí cán bộ ở gần đó nhanh chóng thoát lên rừng. Kim Đồng đã anh dũng hy sinh tại một địa điểm gần ngay bờ suối Lê Nin. Hôm ấy là ngày 15/02/1943, anh vừa tròn 14 tuổi. Anh được Nhà nước ta phong tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang”..
<span class='text_page_counter'>(8)</span> VÕ THỊ SÁU Võ Thị Sáu tên thật là Nguyễn Thị Sáu, quê ở làng Đất Đỏ, huyện Long Đất, tỉnh Bà Rịa. Năm 1949 (lúc chị 13 tuổi), chị đã dùng lựu đạn giết một tên quan Pháp và làm bị thương 20 tên lính ngay tại vùng Đất Đỏ. Năm 1950, chị phục kích giết tên Cai tổng Tòng là một tên Việt gian bán nước, ác ôn ngay tại xã nhà. Lần ấy chị bị địch bắt. Chúng giam chị tại Côn Đảo. Trong ngục giam những người bị án tử hình, chị vẫn hồn nhiên, vui tươi, tin tưởng vào ngày chiến thắng của Tổ quốc. Chị đã nói “Vì Tổ quốc, vì đồng bào tôi sẵn sàng hy sinh cả tuổi thanh xuân của mình”. Chị hy sinh năm 1952 tại Côn Đảo..
<span class='text_page_counter'>(9)</span> NGUYỄN VĂN TRỖI Nguyễn Văn Trỗi quê ở xã Thanh Quýt, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Năm 15 tuổi anh ra Đà Nẵng làm việc rồi vào Sài Gòn làm thợ điện. Anh là chiến sĩ biệt động của đội biệt động Sài Gòn. Anh nhận nhiệm vụ đặt bom tại cầu Công Lý để giết tên Mác-Na-Ma-Ra, bộ trưởng Bộ Quốc phòng của Mỹ đến Sài Gòn. Ngày 09/5/1964, trong khi chuẩn bị thực hiện nhiệm vụ thì anh bị địch bắt. Chúng tra tấn anh rất dã man và tìm mọi cách dụ dỗ nhưng anh vẫn không hề lay chuyển. Cuối cùng giặc đã giết anh vào ngày 15/10/1964. Anh đã được Nhà nước truy tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang”..
<span class='text_page_counter'>(10)</span> DƯƠNG VĂN NỘI Dương Văn Nội quê ở Nam Hà, gia đình chuyển ra Hà Nội để kiếm sống. Năm 14 tuổi, anh Nội tham gia đội cứu quốc Thủ đô, làm liên lạc cho một đại đội tự vệ chiến đấu ở khu Thăng Long . Đầu năm 1947, giặc Pháp tấn công vào nơi đóng quân của Đội du kích Thủ đô. Anh Nội đã cùng đồng đội chiến đấu chống giặc, với khẩu súng trường trong tay, anh đã giết chết 3 tên giặc Pháp và đã hy sinh oanh liệt. Hôm ấy là ngày 12/4/1947, anh mới sang tuổi 15. Anh đã được Nhà nước truy tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang”..
<span class='text_page_counter'>(11)</span> HỒ VĂN MÊN Hồ Văn Mên sinh năm 1953 tại ấp Thạnh Lộc, xã An Thạnh, huyện Lái Thiêu, tỉnh Long An trong một gia đình nghèo. Cha anh bị giặc giết hại. Năm 10 tuổi, anh vào đội thiếu nhi để giết giặc. Năm 13 tuổi, anh tham gia 7 trận đánh lớn, nhỏ, diệt 79 tên địch gồm sĩ quan Mỹ, ngụy và lính Đại Hàn. Nhiều tên đất, tên làng mang dấu tích, chiến công của anh và đi vào lịch sử của tỉnh Long An. Trận đánh nổi tiếng nhất là trận diệt 59 sĩ quan và binh lính ở sòng bạc Phú Vân. Năm 1965, Hồ Văn Mên được ra Bắc thăm Bác Hồ. Anh mất ngày 05/3/1984 do vết thương cũ tái phát..
<span class='text_page_counter'>(12)</span> LA VĂN CẦU La Văn Cầu (sinh năm 1932) là người dân tộc Tày, quê xã Khâm Thành, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Trong kháng chiến chống Pháp, từ năm 1948 đến năm 1952, ông tham gia chiến đấu 29 trận. Trong Trận Đông Khê (Chiến dịch biên giới năm 1950), khi đang chỉ huy tổ bộc phá hàng rào để đơn vị tiến công đồn, ông bị thương gẫy nát cánh tay, và đã nhờ đồng đội chặt đứt để khỏi vướng, dùng tay trái ôm bọc phá đánh mở đường, tạo thời cơ cho đơn vị đánh chiếm đồn địch. Do thành tích trong chiến đấu, ngày 19 tháng 5 năm 1952, ông được Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Cùng năm đó, ông được trao tặng danh hiệu Anh hùng thi đua ái quốc. Ông được phong hàm Đại tá từ năm 1985, và được tặng Huân chương quân công, hạng nhì, hạng ba và Huân chương kháng chiến hạng nhất..
<span class='text_page_counter'>(13)</span> VỪ A DÍNH Vừ A Dính là con một gia đình dân tộc Mèo ở xã Pú Nhung, huyện Tuần Giáo, tỉnh Lai Châu. Lúc 13 tuổi, Vừ A Dính đã hăng hái xin gia nhập đội võ trang và ngày ngày làm nhiệm vụ canh gác, liên lạc, tiếp tế gạo, muối cho nhân dân bị địch bao vây… Một hôm vừa đi công tác về bị địch vây bắt, đánh đập dã man, bắt chỉ đường đi bắt cán bộ và đồng bào. Vừ A Dính bày mưu bắt chúng làm cáng khiêng anh đi một ngày đường để lại trở về nơi cây đào là nơi xuất phát mà chả tìm được gì. Căm tức, giặc treo Vừ A Dính lên cành đào rồi bắn chết. Ghi công Vừ A Dính, Đảng và Nhà nước ta đã phong tặng danh danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân..
<span class='text_page_counter'>(14)</span> Phan Đình Giót (1922-1954) Quê anh ở xã Cẩm Quan, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Anh nhập ngũ năm 1950, đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Trong trận Him Lam ngày 13 tháng 3 năm 1954 thuộc chiến dịch Điện Biên Phủ), khi Phan Đình Giót phá hàng rào cuối cùng thì bị thương, lực lượng xung kích của tiểu đoàn 428 xung phong vào cứ điểm, bị đối phương trong lô cốt bắn cản dữ dội. Phan Đình Giót nhanh chóng trườn lên dùng tiểu liên, lựu đạn diệt hỏa điểm địch, đạn hết, hỏa điểm địch vẫn chưa bị diệt, Phan Đình Giót liền lao cả thân mình lấp lỗ châu mai, tạo điều kiện cho đơn vị xông lên tiêu diệt cứ điểm Him Lam. Anh được tặng Huân chương Quân công hạng nhì..
<span class='text_page_counter'>(15)</span> Cù Chính Lan (1930 - 1951) Anh Cù Chính Lan quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Anh là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, được tuyên dương Anh hùng Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngày 13 tháng 12 năm 1951, trong trận tấn công cứ điểm Giang Mở, cách thị xã Hòa Bình 8 km về phía Nam, Cù Chính Lan đã một mình đuổi xe tǎng Pháp, nhảy lên thành xe, ném lựu đạn vào buồng lái để tiêu diệt địch. Cù Chính Lan hy sinh ngày 29 tháng 12 năm 1951, khi tham gia đánh đồn Cô Tô. Ông được Chính phủ và Hồ Chủ tịch truy tặng Huân chương Quân công hạng hai, Huân chương Kháng chiến hạng nhất, truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
<span class='text_page_counter'>(16)</span> Anh Bế Văn Đàn (1931-1954) Anh Bế Văn Đàn người dân tộc Tày, quê ở xã Quang Vinh, huyện Phục Hoà, tỉnh Cao Bằng. Chiến dịch Đông Xuân năm 1953 - 1954, Bế Văn Đàn làm liên lạc tiểu đoàn. Một khẩu trung liên của đơn vị không bắn được vì xạ thủ hy sinh. Khẩu trung liên của Chu Văn Pù cũng chưa bắn được vì không có chỗ đặt súng, tình thế hết sức khẩn trương, không ngần ngại Bế Văn Đàn chạy lại cầm 2 khẩu trung liên đặt lên vai mình và hô bạn bắn. Đồng chí Pù còn do dự thì Bế Văn Đàn đã nói: ''Kẻ thù trước mặt, đồng chí có thương tôi thì bắn chết chúng nó đi''. Trong lúc lấy thân mình làm giá súng, anh Bế Văn Đàn bị hai vết thương nữa và đã anh dũng hy sinh. Trong đại hội mừng công của đơn vị, anh Bế Văn Đàn được truy tặng Huân chương chiến công hạng nhất và được bình bầu là chiến sĩ thi đua số một của tiểu đoàn. Với những thành tích đặc biệt xuất sắc, ngày 31/8/1955, anh được Quốc hội truy tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và Huân chương quân công hạng nhì..
<span class='text_page_counter'>(17)</span>