Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Bai du thi Thanh hoa voi chien thang dien bien phu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.13 KB, 5 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

Thanh Hóa với Chiến thắng Điện Biên Phủ; phát huy


truyền thống Điện Biên Phủ xây dựng Thanh Hãa



thµnh tØnh kiĨu mÉu


Họ và tên: Nguyễn Văn Thọ



Đơn vị công tác : Trường THCS Thành Lộc - Hậu Lộc - Thanh Hóa



<i><b>Câu hỏi 1: Những diễn biến chính của Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ 1954?</b></i>
Ngày 25/1/1954, các đơn vị bộ đội ta ở vị trí tập kết sẵn sàng nổ súng theo phương châm tác
chiến “đánh nhanh, giải quyết nhanh”. Nhưng nhận thấy địch đã tăng cường lực lượng phòng ngự
vững chắc, Bộ Chỉ huy và Đảng uỷ chiến dịch đã đưa ra quyết định đúng đắn: giữ vững quyết tâm
tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, thay đổi phương châm tác chiến sang “đánh chắc, tiến
chắc”. Đây là quyết định đúng đắn nhưng ta cũng gặp khơng ít khó khăn. Đó là, thời gian tác chiến
dài hơn, cách đánh cũng khác nên có những việc ta phải chuẩn bị lại từ đầu, nhất là việc tổ chức, bố
trí hệ thống hoả lực chiến dịch. Với địa hình hiểm trở, pháo của ta kéo vào tập trung tại trận địa đã
khó khăn, nay thay đổi phương châm tác chiến lại phải kéo pháo phân tán ra các trận địa mới trên
các điểm cao tạo thành vòng cung bao vây tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, để bắn trực tiếp vào
các mục tiêu dưới lịng chảo càng khó khăn hơn. Với tinh thần quả cảm, không quản ngại gian khổ,
hy sinh, quân và dân ta đã tìm mọi cách vượt qua thử thách hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.


Trận quyết chiến lược Điện Biên Phủ đã diễn ra 3 đợt.


<b>Đợt 1: Từ ngày 13 đến 17/3/1954, quân ta đã mưu trí dũng cảm tiêu diệt gọn cứ điểm Him</b>
Lam và Độc Lập, bức hàng cứ điểm Bản Kéo, phá vỡ cửa ngõ phía Bắc của tập đồn cứ điểm Điện
Biên Phủ; diệt và bắt sống trên 2000 tên địch, phá hủy 25 máy bay, xóa sổ 1 trung đồn, uy hiếp sân
bay Mường Thanh; Pi rốt, Tư lệnh pháo binh Pháp ở Điện Biên Phủ bất lực trước pháo binh của ta
đã dùng lựu đạn tự sát.


<b>Đợt 2: Từ ngày 30/3 đến ngày 30/4/1954, quân ta đồng loạt tiến cơng các cứ điểm phía Đơng</b>
phân khu trung tâm thắt chặt vịng vây, chia cắt và liên tục tiến cơng, kiểm soát sân bay Mường


Thanh, hạn chế tiếp viện của địch cho tập đoàn cứ điểm. Địch hết sức ngoan cố, muốn kéo dài thời
gian. Na va hy vọng đến mùa mưa ta phải cởi vòng vây. Đây là đợt tấn công dai dẳng, dài ngày
nhất, quyết liệt nhất, gay go nhất, ta và địch giành giật nhau từng tấc đất, từng đoạn giao thông hào.
Đặc biệt tại đồi C1 ta và địch giằng co nhau tới 20 ngày, đồi A1 giằng co tới 30 ngày. Sau đợt tấn
công thứ 2 khu trung tâm Điện Biên Phủ đã nằm trong tầm bắn các loại súng của ta, quân địch rơi
vào tình trạng bị động, mất tinh thần cao độ.


<b>Đợt 3: Từ ngày 1/5 đến ngày 7/5/1954, quân ta đánh chiếm các cứ điểm phía Đơng và mở</b>
đợt tổng cơng kích tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Đêm ngày 6/5/1954, tại đồi
A1 trận chiến đấu giữa ta và địch diễn ra quyết liệt, quân ta ào ạt xông lên tiêu diệt các lô cốt và
dùng thuốc nổ phá các hầm ngầm. Tên quan Tư chỉ huy đồi A1 và khoảng 400 tên địch cịn sống sót
đã phải xin đầu hàng. 17 giờ 30 phút ngày 7/5/1954, ta chiếm sở chỉ huy của địch, tướng Đờ Cát
cùng tồn bộ Bộ Tham mưu và binh lính tập đồn cứ điểm Điện Biên Phủ phải ra hàng. Lá cờ
“quyết chiến, quyết thắng” của quân đội ta tung bay trên nóc hầm chỉ huy của địch. Ngay trong đêm
đó quân ta tiếp tục tiến công phân khu Nam, đánh địch tháo chạy về Thượng Lào, đến 24 giờ toàn
bộ quân địch đã bị bắt làm tù binh.


Sau 55 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo quân và dân ta đã đập tan toàn bộ
tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên, bắn rơi 62 máy bay, thu 64 ơ tơ
và tồn bộ vũ khí, đạn dược, quân trang quân dụng của địch.


Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 – 1954 với đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ
là một trận quyết chiến chiến lược, một trận tiêu diệt điển hình nhất, là trận đầu đánh thắng Mỹ, trực
tiếp đưa đến việc ký Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh lập lại hồ bình ở Đơng Dương.
Tạo cơ sở và điều kiện để nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<i><b>1- Nguyên nhân thắng lợi</b></i>


<i>Thứ nhất:</i> Đảng ta, đứng đầu là Hồ Chủ tịch đã đề ra đường lối kháng chiến, đường lối quân


sự độc lập, đúng đắn, sáng tạo. Kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ chiến lược chống đế quốc và phong kiến,
vừa kháng chiến vừa kiến quốc xây dựng chế độ mới. Ngay từ ngày đầu chống thực dân Pháp xâm
lược, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân thực hiện cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, dựa vào sức
mình là chính; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân gồm 3 thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa
phương, dân qn du kích) làm nịng cốt cho toàn dân đánh giặc, kết hợp chặt chẽ chiến tranh du
kích với chiến tranh chính quy; tiến cơng qn sự, địch vận và nổi dậy của quần chúng; đấu tranh
quân sự với đấu tranh chính trị, kinh tế, văn hố, ngoại giao. Trong trận quyết chiến chiến lược Điện
Biên Phủ, lòng yêu nước và tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” đã tạo nên tinh thần quyết
chiến, quyết thắng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, quyết tâm đánh thắng kẻ thù xâm lược,
giành độc lập, tự do cho dân tộc.


<i>Thứ hai:</i> Nhân dân ta rất anh hùng, từ nông thôn đến thành thị, từ miền núi đến miền xuôi, từ
trẻ đến già nghe theo lời kêu gọi của Đảng và Bác Hồ đã phát huy cao độ tinh thần yêu nước, chủ
nghĩa anh hùng cách mạng ra sức thi đua xây dựng hậu phương vững chắc, thi đua giết giặc lập
cơng, đóng góp sức người, sức của bảo đảm đầy đủ mọi điều kiện cho chiến trường, tiếp thêm ý chí
quyết chiến, quyết thắng cho các lực lượng vũ trang ngoài mặt trận.


<i>Thứ ba:</i> Các lực lượng vũ trang nhân dân ta trưởng thành vượt bậc về tư tưởng chính trị, lực
lượng, tổ chức chỉ huy, trình độ tác chiến, trang thiết bị quân sự và bảo đảm hậu cần cho chiến dịch
quân sự quy mô lớn chưa từng có; chấp hành nghiêm mệnh lệnh chiến trường vượt qua mọi khó
khăn, thử thách, mưu trí, sáng tạo, dũng cảm hy sinh lập nhiều chiến công trên khắp chiến trường
Đơng Dương, hồn thành xuất sắc nhiệm vụ ở chiến trường Điện Biên Phủ.


<i>Thứ tư:</i> Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ cịn có sự chi viện, cổ vũ và ủng hộ của các nước
xã hội chủ nghĩa, phong trào đấu tranh vì hồ bình của nhân dân tiến bộ trên tồn thế giới, trong đó
có cả nhân dân Pháp, đặc biệt là của các nước trên bán đảo Đông Dương cùng chung chiến hào, đã
tạo nên sức mạnh thời đại của chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.


<i><b>2- Ý nghĩa lịch sử</b></i>
<i>2.1- Đối với nhân dân ta</i>



Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là
một trong những đỉnh cao chói lọi, một kỳ tích vẻ vang của thời đại Hồ Chí Minh.


Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là chiến
thắng vĩ đại nhất, giáng đòn quyết định tạo bước ngoặt lịch sử làm thay đổi hẳn cục diện chiến tranh
giữa ta và địch trực tiếp đưa đến việc ký kết Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hịa
bình ở Đơng Dương.


Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chín năm chống
thực dân Pháp và can thiệp Mỹ; chấm dứt hoàn toàn ách xâm lược của thực dân Pháp trên đất nước
ta và các nước trên bán đảo Đông Dương; bảo vệ và phát triển thành quả cách mạng Tháng Tám;
một nửa nước được giải phóng, tạo cơ sở và điều kiện vững chắc để nhân dân ta tiến lên giành thắng
lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa
cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.


Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã làm tăng niềm tự hào dân tộc, niềm tin tưởng tuyệt đối
vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện; cổ
vũ tồn Đảng, tồn dân, tồn qn một lịng, một dạ chiến đấu dưới lá cờ vẻ vang của Đảng vì nền
độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.


<i>2.1- Đối với thế giới</i>


Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ mang tầm vóc thời đại, góp phần to lớn vào phong trào
đấu tranh vì hồ bình, tiến bộ của nhân loại.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là chiến thắng chung của các nước trên bán đảo Đông
Dương, chiến thắng của phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế, của phong trào đấu tranh vì hịa
bình, tiến bộ xã hội trên tồn thế giới.



Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ của dân tộc ta đã chứng minh một chân lý của thời đại: các dân
tộc bị áp bức, bị xâm lược nếu có ý chí kiên cường và đường lối đúng đắn, sáng tạo, biết đồn kết
đấu tranh vì độc lập tự do thì dân tộc đó nhất định thắng lợi; đã thơi thúc và cổ vũ các nước thuộc
địa ở châu Á, châu Phi, Mỹ la tinh đứng lên đấu tranh tự giải phóng, thoát khỏi ách xâm lược của
chủ nghĩa thực dân, đế quốc


Chiến thắng này cũng chứng minh chân lý của thời đại

“Một dân tộc dù nhỏ bé, nếu biết


<i>quyết tâm, đoàn kết chiến đấu và có một đường lối đúng thì có thể đánh bại được bất cứ tên</i>


<i>đế quốc sừng sỏ nào”. </i>



<i><b>3. Vai trò của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp</b></i>


- Là một trong những người chọn Điện Biên Phủ là nơi quyết chiến giữa ta và Pháp, đây là cơ
hội tốt để ta tiêu diệt địch, là trận đánh quyết định để kết thúc chiến tranh.


- Đại tướng Võ Nguyên Giáp được cử làm Tư lệnh chiến dịch kiêm Bí thư Đảng ủy Mặt trận
Điện Biên Phủ.


- Được Bác Hồ trao cho tồn quyền quyết định, “Có vấn đề gì khó khăn, bàn thống nhất trong
Đảng ủy, thống nhất với cố vấn thì cứ quyết định, rồi báo cáo sau”.


- Đánh dấu sự thành công của nghệ thuật chiến tranh du kích.
- Thấy rõ ba khó khăn lớn của bộ đội để có hướng khắc phục:


+ Thứ nhất, bộ đội chủ lực ta đến nay chỉ tiêu diệt cao nhất là tiểu đồn địch tăng cường, có
cơng sự vững chắc ở Nghĩa Lộ. Ở Nà Sản, chúng ta mới đánh vào vị trí tiểu đồn, dưới tiểu đồn,
cơng sự dã chiến nằm trong tập đoàn cứ điểm, vẫn có những trận khơng thành cơng, bộ đội thương
vong nhiều.


+ Thứ hai, trận này tuy ta khơng có máy bay, xe tăng, nhưng đánh hiệp đồng binh chủng bộ


binh, pháo binh với quy mô lớn lần đầu, mà lại chưa qua diễn tập.


+ Thứ ba, bộ đội ta từ trước đến nay mới chỉ quen tác chiến ban đêm, ở những địa hình dễ ẩn
náu. Chủ lực ta chưa có kinh nghiệm cơng kiên ban ngày trên địa hình bằng phẳng, với một kẻ địch
có ưu thế về máy bay, pháo binh và xe tăng. Trận đánh sẽ diễn ra trên một cánh đồng dài 15 km,
rộng 6-7 km...


- Quan sát kỹ trận địa, phân tích mặt mạnh, yếu của ta và địch và quyết định hỗn cuộc tiến
cơng. Ra lệnh cho bộ đội trên toàn tuyến lui về địa điểm tập kết, và kéo pháo ra. Công tác chính trị
bảo đảm triệt để chấp hành mệnh lệnh lui quân như mệnh lệnh chiến đấu. Hậu cần chuyển sang
chuẩn bị theo phương châm mới.


- Ơng đã quyết đốn thay đổi phương châm từ “đánh nhanh thắng nhanh” sang “đánh chắc,
tiến chắc”.


<i><b>Câu hỏi 3 : “Bây giờ tiếng Việt Nam đến đâu, tiếng Điện Biên Phủ đến đó. Tiếng Điện Biên Phủ</b></i>
<i><b>đến đâu, đồng bào Thanh Hóa cũng có một phần vinh dự đến đó”. (Hồ Chủ tịch). Bạn hãy cho</b></i>
<i><b>biết Bác nói câu nói trên vào thời gian nào? ở đâu? Phân tích để làm rõ câu nói trên?.</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, cũng như trong dựng xây đất nước, Thanh Hóa ln nhận được sự
quan tâm sâu sắc của Trung ương Đảng và Bác Hồ kính yêu và là một trong những tỉnh có vinh dự
được đón Bác về thăm nhiều lần.


<i><b>Câu hỏi 4: Phát huy truyền thống Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, 60 năm qua, Đảng bộ và</b></i>
<i><b>nhân dân Thanh Hóa đã đạt được những thành tựu nổi bật gì trong công cuộc bảo vệ và xây</b></i>
<i><b>dựng quê hương Thanh Hóa nói riêng và đất nước nói chung?.</b></i>


Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, Thanh Hóa ln là một trong những tỉnh có vị trí chiến
lược quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; trong cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, cũng như trong dựng xây đất nước, Thanh Hóa ln nhận được


sự quan tâm sâu sắc của Trung ương Đảng và Bác Hồ kính u và là một trong những tỉnh có vinh
dự được đón Bác về thăm nhiều lần.


Sau Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, miền Bắc đi lên
xây dựng CNXH, miền Nam tiếp tục cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Lúc này, nhiệm vụ đặt ra
cho Đảng bộ, quân, dân các dân tộc Thanh Hóa hết sức nặng nề, vừa phải tập trung khôi phục hàn
gắn vết thương chiến tranh, tiến hành cải tạo XHCN, phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, vừa lo chi
viện sức người, sức của cho cách mạng miền Nam và giúp đỡ cách mạng Lào.


Như được tiếp thêm sức mạnh, Đảng bộ, qn dân Thanh Hóa đã đồn kết một lịng, vượt
qua mn vàn khó khăn, gian khổ, phát động rộng khắp các phong trào thi đua lao động sản xuất,
tập trung xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, kết cấu hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống.
Nhiều cơng trình thủy lợi, hồ đập, cầu cống, đường giao thơng, nhà máy, xí nghiệp; hàng chục
trường chun nghiệp, các trường phổ thông cấp I, cấp II, cấp III; các bệnh viện từ tuyến tỉnh đến
tuyến huyện... được đầu tư xây dựng, đã làm biến đổi sâu sắc bộ mặt kinh tế - xã hội của tỉnh, chăm
lo đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, xây dựng hậu phương ngày càng vững mạnh. Từ các
phong trào thi đua yêu nước ấy, trên tất cả các ngành, lĩnh vực, địa phương đã xuất hiện khơng ít
những tập thể, cá nhân “kiểu mẫu” được Bác Hồ khen ngợi, đó là các HTX Đông Phương Hồng,
Yên Trường, Thắng Lợi, Định Công, HTX tiểu - thủ công nghiệp Thành Công, Nhà máy Cơ khí
Thanh Hóa...; và cả những chiến sĩ xuất sắc trên lĩnh vực sản xuất nông nghiệp như: “Trịnh Xuân
Bái, Nguyễn Thế Khương, Nguyễn Văn Thiệp, đã là những người con ưu tú của Tổ quốc, của tỉnh
nhà, là người xung phong cho nhân dân ta noi theo”.


Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Thanh Hóa là một trong những địa phương của
miền Bắc XHCN, phải đương đầu trực tiếp với chiến tranh phá hoại của kẻ thù. Nghe theo lời kêu
gọi của Đảng và Bác Hồ kính yêu, quân và dân Thanh Hóa đã dũng cảm chiến đấu 10.158 trận, bắn
rơi 376 máy bay, bắt sống 36 giặc lái, bắn cháy 57 tàu chiến của giặc Mỹ. Trong khói lửa của cuộc
chiến tranh ác liệt ấy, những địa danh Hàm Rồng, Đò Lèn, Lạch Trường, Phà Ghép; những tấm
gương chiến đấu quên mình của dân quân Nam Ngạn, Yên Vực; của lão dân quân Hoằng Trường;
nữ dân quân Hoa Lộc, nữ dân quân Thanh Thủy, Hoằng Hải, Hà Phú, Hà Toại... và biết bao những


người con ưu tú khác của quê Thanh dũng cảm trong chiến đấu, đã trở thành biểu tượng cao đẹp của
chủ nghĩa anh hùng cách mạng thời đại Hồ Chí Minh.


Ghi nhận những cơng lao to lớn đó, Đảng và Nhà nước đã tặng thưởng Huân chương Sao vàng
- Huân chương cao quý nhất cho Đảng bộ và nhân dân Thanh Hóa; lực lượng vũ trang Thanh Hóa
được phong tặng anh hùng; 1.468 bà mẹ được phong và truy tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh
hùng”; 197 tập thể, 107 cá nhân được phong tặng và truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ
trang nhân dân; 17 tập thể và 16 cá nhân được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động.


Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, khắc ghi lời dạy và thực hiện Di chúc
thiêng liêng của Hồ Chủ tịch, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Thanh Hóa đã tập trung “hàn gắn
vết thương chiến tranh”, khôi phục sản Xuất. Các công trình thủy lợi sơng Lý, sơng Hồng, hồ Sơng
Mực, hồ n Mỹ; cơng trình quai đê lấn biển; nhiều tuyến đường giao thơng, trường học, bệnh
viện, nhà máy, xí nghiệp... đã được đầu tư xây dựng bằng sự huy động tổng hợp các nguồn lực,
bằng tinh thần đoàn kết, ý chí quyết tâm và sức lao động thủ cơng của nhân dân trong tỉnh, đến nay
vẫn tiếp tục phát huy tác dụng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

thiếu đói, đến nay, tỉnh ta đã đạt trên 1,6 triệu tấn lương thực, bảo đảm cân đối trên địa bàn; một số
vùng sản xuất nguyên liệu tập trung cho cơng nghiệp chế biến như: mía, cao su, vùng sắn, vùng
luồng đã được hình thành. Mơ hình hợp tác giữa nơng dân trồng mía với Nhà máy Đường Lam Sơn
đã trở thành điểm sáng trong thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn những năm gần đây.
Cùng với nông nghiệp, sản xuất công nghiệp tiếp tục tăng trưởng khá, Thanh Hóa là một trong
những tỉnh dẫn đầu cả nước về sản lượng xi - măng và mía đường. Các khu công nghiệp, Khu Kinh
tế Nghi Sơn được thành lập, với hàng chục dự án lớn đã và đang được triển khai thực hiện, từng
bước hình thành những ngành cơng nghiệp then chốt của tỉnh như: xi - măng, luyện cán thép, nhiệt
điện, lọc hóa dầu... Trên địa bàn tỉnh hiện có 42 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, với tổng vốn trên
7 tỷ USD, xếp thứ 9 trong cả nước về thu hút đầu tư nước ngoài; giá trị xuất khẩu đạt gần 500 triệu
USD; thu ngân sách năm 2011, xấp xỉ đạt 5.000 tỷ đồng. Các hoạt động văn hóa - xã hội chuyển
biến tích cực, theo hướng nâng cao chất lượng và đẩy mạnh xã hội hóa; nhiều phong trào thi đua
như “Ơng bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo”, “Gia đình nơng dân thi đua sản xuất giỏi”,


được khởi xướng từ Thanh Hóa, đã và đang được nhân rộng trên phạm vi cả nước. Quốc phòng
-an ninh được giữ vững; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện. Công
tác xây dựng Đảng được coi trọng; khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố.


Làm theo lời Bác, 60 năm qua, Thanh Hóa đã xây dựng và đào tạo hàng vạn cán bộ từ tỉnh
đến cơ sở, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ và năng lực công tác; các thế hệ cán bộ kế
tiếp nhau, ngày càng trưởng thành, không chỉ đáp ứng yêu cầu xây dựng quê hương, mà còn chi
viện cho các tỉnh bạn, làm nhiệm vụ quốc tế; trong đó, một số cán bộ trưởng thành từ Thanh Hóa
được tin tưởng giao giữ nhiều trọng trách trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, mặt trận và các
đoàn thể ở Trung ương. Đó chính là tiền đề vững chắc để tương lai không xa nữa tỉnh ta sẽ trở thành
tỉnh “kiểu mẫu”, đáp lại niềm mong ước của Bác và sự quan tâm sâu sắc của Trung ương Đảng,
Chính phủ; sự giúp đỡ, hỗ trợ của các tỉnh bạn và đồng bào cả nước.


<i><b>Câu hỏi 5: Liên hệ trách nhiệm của bản thân trong phát huy truyền thống Chiến thắng lịch sử</b></i>
<i><b>Điện Biên Phủ để xây dựng Thanh Hóa thành tỉnh kiểu mẫu?.</b></i>


Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu trên, trước mắt, chúng ta cần trung thực hiện tốt 3 chương
trình kinh tế - xã hội trọng tâm, đó là: Chương trình xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, tập
trung tạo ra bước đột phá trong xây dựng nông thôn mới, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản hồn
thành mục tiêu huyện nơng thơn mới. Chương trình nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đẩy mạnh
chuyển dịch lao động nông nghiệp sang lĩnh vực công nghiệp, tiểu - thủ cơng nghiệp, dịch vụ và
chương trình nâng cao chất lượng tồn diện các hoạt động văn hóa - xã hội theo hướng chuẩn hóa,
xã hội hóa. Trên cơ sở 3 chương trình kinh tế - xã hội trọng tâm, căn cứ tình hình thực tế,


Bản thân cần phải


- Ra sức học tập, nghiên cứu để nhận thức rõ con đường đi lên CNXH ở nước ta, kiên định lí tưởng
“độc lập dân tộc và CNXH”. Xây dựng ý chí tự lực, tự cường, khơng chịu đói nghèo lạc hậu.
- Thường xuyên học tập để không ngừng nâng cao trình độ học vấn, nhanh chóng tiếp cận và làm
chủ được khoa học và công nghệ mới.



- Nâng cao ý thức cảnh giác, kiên quyết đập tan âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ
Đảng, bảo vệ đất nước, phòng chống các tệ nạn xã hội, góp phần tích cực trong giữ gìn trật tự an
tồn giao thơng và an ninh xã hội, quốc gia.


- Tiếp thu và phát huy truyền thống cách mạng của Đảng, của dân tộc, xây dựng lòng yêu nước
nồng nàn, ý thức trách nhiệm công dân, phát huy tinh thần sáng tạo, vượt khó khăn, ý chí tự lực, tự
cường dân tộc, phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng , văn minh.


- Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa Việt nam, tiếp thu tinh hoa-văn hóa nhân loại.
- Phát huy tinh thần sẵn sàng, thực hiện lời Bác Hồ dạy.


</div>

<!--links-->

×