Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Tài liệu Cường giáp (Phần 2) pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.33 KB, 5 trang )

Cường giáp
(Phần 2)

Triệu chứng của cường giáp là gì?
Cường giáp được gợi ý bằng một số dấu hiệu và triệu chứng. Bệnh nhân nhẹ
thường không có triệu chứng. Ở bệnh nhân trên 70 tuổi, biểu hiện kinh điển cũng có
thể không thấy được. Nói chung, các triệu chứng càng rõ ràng thì tình trạng bệnh càng
xấu đi. Các triệu chứng thường liên quan đến tăng chuyển hoá cơ thể. Các triệu chứng
phổ biến nhất được liệt kê dưới đây:

Tăng tiết mồ hôi.

Không chịu được nóng.

Tăng nhu động ruột.

Run.

Lo lắng, kích thích.

Nhịp tim nhanh.

Sụt cân.

Mệt.

Giảm tập trung.
Ở bệnh nhân trẻ, nhịp tim nhanh, không đều và suy tim có thể xảy ra. Có một số
trường hợp nặng, nếu không điều trị kịp thời sẽ đưa đến cơn “ bảo giáp”, bao gồm cao
huyết áp, sốt, suy tim.
Chẩn đoán cường giáp như thế nào ?


Nghi ngờ cường giáp khi một người có triệu chứng run tay, đổ mồ hôi nhiều, da
ẩm mịn, có thể có phù quanh mi mắt, lồi mắt. Diễn tiến của những triệu chứng này
thường dễ phát hiện. Còn ở người già triệu chứng cường giáp thường kín đáo. Trong
mọi trường hợp xét nghiệm máu là rất cần thiết để chẩn đoán bệnh.
Hormon tuyến giáp có thể được đo trực tiếp và thường tăng cao trong cường
giáp. Tuy nhiên, công cụ chính để phát hiện cường giáp lại là đo TSH trong máu.
TSH được bài tiết từ tuyến yên, nếu hormon tuyến giáp được bài tiết quá mức,
TSH sẽ có tác dụng điều hoà làm giảm hormon xuống. Khi TSH giảm xuống, thì tuyến
giáp lại bài tiết hormon trở lại. Do đó, đo lượng TSH có thể giảm hoặc không phát
hiện được trong trường hợp cường giáp. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp ngoại
lệ. Nếu lượng hormon tuyến giáp được bài tiết nhiều quá thường là do u tuyến yên bài
tiết TSH, khi đó lượng TSH tăng cao một cách bất thường. Lúc này người ta gọi là
cường giáp thứ phát ( tức là do nguyên nhân tại tuyến yên chứ không phải tại tuyến
giáp).
Mặc dù xét nghiệm máu giúp chẩn đoán bệnh cường giáp, nhưng nó không giúp
chỉ điểm đặc hiệu nguyên nhân gây ra cường giáp. Biểu hiện ở mắt gần như chắc chắn
để chẩn đoán bệnh Graves ( còn gọi là bệnh Basedow). Chụp CTscan tuyến giáp kết
hợp với tìm kháng thể giúp chẩn đoán nguyên nhân gây cường giáp. Các phương pháp
này được lựa chọn tuỳ trường hợp.
Điều trị cường giáp như thế nào?
Các phương pháp điều trị cường giáp bao gồm :

Điều trị triệu chứng.

Thuốc kháng giáp.

Iodine phóng xạ.

Mỗ.


Điều trị triệu chứng
Đó là những thuốc có thể dùng ngay để điều trị triệu chứng do tăng hormon
tuyến giáp quá mức, cũng như thuốc điều trị nhịp tim nhanh. Một trong những loại
thuốc chính được sử dụng để điều trị triệu chứng này là thuốc ức chế bêta (inderal,
Tenormin, Lopressor). Các thuốc này có tác dụng chống lại sự tăng chuyển hoá do
hormon tuyến giáp gây ra. Bác sĩ là người quyết định đưa ra phác đồ điều trị dựa trên
một số thay đổi bao gồm nguyên nhân của cường giáp, tuổi người bệnh, kích thước
tuyến giáp và các bệnh lý phối hợp.
Thuốc kháng giáp
Có 2 loại thuốc kháng giáp chính có thể được sử dụng : methimazole
(Tapazole), propylthiouracil ( PTU). Những thuốc này sẽ tích tụ ở mô tuyến giáp và ức
chế bài tiết hormon tuyến giáp. Ngoài ra PTU còn ức chế sự chuyển T4 thành T3 hoạt
động. Nguy cơ chính có thể có khi dùng các loại thuốc này là làm giảm bạch cầu của
tủy xương (mất bạch cầu hạt ). (Bạch cầu là loại tế bào máu rất cần thiết cho cơ thể
chống lại bệnh nhiễm trùng ). Người ta không thể khẳng định được khi nào có phản
ứng phụ xảy ra. Vì vậy việc xét nghiệm thuốc trong máu thường không có lợi. Điều
quan trọng đối với người bệnh là phải biết khi nào bị sốt, đau họng và bất kỳ triệu
chứng nào xuất hiện khi đang dùng thuốc thì lập tức đến khám bác sĩ. Nguy cơ giảm
bạch cầu hạt dưới 1%. Thường người bệnh sẽ phải theo đuổi việc điều trị kháng giáp
hàng tháng, người bệnh được theo dõi cho đến khi tuyến giáp về bình thường. Một khi
lượng hormon giáp trong máu ổn định, bệnh nhân có thể đến khám bác sĩ mỗi 3 tháng
một lần, nếu đã có kế hoạch điều trị.
Thường thì việc điều trị kháng giáp lâu dài chỉ áp dụng cho bệnh nhân bị bệnh
Graves, vì vậy hiện nay bệnh này thuyên giảm theo thời gian nhờ vào điều trị bằng xạ
trị hoặc mỗ. Sau 1-2 năm điều trị, tỷ lệ khỏi bệnh khoảng 40-70%. Khi đã khỏi bệnh,
tuyến giáp không lớn thì việc điều trị bằng thuốc kháng giáp là không cần thiết. Các
nghiên cứu mới đây cũng cho thấy việc dùng kết hợp thuốc viên hormon tuyến giáp
với chế độ ăn uống thường có tỷ lệ khỏi bệnh cao. Liều cao thuốc kháng giáp có thể
được dùng kết hợp với thuốc ức chế miễn dịch ở người bị bệnh Graves. Phương pháp
điều trị này vẫn còn bàn cãi

Khi ngưng điều trị, bệnh nhân sẽ tiếp tục đến khám bác sĩ mỗi 3 tháng một lần
trong năm đầu tiên vì bệnh có thể tái phát trong giai đoạn này. Nếu bệnh tái phát, thì
có thể tiếp tục dùng lại thuốc kháng giáp hay iodine phóng xạ hay cũng có thể xem xét
đến việc mỗ.


×