Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Tài liệu Phong-Tục Hôn-Nhân của Dân Việt pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.51 KB, 11 trang )

Phong-Tục Hôn-Nhân của Dân Việt

Khải-Chính Phạm Kim-Thư

I. Hôn-Nhân của Dân Việt
Theo phong-tục Việt, cái gốc của gia-đình gọi là hôn-nhân. Có hôn-nhân mới có vợ
chồng và con cái. Mục-đích của hôn-nhân là để duy-trì gia-thống nên việc lập gia-đình là
việc quan trọng của đại gia-đình. Việc lấy vợ lấy chồng gọi là hôn-nhân, cưới xin, hôn-
thú, hôn-thư, hay giá-thú. Trên các giấy tờ chứng-nhận, người Việt thường dùng chữ
“giá-thú.” “Giá” là lấy chồng, “thú” là lấy vợ. Còn hôn-thú chỉ có nghĩa là lấy vợ thôi.
“Hôn” có nghĩa là bố mẹ nàng dâu, “nhân” có nghĩa là bố mẹ chàng rể. Nghĩa tổng-quát
của từ “hôn-nhân” là cưới xin (marriage). Theo truyền-thống dân Việt, cha mẹ thường lo
cho con đầy-đủ mọi thứ kể cả việc kén vợ kén chồng cho con. Chính vì thế, việc hỏi vợ
và gả chồng là bổn-phận của cha mẹ như đã trình-bày trong các câu tục-ngữ sau đây:
“Trai lớn dựng vợ, gái lớn gả chồng, cha mẹ đặt đâu ngồi đấy.” Vì muốn gia-đình xứng-
hợp, tức là “môn đăng (đang, đương) hộ đối,” nên đã có trường hợp ngay khi những đứa
trẻ còn là bào-thai trong bung mẹ, đôi bên cha mẹ đã đính-ước với nhau rằng nếu về sau
một bên sinh con trai và một bên sinh con gái thì sẽ gả con cho nhau. Ngoài vấn đề hai
gia đình phải có “môn đăng hộ đối”(gia đình hai bên xứng đáng với nhau), trai gái còn
phải tốt-nghiệp trường cao-đẳng thì mới thành vợ thành chồng vì “Phi cao-đẳng bất thành
phu phụ.”
Ở Việt-Nam trước đây, con trai mười sáu tuổi và con gái mười ba tuổi đã bắt đầu có thể
lấy vợ lấy chồng vì vào lứa tuổi đó, trai gái đã hiểu sự đời, bắt đầu có tinh- khí, và biết
giao-cấu (to have sexual intercourse). Chính vì thế mà người Việt ta có câu tục-ngữ là
“nữ thập tam, nam thập lục.” Ở Bắc Mỹ này, trai 21 tuổi và gái 18 thì được quyền tự do
lấy nhau. Nếu gái 16 tuổi và trai 18 tuổi mà muốn lấy nhau thì phải được phép của cha
mẹ.
Từ ngàn xưa, ở Việt-Nam chúng ta, tuy rằng việc dựng vợ gả chồng là quyền của cha mẹ,
nhưng cha mẹ vẫn hỏi ý-kiến con cái trước khi quyết-định và việc thuận-tình của con cái
ít khi bị cha mẹ cản-trở. Vì cha mẹ hết lòng thương yêu và lo cho con cái nên con cái đã
hết sức vâng lời cha mẹ và cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Ngày nay, các bậc cha mẹ chỉ


đóng vai-trò cố-vấn và thực-hiện cưới-xin khi con cái đã đến tuổi hiểu biết trong việc kén
chọn nhau.
Theo truyền-thống dân Việt, việc kén vợ kén chồng rất quan-trọng. Sau đây là các phong-
tục mà những gia-đình người Việt đã từng áp-dụng để kén vợ kén chồng cho con: lấy vợ
xem tông, lấy chồng kén giống, kén con ông cháu cha, và kén gia đình có luân-lý đạo-
đức. Kén vợ cho con, các bậc cha mẹ chú-trọng đến đức-hạnh hơn là nhan-sắc vì “cái nết
đánh chết cái đẹp.” Thêm vào đó, các bậc cha mẹ còn phải xem trai gái có hợp tuổi với
nhau không vì có hợp tuổi nhau thì mới hòa-thuận, làm ăn mới thịnh-vượng, và sinh con
mới tốt lành. Trai gái không hợp tuổi nhau thì khi lấy nhau sẽ có rất nhiều điều đáng tiếc
như hay gây sự với nhau, làm ăn hay bị thất-bại, con cái bị hư hỏng, và vợ chồng sẽ bị ly-
thân rồi ly-dị. Trong sách tử-vi tướng-số có bốn nhóm tuổi mà mỗi nhóm gồm có 3 loại
tuổi hợp nhau gọi là tam-hợp và có ba nhóm tuổi mà mỗi nhóm có bốn loại tuổi xung-
khắc nhau gọi là tứ-hành-xung.
Bốn nhóm tuổi tam-hợp gồm có: “Thân, Tý, Thìn” hợp nhau ; “Tỵ Dậu, Sửu” hợp nhau;
“Dần, Ngọ, Tuất” hợp nhau; và “Hợi, Mão Mùi” hợp nhau.
Ba nhóm tuổi tứ-hành-xung gốm có: “Tý, Ngọ, Mão, Dậu” xung-khắc nhau; “Thìn,
Tuất, Sửu, Mùi” xung-khắc nhau; và “Dần, Thân, Tỵ, Hợi” xung-khắc nhau.
Chính vì thế, các bậc cha mẹ của hai gia-đình bao giờ cũng phải so đôi tuổi của cặp trai
gái trước khi làm lễ đính-hôn, tức là Lễ Ăn-Hỏi.
Khi hai bên gia-đình nhà trai nhà gái ở xa nhau mà muốn hiểu rõ về tình-trạng mỗi gia-
đình và tính-nết tài-năng và đức-hạnh của con trai và con gái, họ phải nhờ người làm
mai-mối (Ông Mai Bà Mối) để giúp việc cưới-xin. Người làm mai-mối thường là người
quen cả đôi bên gia-đình hoặc có liên-hệ gia-đình với một bên. Lời nói của mai-mối rất
quan-trọng và có ảnh-hưởng mãnh-liệt để hai bên gia-đình hiểu rõ nhau hầu tiến tới việc
quyết-định hôn-nhân cho con cái.

II. Tục-Lệ (Customs) về Hôn-Lễ (Marriage, Wedding Ceremony) của Người Việt
Ở thời xa xưa, tục-lệ về hôn-lễ của nước Việt ta rất phức-tạp, tiền-nhân ta đã có đến sáu
(6) tiến-trình về hôn-lễ: Lễ Nạp-Thái (kén chọn), Lễ Vấn-Danh (hỏi tên tuổi và ngày sinh
tháng đẻ của cô gái), Lễ Nạp-Cát (so đôi tuổi được tốt), Lễ Nạp-Tệ (ăn-hỏi), Lễ Thỉnh-

Kỳ(xin cưới), và Lễ Thân-Nghênh hay Nghênh-Hôn (lễ cưới). Tuy-nhiên, từ đầu thế-kỷ
thứ 20 (190 đến nay (2004), Nước Việt Tự-Do của chúng ta chỉ có ba tiến-trình về hôn-lễ
như sau: Lễ Chạm- Ngõ, Lễ An-Hỏi, Lễ Cưới. Khi đã làm Lễ Cưới ở nhà, nếu sau đó
không nhờ nhà thờ hay nhà chùa chính-thức làm Lễ Cưới thì phải đến khai tại cơ-quan
chính quyền địa-phương để xin tờ giá-thú (hôn-thú hay hôn-thư).

1. Lễ Chạm-Ngõ (The Pre-engagement Ceremony, a Promise to Marry)
Sau khi hai bên gia-đình đã ưng-thuận việc hỏi vợ gả chồng cho con, Lễ Chạm-Ngõ mới
được cử-hành. Lễ Chạm-Ngõ còn được gọi là Lễ Xem-Mắt vì đây là dịp để trai gái biết rõ
nhau hơn và thân-nhân của gia-đình nhà trai có cơ-hội tìm hiểu tuổi, thai-độ, và tư-cách
của cô dâu tương lai lúc còn ở nhà gái ra sao để có quyết-định làm Lễ An-Hỏi và Lễ
Cưới.
Ở Việt-Nam trước đây, khi tổ-chức Lễ Chạm-Ngõ, nhà trai thường đem trầu cau, rượu,
trà, và các loại bánh để nhà gái dâng cúng gia-tiên rồi đem biếu chú bác cô dì cậu mợ. Ở
hải-ngoại hiện nay, lễ-vật Chạm-Ngõ của người Việt ta thường gồm có những bó hoa,
những tái cây, những chai rượu, và những hộp trà, v.v. Sau khi đến nhà gái, vị đại-diện
nhà trai (ông bố của chú rể tương lai) ngỏ lời với nhà gái về Lễ Chạm-Ngõ. Sau đó, vị
đại-diện của nhà gái (ông bố của cô dâu tương lai) đáp lời chào mừng và ưng-thuận. Tiếp
theo đó, việc cúng gia-tiên của nhà gái được cử-hành, các vị đại-diện gia-đình nhà trai và
nhà gái cùng chú rể và cô dâu tương lai đều cùng nhau cúng bái. Sau khi cúng gia-tiên
nhà gái, mọi thân-nhân của hai gia-đình hiện-diện trong buổi Lễ Chạm-Ngõ đều được nhà
gái mời dự tiệc-trà ăn mừng Lễ Chạm-Ngõ. Sau bữa tiệc-trà, họ nhà trai ra về.
Từ Lễ Chạm-Ngõ đến Lễ Ăn-Hỏi không có khoảng thời-hạn nhất-định, tùy theo gia-đình
nhà trai và nhà gái định-đoạt có khi trong vòng 3 tháng, nửa năm, hay cả năm trời. Sau
ngày Lễ Chạm-Ngõ, nhà trai thường lui tới nhà gái vào những dịp lễ, tết, hoặc các ngày
kỵ-nhật (ngày giỗ) của nhà gái và mang các lễ-vật đến để cúng lễ.
Nếu sau Lễ Chạm-Ngõ mà mọi việc đều tốt đẹp giữa nhà trai nhà gái, nhất là gia-đình
nhà trai hoàn-toàn ưng-thuận nàng dâu tương-lai, thì Lễ Ăn-Hỏi sẽ được tiến-hành.

2. Lễ Ăn-Hỏi (Betrothal, An Engagement to Marry)

Lễ Ăn-Hỏi (Lễ Đính-Hôn) là lễ rất quan-trọng của việc hôn-nhân. Theo phong-tục của
Việt-Nam, nhà trai phải đáp-ứng lời đòi-hỏi của nhà gái về việc đưa đầy-đủ những phần
lễ-vật vào ngày Lễ Ăn-Hỏi như những quả cau, những lá trầu, những hộp trà, những gói
nem, bánh chưng, bánh dày, những hộp bánh quế, bánh bích-quy, bánh ngọt, heo quay,
xôi gấc, và rượu, v.v. để nhà gái làm lễ cúng gia-tiên và biếu thân-bằng quyến-thuộc với
mục-đích báo tin mừng. Khi đem lễ-vật đến nhà gái trong dịp Lễ Ăn- Hỏi, nhà trai tổ-
chức dẫn lễ-vật một cách thật trang-trọng bằng cách để các lễ-vật vào hộp, xếp vào mâm,
và bao-phủ bằng giấy bóng (glassine paper, cellophane) màu vàng và màu đỏ rồi cử
người ăn mặc chỉnh-tề để đi cùng với gia-đình nhà trai đưa lễ-vật đến nhà gái. Nếu nhà
trai ở gần nhà gái thì đi bộ, nếu ở xa thì đi bằng xe hơi. Nếu đi bằng xe hơi thì khi gần
đến nhà gái, mọi người phải xuống xe để đi bộ thành đoàn người mang lễ-vật đến nhà gái
một cách trang-trọng và chỉnh-tề.
Ở Việt-Nam trước đây, trầu cau, trà, và rượu là các lễ-vật chính-yếu của Lễ An-Hỏi. Hiện
này ở hải ngoại này, những lễ-vật ăn-hỏi của người Việt ta thường gồm có những bó hoa,
những tái cây, những chai rượu, những hộp bánh, và những hộp trà, v.v.
Khi các thân-nhân của nhà trai đến nhà gái để làm Lễ Ăn-Hỏi, cả nhà trai và nhà gái phải
cử người đứng ra giới-thiệu các thân-nhân của mình trước khi cha mẹ của nhà trai ngỏ lời
về Lễ Ăn-Hỏi. Sau đó, cha mẹ nhà gái đáp lời ưng-thuận và chào mừng nhà trai. Tiếp đó,
cha mẹ nhà trai và nhà gái cùng chú rể và cô dâu tượng-lai đều cúng gia-tiên của nhà gái.
Sau khi cúng gia-tiên tại nhà gái, mọi người hiện-diện sẽ được cha mẹ nhà gái mời ăn
tiệc-trà ngay ở đó.
Khi nhà gái nhận Lễ An-Hỏi tức là đã chính-thức chấp-nhận việc gả con gái cho nhà trai.
Sau ngày Lễ Ăn-Hỏi, khi nhà gái đem các lễ-vật ăn hỏi như quả cau đi biếu thân-bằng
quyến-thuộc thì phải biếu mỗi phần 3 quả hay một quả chứ không bao giờ biếu hai quả vì
hai quả có ý nghĩa thô-tục. Ngày nay, nhà gái còn kèm theo lễ-vật một tấm thiệp báo-hỷ
để tặng thân-bằng quyến-thuộc.
Sau Lễ Ăn Hỏi, chàng rể tương-lai còn phải đem lễ-vật đi lễ tết (sêu tết, to present gifts to
one’s bride’s family) bố mẹ vợ tương-lai vào những ngày tết và vào 4 mùa bằng cách
mùa nào thức ấy. Điều này có nghĩa là vào dịp Tết Nguyên-Đán, Tết Thanh-Minh, Tết
Đoan-Ngọ, Tết Trung-Nguyên, Tết Trung-Thu, và những ngày giỗ chính của nhà gái,

chàng rể tương-lai phải mang đồ lễ tới gia-đình nhà vợ tương-lai để biếu và lễ bái; vào
mỗi mùa có hoa quả bánh trái đặc-biệt, chẳng hạn như vào tháng ba có quả vải vỏ đỏ vị
ngon ngọt; vào tháng năm có dưa hấu; vào tháng bảy có quả na và quả nhãn; vào cuối
tháng chín sang tháng mười có cốm, hồng, và gạo mới, v.v.; và vào tháng chạp thì có cam
có mứt. Sau khi chàng rể tương-lai mang lễ-vật lại, bao giờ nhà gái cũng lấy một nửa số
lễ-vật, còn một nửa lễ-vật nhà gái biếu lại nhà trai, gọi là “lại-quả.”
Ngày xưa, sau Lễ Ăn-Hỏi, ở một vài nơi tại Việt-Nam còn có tục-lệ “gửi rể” (a future
son-in-law living in his future wife’s family). Chú rể tương-lai phải đến ở nhà gái và đi
học trong vòng bốn năm năm để thi đỗ rồi mới được cưới vợ. Chính vì thế mà ta mới có
câu tục-ngữ: “Phi cao-đẳng bất thành phu phụ.” Sau Lễ Ăn-Hỏi và sêu-tết, nhà trai phải
bàn-thảo và đề-nghị với nhà gái đề ấn-định ngày làm Lễ-Cưới.

3. Lễ Cưới (Wedding, The Ceremony of Marriage with its Accompanying
Festivities)

a.Thách-Cưới
Hồi trước đây ở Việt-Nam, khi đồng-ý để nhà trai làm Lễ-Cưới, nhà gái có lệ “thách-
cưới” nhà trai. “Thách-cưới” có nghĩa là nhà gái đòi các thứ cho cô dâu và gia đình nhà
gái gồm các đồ trang sức và quần áo cưới cho cô dâu và các đồ lễ-cưới cho gia đình nhà
gái như tiền-bạc, trà rượu, trầu cau, bánh-trái, thịt heo thịt bò, và gạo nếp gạo tẻ, v.v. để
làm tiệc thiết-đãi bà con và bạn-hữu. Việc thách-cưới này có khi làm cho nhà trai thật đau
buồn; nhiều khi, nhà trai phải yêu-cầu nhà gái để giảm bớt việc thách-cưới đi vì không có
đủ tiền bạc để rước dâu. Nếu nhà gái không đồng-ý thì nhà trai phải đi vay mượn tiền-bạc
để lo đám cưới. Việc thách-cưới đã làm cho nhiều người dân buồn-phiền nên họ đã làm
các câu ca-dao hài-hước như sau: “Em là con gái nhà giầu, / Mẹ cha thách-cưới ra màu
xinh sao. Cưới em trăm tấm gấm đào, / Một trăm hòn ngọc hai mươi tám ông sao trên
trời.” “ Con gái là con người ta, / Con dâu mới thật mẹ cha mua về.”
Ngày nay, việc thách-cưới không là vấn-đề quan-trọng vì nhà trai và nhà gái thường
cộng-tác tích-cực với nhau để làm Lễ-Cưới cho cô dâu chú rể thật chu-đáo.
b. Chọn Ngày Làm Đám Cưới

Sau khi nhà trai và nhà gái đã thỏa-thuận mọi việc, hai bên phải ấn-định ngày làm đám
cưới bằng cách chọn ngày tốt có ghi rõ trong âm-lịch. Trong các tấm lịch ta (âm- lịch), ở
mỗi tờ lịch, các chi-tiết sau đây đều được ghi rõ: ngày này là ngày nào trong năm, các
tuổi nào kỵ với ngày này, ngày này nên làm những việc gì và nên kiêng-cữ (không nên
làm) những việc gì, giờ tốt là giờ nào, và giờ xấu là giờ nào, v.v. Tuy trong lịch có ngày
được ghi là nên làm đám cưới (nên cưới gả) nhưng đồng-thời cũng có ghi về việc kỵ
(không hợp) tuổi cho một số tuổi. Nếu cô dâu chú rể có tuổi kỵ trong ngày đó thì không
nên cử-hành lễ cưới trong ngày đó dù là ngày đó được ghi là nên “cưới gả.” Tóm- lại là
ngày làm Lễ-Cưới phải không xung không kỵ với các tuổi của chú rể và cô dâu. Trước
năm 1954, ở Miền Bắc Việt-Nam, mọi người chỉ làm đám cưới vào các tháng mười,
tháng một (tháng1, tháng chạp (thàng 12), và tháng giêng (tháng vì các tháng này có thời-
tiết rất tốt và thuận-tiện cho đám cưới. Hầu hết các nơi ở Miền Bắc không tổ-chưc đám
cưới vào tháng bảy ta (tháng ngâu) vì tháng này có mưa dầm suốt tháng (mưa ngâu) và
hay có gió bão. Ngoài ra, mọi người phải kiêng-cữ tổ-chức đám cưới trong tháng bảy ta
vì theo sự-tích, vợ chồng Ngưu-Lang Chức-Nữ bị trời phạt không cho sống gần nhau, vợ
chồng chỉ được phép gặp nhau mỗi năm một lần vào ngày mưa ngâu mùng 7 tháng 7 ta
mà thôi. Mỗi năm tháng bảy trời đổ mưa-ngâu, / Yêu nhau xin hãy nhớ nhau một vài, /
Lất-phất mưa-ngâu ướt đẫm bờ vai, / Tơ-duyên chẳng trọn thương hoài nhớ lâu.
c. Thiệp Báo-Hỷ và Thiệp Mời
Hiện nay, sau khi ấn-định ngày làm đám cưới, nhà trai và nhà gái còn cùng nhau làm
những tấm thiệp báo-hỷ và thiệp mời để gửi cho thân-nhân, bằng-hữu, và đăng báo.
Muốn có tấm thiệp báo-hỷ và thiệp mời đúng cách, chúng ta phải nhờ chuyên-viên làm
cho. Thông-thường thì tấm thiệp báo-hỷ và thiệp mời có nội-dụng viết bằng song-ngữ,
tiếng Việt và tiếng Anh. Trong phần “Cước-Chú số 1” ở phía dưới bài này là tài-liệu
hướng-dẫn về nội-dung và hình-thức của tấm thiệp báo-hỷ và thiệp mời được viết bằng
tiếng Việt.
d. Chuẩn-Bị Lễ Rước Dâu và Đưa Dâu
Sau khi đã ấn-định ngày làm đám cưới và đã gửi thiệp báo-hỷ và thiệp mời, nhà trai phải
chuẩn-bị Lễ-Cưới, tiệc-cưới, tiệc-trà, máy chụp ảnh, máy quay phim, mua nhẫn cưới cho
cả chú rể và cô dâu, và chuẩn-bị lễ rước dâu. Nhà gái cũng phải chuẩn-bị việc đón-tiếp

nhà trai đến rước dâu, chuẩn-bị máy chụp ảnh và máy quay phim, chuẩn bị lễ gia-tiên, lễ
Tế Tơ-Hồng, tiệc trà, và lễ đưa dâu.
Hiện nay, tiệc cưới thường do nhà trai và nhà gái cộng-tác tổ-chức tại nhà hàng sau khi
đã làm lễ cưới để thiết-đãi bà con và bằng-hữu. Nếu nhà trai và nhà gái theo Đạo Phật
hay Đạo Thiên-Chúa, sau khi rước dâu về nhà chồng, hai gia-đình còn phải làm hẹn với
Nhà Thờ (Catholic Church) hay nhà Chùa (Buddhist Temple) để nhờ các cha hay các
thầy chùa làm lễ-cưới ngay tại nhà thờ hay tại chùa để chính-thức có giấy giá-thú.
đ. Rước Dâu

×