Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Tài liệu Tục ngữ. Lời ăn tiếng nói của dân gian (phần 1) pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.03 KB, 12 trang )

Tục ngữ. Lời ăn tiếng nói của dân gian - I
I - Định nghĩa


Tục ngữ, thuộc loại văn chương truyền khẩu có câu văn nhất định, là những câu nói theo
thói quen, gọn ghẽ, có ý nghĩa (tục: thói quen có đã lâu đời; ngữ: lời nói), tóm tắt kinh
nghiệm của người đời, thường được kể ra trong cuộc giao tế của xã hội.

Lúc đầu tục ngữ do một người nào đó trong dân gian nói ra, nhưng nhờ lời dễ nhớ, ý lại
hợp với những nhận thức, khát vọng và kinh nghiệm ứng xử hằng ngày của nhân dân, nên
được lưu truyền từ miệng nầy sang miệng khác (trong không gian), và từ đời nầy đến đời
khác( trong thời gian), cho đến nay không còn biết tác giả là ai nữa.
Thỉnh thoảng cũng có một số tục ngữ, chẳng hạn như câu: "Thương người như thể
thương thân", "Người đời muôn sự của chung" thấy giống mấy câu thơ trong Gia huấn ca
của Nguyễn Trãi:
" Thương người khác thể thương thân,
" Người ta phải bước khó khăn đến nhà."
và ... " Của là muôn sự của chung,
" Sinh không, thác lại tay không có gì ? "
Hoặc câu tục ngữ "Nực cười châu chấu chống xe", giống một câu thơ trong Hoài Nam ký
của Hoàng Quang:
" Nực cười châu chấu chống xe,
" Những ngờ chấu ngã, chẳng dè xe nghiêng." (1)
Nhưng cũng khó mà chứng minh rằng tác giả đã mượn tục ngữ đem vào tác phẩm của
mình, hay dân gian đã lấy các câu trong tác phẩm đem dùng trong việc giao tế, rồi lâu
ngày các câu ấy hóa thành ra tục ngữ.
Tục ngữ còn được gọi là ngạn ngữ (ngạn: lời người xưa truyền lại), hay phong dao
(phong: phong tục). Nếu câu tục ngữ chỉ lưu hành ở một vài địa phương mà thôi thì gọi là
phương ngôn (phương: nơi, chốn).
Còn thành ngữ chỉ là những chữ sẵn có thông dụng từ xưa, dân gian ghép lại thành một
đoạn nhỏ, một "bộ phận" để đem dùng trong một câu, cho lời văn được hoa mỹ, chớ tự nó


chưa thành câu, chưa thành một mệnh đề.
Như các thành ngữ: "ruộng cả, ao liền", "cố đấm ăn xôi", "đèo cao núi thẳm" chẳng hạn,
đứng riêng rẻ thì không trọn được ý, mà nếu đem dùng vào một câu thì sẽ diễn tả được
một ý nghĩ, một sự phán đoán nào đó, như:
" Chẳng tham ruộng cả ao liền,
" Tham vì cái bút cái nghiên anh đồ."
hay ..." Cố đấm ăn xôi,
" Đấm thì vô hồi, xôi chẳng được ăn."
hay ..." Đã sinh ra kiếp đàn ông,
" Đèo cao, núi thẳm, sông cùng sá chi !"

Tục ngữ và ca dao đều thuộc loại văn chương truyền khẩu có văn bản nhất định, nhưng
nội dung của tục ngữ thiên về lý trí, còn nội dung của ca dao thiên tình cảm. Về hình
thức, tục ngữ là những câu nói, ngắn gọn, thuộc lại văn xuôi, còn ca dao là những bài hát,
bài ca, câu dài hơn, thuộc loại thi ca.
Tuy nhiên sự phân chia như thế đôi khi cũng khá phức tạp, vì có nhiều trường hợp tục
ngữ và ca dao xâm nhập lẫn nhau: cùng một câu mà có thể sắp vào loại ca dao, hay sắp
vào loại tục ngữ đều được cả. Tỉ như câu:
" Hơn nhau tấm áo, manh quần,
" Thả ra mình trần, ai cũng như ai !"
Là một câu ca dao diễn tả tâm tình ngậm ngùi than thở cho "thân phận con người" ở giữa
xã hội nầy thường bị đánh giá theo áo quần, tiền bạc, địa vị, theo cái "vỏ bên ngoài" mà
thôi.
Nhưng cũng có thể là một câu tục ngữ, vì đây là một lời thách thức những kẻ giàu sang
phú quí, nếu lột bỏ cái vỏ hào nhoáng bên ngoài ấy đi, một khi trần truồng, thì thân hình
con người Trời sinh ra, "ai cũng như ai " cả. Mấy chữ "ai cũng như ai " lại có tính cách
đùa cợt, châm biếm.

II - Vấn đề sưu tập



Việc sưu tập tục ngữ Việt Nam, chúng tôi đã dựa vào các công trình của các nhà biên
khảo trước đây, đặc biệt là quyển Tục ngữ Phong dao của Ôn-như Nguyễn Văn-Ngọc
(1928). (2)
Tác phẩm nầy có hai tập: Tập I : hơn 6500 câu, mỗi câu từ 3 chữ dến 23 chữ, gồm có
phương ngôn, tục ngữ, thành ngữ, trong đó tính riêng về tục ngữ có độ chừng 3000 câu.
Tập II : 852 bài, mỗi bài từ 4 câu đến 30 câu, thuộc về thể phong dao và 350 câu đố.
Trong mục "thư tịch", Nguyễn Văn Ngọc có ghi các tác phẩm mà ông đã tham khảo như
sau:
- Sách viết bằng chữ nôm: An Nam phong thổ hoạt của Thiên bản cư sĩ Trần Tất Văn,
Thanh Hóa quan phong sử của Vương Duy Trinh, Việt Nam phong sử (vô danh), Đại
Nam quốc túy của Sự-sự-trai Ngô Giáp Đậu,
- Sách viết bằng chữ nôm, dịch ra chữ Hán: Nam phong giải trào của Liễu Am Trần tiên
sinh và Ngô Hạo Phu,
- Sách viết bằng chữ nôm có phụ chữ quốc ngữ: Quốc phong thi tập hợp thái của Mộng-
liên-đình Hi Lượng Phủ, Nam quốc phương ngôn, tục ngữ bị lục (vô danh),
- Sách viết bằng chữ quốc ngữ: Nam ngạn trích cẩm của Phạm Quang Sán, Gương phong
tục của Đoàn Duy Bỉnh đăng trong Tạp Chí Đông Dương,
- Sách viết bằng chữ quốc ngữ dịch ra chữ Pháp: Tục ngữ An Nam, (3 quyển) của Triệu
Hoàng Hòa.
Trong hai tập Tục ngữ Phong dao (ghi tắt: TN) của Nguyễn Văn Ngọc, thứ tự sắp xếp các
câu theo số chữ, từ ít đến nhiều, và các chữ đầu câu theo thứ tự các chữ cái la tinh dùng ở
vần quốc ngữ (như lối các tự điển).

Chúng tôi cũng trích dẫn các câu tục ngữ từ các tác phẩm biên khảo gần đây, chẳng hạn
như: Tâm hồn mẹ Việt Nam -Tục ngữ Ca dao (ghi tắt: THM) của Lê Gia, xuất bản ở
Việt-Nam, 1993. (3)
Và để làm sáng tỏ ý nghĩa của những câu tục ngữ đã dẫn ra, chúng tôi thường đối chiếu
với những câu thơ trong hai tác phẩm chữ Nôm cổ nhất của văn học Việt Nam, hiện nay
còn lưu trử được, như:

- Quốc âm thi tập (ghi tắt Qâ) của Nguyễn Trãi, thế kỉ thứ XV, (bản của Xuân Phúc trong
Nguyễn Trãi et son Recueil de poèmes en langue nationale, 254 bài, Paris, Ed. du Centre
National de la Recherche Scientifique, 1987). (4)
- Bạch Vân am quốc ngữ thi tập (ghi tắt BV) của Nguyễn Bỉnh Khiêm (Trạng Trình), thế
kỉ thứ XVI, (bản của Xuân Phúc trong Nguyễn Bỉnh Khiêm, porte parole de la sagesse
populaire: le Bạch Vân am quốc ngữ thi tập, 100 bài, Bruxelles, Thanh Long, 1985). (5)


III - Hình thức


Nghiên cứu về thần thoại và cổ tích, chưa có lời văn nhất định, chúng tôi căn cứ vào cốt
truyện. Nhưng khi nghiên cứu về tục ngữ, ca dao, đã có lời văn cố định, thì lại căn cứ vào
ngôn ngữ, vì ngôn ngữ là yếu tố căn bản để xây dựng các bản văn.
Ngôn ngữ Việt là một ngôn ngữ riêng biệt của dân tộc ta từ nghìn xưa, và có những tính
chất rất đặc thù của nó.
Ngôn ngữ riêng biệt của chúng ta, người Hoa xưa nay vẫn không thể nghe hiểu được.
Theo Sử cũ của họ, thì ở thời thượng cổ, năm Tân Mão đời vua Thành Vương nhà Chu
(1109 tr. T.L.) có người Việt Thường (cổ V.N.) ở phía Nam Giao Chỉ sai sứ đem chim
bạch trĩ sang cống, phải thông dịch ba lần mới hiểu được tiếng nhau. (6)
Trong suốt mấy nghìn năm qua, Trung quốc vẫn tìm đủ mọi cách để đồng hóa cho được
ngôn ngữ các dân tộc thuộc quyền kiểm soát của họ: "Việc đồng hóa, bằng cách thống
nhất giọng đọc, được thực hiện mãnh liệt nhất dưới đời nhà Tần. Các địa phương phải gửi
kẻ sĩ về Hàm Dương để học giọng Quan Thoại và học lối viết thống nhất do Lý Tư bày
ra. Trở về quê cũ, họ có phận sự dạy lại từ quan đến dân giọng ấy và lối viết ấy. Nhưng vì
dị chủng, nên dân cư địa phương đọc không giống lắm theo ý muốn của Tần Thỉ Hoàng.
Tuy nhiên chiến dịch ấy cũng làm cho họ mất luôn ngôn
ngữ của họ... " (7).
Riêng Việt Nam, nhờ vị trí xa xôi, địa thế hiểm trở, nhờ chí quật cường, bất khuất của
toàn thể nhân dân, nên dân ta không bị đồng hóa với Trung Hoa, do đó ngôn ngữ mà

chúng ta đã có từ đời thượng cổ kia, vẫn còn được tồn tại mãi cho đến ngày nay.
Tiếng Việt ta, người Hoa vẫn cho là khó nói, vì nó nhẹ, ngắn và nhanh như tiếng chim.
Trương Cương Trung đời Nguyên (thế kỉ thứ XIII) đã có ghi trong sách Sứ Giao Châu
tập một đoạn nói về tiếng ta như sau:
"Ngữ âm Tru Li vị... phong viết giáo, vân viết mai, sơn viết can ngỗi, thủy viết lược,
nhãn viết mạt, khẩu viết mạnh, phụ viết cha, mẫu viết ná, nam tử viết can đa, nữ tử viết
can ái, phu viết chùng, thê viết đà bị, hảo viết lĩnh, bất hảo viết chương lĩnh, đại tuất loại
thử, thanh cấp như phù, đại tự điểu ngữ." (8)
Dịch ra Việt ngữ: Tiếng nói của dân Tru Li (man di, chỉ dân Việt !?), gọi ... gió là "giáo"
(tức là gió), gọi mây là "mai " (tức là mây), gọi núi là "can ngỗi " (tức là cái núi), gọi
nước là "lược" (tức là nuớc), gọi mắt là "mạt" (tức là mắt), gọi mồm là "mạnh" (tức là
miệng), gọi cha là "cha", gọi mẹ là "ná" (tức là nạ : mẹ), gọi con trai là "can đa" (tức là
con trai), gọi con gái là "can ái " (tức là con gái), gọi chồng là "chùng" (tức là chồng), gọi
vợ là "đà bị" (?), gọi tốt là "lĩnh" (lành), gọi không tốt là "chương lĩnh" (tức là chẳng
lành); cả thảy giọng như thế, tiếng nói gấp mà nổi, phần lớn giống như giọng chim. (8)

Ngoài các tiếng Hán Việt từ Trung Hoa du nhập vào nước ta và đã được Việt hóa hẳn,
ngôn ngữ Việt Nam còn có một số tiếng giống tiếng của các sắc dân Thượng-Việt, Mã-
Lai Nam-Dương, Môn-Khmer, Tây-Tạng, Miến-Điện, Thái, và Mê-La-Nê (cổ Mã-Lai)
(9).
Cho nên có những thuyết cho rằng ngôn ngữ Việt Nam đã bắt nguồn từ tiếng Môn-
Khmer hay từ tiếng Thái. Song cho đến nay, các nhà ngôn ngữ học vẫn chưa khẳng định
gì dứt khoát về vấn đề nầy. Chỉ có một điều chắc chắn, như ta vừa thấy ở các phần trên
đây, là tiếng Việt khác hẳn với tiếng Hán.

Về phương diện ngôn ngữ, một câu văn, muốn được dễ nhớ, thì thường phải nhịp nhàng
cân đối, có âm hưởng phong phú và có hình ảnh dẫn khởi.

1. Nhịp nhàng cân đối



Ngày xưa, dân Việt Nam ta có khuynh hướng dùng những rất nhiều tiếng kép thay cho
những tiếng đơn đồng nghĩa, để cho câu nói được nhịp nhàng, cân đối.
Đáng lẽ nói "ao thu lạnh" chẳng hạn, thì người ta lại thích nói "ao thu lạnh lẽo"; đáng lẽ
nói "gặp nhau vui lắm " thì thích nói "gặp nhau vui vẻ lắm". Thay vì nói "đi chậm" thì
thích nói "đi chậm chạp". Các tiếng "lạnh, vui, chậm" là tiếng có nghĩa, các tiếng "lẽo,
vẻ, chạp" là vô nghĩa, chỉ thêm vào nghe cho nhịp nhàng, dễ nhớ.
Rồi từ những tiếng kép đôi, dân gian còn ghép thành những tiếng kép bốn: "lá cành" ghép
với "ngọc vàng" thành "lá ngọc, cành vàng"; "con cháu" với "rồng tiên" thành "con rồng,
cháu tiên"; "trời bể" với "cao rộng" thành "trời cao, bể rộng"...

2. Thanh âm phong phú


a) Thanh - Thanh là giọng cao thấp, dài ngắn khác nhau khi phát âm. Ngôn ngữ Việt Nam
có sáu thanh (giọng), đại khái có thể phân thành hai loại: Thanh bằng, dài, không dấu hay
có dấu huyền, tỉ như "ma", "ngồi" và thanh trắc, ngắn, các âm có dấu sắc, dấu ngã, dấu
hỏi, dấu nặng, như "má", "mã", "mả", "mạ"...
Nhờ những dấu nầy mà câu nói của chúng ta có giọng lên bổng, xuống trầm, đưa dài,
thâu ngắn, người ngoại quốc nghe tưởng như đó là những câu hát, tiếng hò.

b)Vần - Hai tiếng vần với nhau là cùng có một âm căn bản như nhau (âm căn bản là
những âm chưa có dấu giọng), rồi nếu thêm dấu giọng thì ta sẽ có:
- Vần bằng - Những tiếng có dấu huyền và tiếng không dấu, vần với nhau, gọi là vần
bằng, như "mơ" vần với "mờ", với "cờ", với "tơ" (cùng một âm căn bản "ơ"); "tai" vần
với "mai", với "tài" (cùng một âm căn bản "ai"); "thương" vần với "lường", với "cương"
(cùng một âm căn bản "ương")...
- Vần trắc - Những tiếng có dấu sắc, dấu ngã, dấu hỏi, dấu nặng vần với nhau, gọi là vần
trắc, như "có" vần với "tỏ", với "mõ", với "họ" (cùng một âm căn bản "o"); "cáng" vần
với "hảng", với "lãng", với "trạng" (cùng một âm căn bản "ang"), v.v...

Nếu kể về "vị trí của các vần trong câu thơ", thì có cước vận và yêu vận.
- Cước vận là những vần đặt ở cuối của các câu liền nhau (cước = chân), như:
-" Chim nhớ cây,
" Tớ quên thầy.
hay : -" Chết trẻ,
" Còn hơn lấy lẽ ."
hay : -" Chữa được bệnh,
" Không ai chữa được mệnh."
- Yêu vận là những vần, đặt ở vào đầu hay vào lưng chừng của vế (hay của câu) tiếp theo
(yêu = lưng), như:
-" Cõng rắn,
" Cắn gà nhà."
hay : -" Bói ra ma,
" Quét nhà ra rác."
hay : -" Bà Chúa đứt tay,
" Bằng ăn mày đổ ruột."
hay : -" Biết thì thưa thốt,
" Không biết thì dựa cột mà nghe."

Về cấu tạo và vận dụng các tiếng kép (10) cũng như các thanh và các vần, chúng tôi sẽ có
dịp đề cập đến thấu đáo hơn ở thiên "Ca dao" dưới đây.

3. Hình ảnh


Nhưng còn có một yếu tố quan trọng khác, là các hình ảnh cụ thể, đã góp phần không nhỏ
trong việc làm cho các câu tục ngữ được dễ nhớ, dễ thuộc.
Diễn tả tình ý bằng hình ảnh là một đặc tính của ngôn ngữ Việt. Dân gian ta ngày xưa, hễ
mở miệng ra là dùng hình ảnh để thay thế cho các tình ý của mình. Tỉ như dùng hình ảnh
"mày râu" chỉ người đàn ông, "chăn gối" chỉ tình vợ chồng, "bút nghiên" chỉ sự học hành,

"liểu bồ" chỉ người đàn bà, "lá ngọc cành vàng" chỉ con gái nhà phú quí, "gõ đầu trẻ" chỉ
nghề dạy học, "miệng hùm gan sứa" chỉ người miệng nói dạn mà thật sự trong lòng nhát
gan, "gà trống nuôi con" chỉ cảnh người đàn ông góa vợ, hay bị vợ bỏ, phải một mình
chăm nuôi con cái ...

IV - Nội dung


Về phân loại, Dương Quảng Hàm cho rằng tục ngữ nước ta rất nhiều mà mỗi câu một ý,
tựu trung có thể chia làm bốn loại chính như: 1- Những câu về luân lý: dạy đạo làm
người, dạy khôn dạy ngoan; 2- Những câu về tâm lý người đời; 3- Những câu về phong
tục; 4- Những câu về thường thức như: về thời tiết, canh nông, thổ sản, về lễ phép thù
ứng. (11) Phần đông các tác giả khác cũng phân loại tục ngữ đại khái giống như thế.

Về ý nghĩa của tục ngữ, Dương Quảng Hàm đã nhận xét: "Các câu tục ngữ là do những
điều kinh nghiệm của cổ nhân đã chung đúc lại, nhờ đấy mà người dân vô học cũng có
một trí thức thông thường để làm ăn và cư xử ở đời. " (11)
Phạm Thế Ngũ, trongViệt Nam Văn học sử giản ước tân biên đã ghi thêm: "Tục ngữ là
kho tàng kinh nghệm và hiểu biết của người xưa về vũ trụ cũng như về nhân sinh....Có
thể nói đó là một quyển sách khôn mở ngỏ và lưu truyền trong giới bình dân từ xưa đến
nay. " (12)

×