Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Hiện tượng đa nghĩa trong một số đoạn trích của tác phẩm truyện kiều

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.13 KB, 28 trang )

I. PHẦN MỞ ĐẦU
I.1. Lý do chọn đề tài:
Mỗi tác phẩm văn học khi ra đời đều trải qua sự sàng lọc của thời gian để khẳng
định giá trị trường tồn của mình. Và giá trị của mỗi tác phẩm đó được thẩm định qua sự
tiếp nhận và đánh giá của độc giả. Trong nền văn học Việt Nam thì kiệt tác “Truyện
Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du vượt qua bao thăng trầm đã khẳng định được vai trò,
giá trị to lớn của mình trong kho tàng văn học và đặc biệt trong tâm hồn người Việt.
Từ xưa đến nay chưa có một tác phẩm văn học nào mà được nhân dân cả nước yêu
thích, ca ngợi như “Truyện Kiều”. Bất cứ là người Việt Nam dù thuộc tầng lớp, lứa tuổi
nào cũng đều biết đến “Truyện Kiều”; có người thuộc năm bảy câu, có người thuộc cả
đoạn, thậm chí là đọc ngược được “Truyện Kiều”.
Một trong những yếu tố quan trọng để “Truyện Kiều” có được sự tiếp nhận rộng rãi
và nghiền ngẫm say sưa của nhân dân như vậy là nhờ vào biệt tài sử dụng ngôn ngữ của
Nguyễn Du. Bên cạnh việc sử dụng các điển cố, điển tích,… thi hào đã vận dụng một
cách rất tài tình, linh hoạt vốn ngơn ngữ dân gian như: từ thuần Việt, thành ngữ, tục
ngữ,… Chính nhờ đặc điểm này mà “Truyện Kiều” đã trở nên gần gũi, gắn bó với quần
chúng lao động, từ đó ai ai cũng đều có thể hiểu khi đọc “Truyện Kiều”.
Do vậy việc nghiên cứu và phân tích “Truyện Kiều” ở góc độ ngôn ngữ là rất cần
thiết. Bên cạnh những vấn đề đã được đi sâu vào nghiên cứu như từ Hán Việt, thành
ngữ, tục ngữ,… thì hiện tượng đa nghĩa trong ngơn ngữ “Truyện Kiều” cũng giữ một
vai trị nhất định trong việc tạo nên sự phong phú, đa dạng về ngữ nghĩa của ngơn ngữ,
góp phần làm nên sức sống lâu bền của “Truyện Kiều”. Xuất phát từ những lí do trên
bản thân tôi chọn: “Hiện tượng đa nghĩa trong một số đoạn trích của tác phẩm
Truyện Kiều” làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm để giúp học sinh phân biệt được hiện
tượng đa nghĩa với hiện tượng đồng âm.
I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài:
Việc nghiên cứu, khảo sát hiện tượng đa nghĩa trong một số đoạn trích của “Truyện
Kiều” giúp học sinh tìm ra số lượng, đặc điểm và tính chất của hiện tượng đa nghĩa.
Đồng thời sẽ phân tích, đánh giá, so sánh các dạng biểu hiện và vai trò của hiện tượng
đa nghĩa đối với giá trị nội dung và nghệ thuật của “Truyện Kiều”.
Đề tài sẽ là cơ sở cho các cơng trình nghiên cứu khác nhau có liên quan đến hiện


tượng đa nghĩa. Từ đó giúp học sinh xác định và sử dụng ngơn ngữ đúng bối cảnh và
đúng mục đích diễn đạt.
I.3. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các từ, các câu thơ có chứa hiện tượng đa nghĩa
trong một số đoạn trích của tác phẩm “Truyện Kiều”.
I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
Học sinh khối 9 trường THCS Nguyễn Trãi trong các năm học 2013-2014; 20142015 và đặc biệt là học sinh lớp 9A5, 9A7 năm học 2015-2016.
Vấn đề chỉ tập trung vào hiện tượng đa nghĩa trong ngơn ngữ Việt nói chung và
ngơn ngữ “Truyện Kiều” nói riêng. Để giải quyết vấn đề này tơi dựa vào văn bản
“Truyện Kiều” do Đào Duy Anh dịch của nhà xuất bản Phụ nữ, 2007.
I.5. Phương pháp nghiên cứu:

1


Từ mục đích, yêu cầu và đối tượng nghiên cứu của đề tài, tôi đã sử dụng các
phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp tiếp cận văn bản: Tìm hiểu những vấn đề liên quan đến từ đa nghĩa
và hiện tượng đa nghĩa trong một số đoạn trích của tác phẩm “Truyện Kiều”.
- Phương pháp thống kê và phân loại: Thống kê các câu thơ trong một số đoạn trích
của tác phẩm “Truyện Kiều” có chứa hiện tượng đa nghĩa và phân loại chúng theo tiêu
chí từ loại.
- Phương pháp phân tích: Từ tư liệu đã thống kê và phân loại tơi tiến hành phân tích
để rút ra những đặc điểm của nhóm từ đa nghĩa theo tiêu chí đã phân loại.
- Phương pháp tổng hợp: Sau khi thống kê, phân loại và phân tích rút ra được những
nhận xét khoa học, xác đáng về hiện tượng đa nghĩa trong “Truyện Kiều”.
II. PHẦN NỘI DUNG
II.1. Cơ sở lý luận:
Trong thực tế đời sống văn học nước ta những năm gần đây, việc hiểu và đánh giá
tác phẩm nghệ thuật đã và đang trở thành một hiện tượng thời sự. Trên bình diện lý

thuyết, người ta đã bắt đầu nói nhiều đến vấn đề tính đa nghĩa của tác phẩm văn chương.
Mặc dù vẫn cịn có những ý kiến chưa đồng tình, nhưng nhìn chung giới nghiên cứu và
phê bình văn học ngày nay đã xác nhận hiện tượng đa nghĩa như là một đặc tính hữu cơ
của nghệ thuật nói chung và của văn học nói riêng.
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du đến nay khơng phải là vấn đề cịn q mới mẻ đối
với những nhà nghiên cứu. Ngay từ khi “Truyện Kiều” mới được cơng bố nó đã thu hút
được đơng đảo sự quan tâm của giới trí thức. Đào Duy Anh có cuốn “Khảo luận Kim
Vân Kiều”. Đây là cuốn sách đầu tiên viết về nghệ thuật “Truyện Kiều” tương đối tồn
diện, đặt nền móng cho các thế hệ sau này tiến hành nghiên cứu “Truyện Kiều” dưới
nhiều góc độ khác nhau.
Với “Thư mục nghiên cứu Truyện Kiều” của Trần Đình Sử trong cuốn “Thi pháp
Truyện Kiều” năm 2002, cho thấy có 661 cơng trình nghiên cứu về “Truyện Kiều”
trong đó có hơn 70 cơng trình nghiên cứu phương diện ngơn ngữ.
Qua các cơng trình nghiên cứu trên, các tác giả đã làm rõ được nhiều vấn đề mang
tính chiều sâu và khái quát có liên quan đến Truyện Kiều. Song, các cơng trình nghiên
cứu trên chủ yếu diễn ra trên phương diện văn bản học, chứ chưa có cơng trình nào chú
ý tới hiện tượng đa nghĩa trong “Truyện Kiều” như một đối tượng riêng.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng hiện tượng đa nghĩa trong ngơn ngữ là một hình
thức nghệ thuật rất phong phú và đa dạng. Từ việc nghiên cứu các vấn đề này sẽ giúp
chúng ta có cái nhìn khái qt, đầy đủ và sâu sắc hơn về hiện tượng đa nghĩa. Nắm chắc
được các vấn đề lý thuyết cơ bản về hiện tượng đa nghĩa cũng có nghĩa là chúng ta tiếp
nhận được yếu tố dẫn đường, làm cơ sở nghiên cứu hiện tượng đa nghĩa trên các tác
phẩm văn học cụ thể.
Từ đó, tơi đưa ra các từ, các câu thơ có chứa hiện tượng đa nghĩa trong một số đoạn
trích của “Truyện Kiều” rồi yêu cầu các em tìm ra đặc điểm và tính chất của hiện tượng
đa nghĩa. Qua đó, tơi đã phát hiện được ngun nhân dẫn đến các lỗi mà các em còn
mắc phải. Để mang lại hiệu quả cao cho quá trình lĩnh hội tri thức, tơi mạnh dạn đưa ra
một số kinh nghiệm đã tích lũy được trong quá trình giảng dạy để giúp các em học sinh
khối 9 nắm được vai trò của hiện tượng đa nghĩa đối với giá trị nội dung và nghệ thuật
2



của tác phẩm “Truyện Kiều”. Đồng thời, khi nghiên cứu hiện tượng đa nghĩa trong
“Truyện Kiều” sẽ phát hiện ra nhiều vấn đề mới mẻ và thấy được nghệ thuật dùng từ
điêu luyện, chuẩn xác của thi hào Nguyễn Du.
II.2. Thực trạng:
Trong những năm vừa qua, tôi luôn được lãnh đạo nhà trường tin tưởng và trực tiếp
phân công giảng dạy các khối lớp và bồi dưỡng học sinh giỏi khối 7. Đặc biệt trong
năm học 2015-2016, tôi được nhà trường giao nhiệm vụ giảng dạy môn Ngữ văn lớp 7.
Với kinh nghiệm tích lũy được, tơi nhận thấy nhiều học sinh chưa có khả năng phân
biệt hiện tượng đa nghĩa và hiện tượng đồng âm nên mạnh dạn chỉ ra một số biện pháp,
sáng kiến giúp học sinh nắm vững hơn kiến thức cơ bản trên.
a. Những thuận lợi và khó khăn:
* Thuận lợi:
- Trong những năm vừa qua, bản thân luôn nhận được sự quan tâm sâu sát của Ban
Giám Hiệu, của Cơng đồn giáo dục cùng sự giúp đỡ của tất cả các đoàn thể trong Hội
đồng sư phạm nhà trường, đặc biệt là các đồng nghiệp trong tổ Ngữ Văn trường THCS
Nguyễn Trãi.
- Trong năm học này, tôi đang trực tiếp giảng dạy môn Ngữ Văn 7, tơi thấy đa số học
sinh có khả năng tiếp thu bài đồng đều, khả năng lĩnh hội tri thức tương đương nhau, số
học sinh chiếm tỉ lệ khá ở các môn học khá cao. Đại đa số các em có tinh thần học tập,
ham học hỏi, hăng say phát biểu ý kiến xây dựng bài, chuẩn bị bài tương đối đầy đủ khi
lên lớp.
- Công tác giảng dạy của giáo viên rất thuận lợi vì có tài liệu tham khảo nhiều. Ngồi
ra cịn có các lớp học nâng cao trình độ nghiệp vụ tạo điều kiện cho giáo viên tham gia
học tập để theo kịp với xu thế đổi mới hiện nay. Tất cả đều nhằm tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho quá trình truyền tải kiến thức của tơi.
* Khó khăn:
- Về phía giáo viên: Do chưa có nhiều kinh nghiệm nên trong quá trình giảng dạy
chưa đưa ra các biện pháp tối ưu để giúp học sinh phân biệt được hiện tượng đa nghĩa

với hiện tượng đồng âm của từ ngữ. Và cũng do sĩ số lớp cịn đơng nên rất khó cho giáo
viên trong việc theo sát, kèm cặp từng học sinh trong một tiết dạy.
Thực tế mỗi trường đều có những phương pháp dạy học riêng để nâng cao chất lượng
dạy học. Nhưng vấn đề lớn nhất ở đây chính là phương pháp tiếp cận của giáo viên với
học sinh còn rất hạn chế, còn cứng nhắc dẫn đến sự buồn chán trong việc dạy và học tại
các nhà trường.
- Về phía học sinh: Số lượng học sinh dân tộc thiểu số tương đối đông dẫn đến tình
trạng bỏ học, lười học bài vẫn cịn thường xuyên xảy ra. Một số gia đình điều kiện kinh
tế còn hạn hẹp, nhận thức còn hạn chế. Do vậy, các em chưa có điều kiện mua thêm tài
liệu tham khảo nhằm phục vụ cho việc học bộ môn Ngữ văn được tốt hơn.
Bên cạnh đó vẫn cịn một số học sinh chây lười trong quá trình tiếp thu bài học,
chưa thực sự có hứng thú với mơn học nên không chuẩn bị tốt cho giờ học môn Ngữ
văn dẫn đến tình trạng nắm bắt khơng đầy đủ lượng kiến thức mà giáo viên truyền tải.
Hầu như tất cả các em chưa có thói quen tìm hiểu, phân biệt hiện tượng đa nghĩa và
hiện tượng đồng âm trong các tác phẩm văn chương và cịn xem nhẹ các mơn xã hội
trong đó có mơn Ngữ Văn dẫn đến chất lượng học tập không cao.
3


b. Thành công và hạn chế khi vận dụng đề tài:
- Khi vận dụng đề tài này vào thực tế, đã giúp học sinh phần nào phân tích, đánh giá,
so sánh các dạng biểu hiện và vai trò của hiện tượng đa nghĩa. Từ đó có cơ sở để phân
biệt hiện tượng đa nghĩa với hiện tượng đồng âm của từ ngữ.
- Thông qua đề tài giúp học sinh vận dụng được hiện tượng đa nghĩa của từ vào trong
bài viết tránh tình trạng dùng lẫn lộn, khơng xác định được hoàn cảnh sử dụng từ nhiều
nghĩa và từ đồng âm trong giao tiếp cũng như trong học tập.
- Giúp học sinh thấy được hiện tượng đa nghĩa trong ngôn ngữ Việt nói chung và
ngơn ngữ “Truyện Kiều” nói riêng cũng giữ một vai trò nhất định trong việc tạo nên sự
phong phú, đa dạng về ngữ nghĩa của ngôn ngữ. Từ đó có thái độ hăng say với mơn
học và thêm yêu văn học dân tộc.

Bên cạnh những thành cơng đã đạt được đề tài cịn mắc phải một số hạn chế như:
Ngồi các từ, các câu thơ có chứa hiện tượng đa nghĩa trong một số đoạn trích của
“Truyện Kiều” ở lớp 9, giáo viên chưa cung cấp thêm được nhiều các từ, các câu thơ
khác có chứa hiện tượng đa nghĩa cũng như trong các văn bản khác cho học sinh tiếp
cận nên chưa mở rộng được vốn kiến thức cho học sinh.
Do ý thức học tập của một số học sinh chưa tốt, khả năng tiếp thu chậm nên vẫn
chưa nắm vững hiện tượng đa nghĩa dẫn đến chưa phân biệt được hiện tượng đa nghĩa
với hiện tượng đồng âm của từ ngữ.
c. Mặt mạnh, mặt yếu khi vận dụng đề tài:
- Với những kinh nghiệm mà bản thân đúc rút ra từ thực tiễn giảng dạy có những mặt
mạnh sau đây:
+ Học sinh dân tộc thiểu số chiếm tỉ lệ cao, công tác giảng dạy cịn gặp nhiều khó
khăn nhưng khi vận dụng đề tài vào thực tế đã giúp học sinh tích cực, chủ động trong
việc xây dựng nâng cao chất lượng học tập.
+ Học sinh hiểu bài và phân biệt được hiện tượng đa nghĩa với hiện tượng đồng âm
của ngôn ngữ nên phần nào giúp học sinh u thích bộ mơn hơn.
- Bên cạnh đó đề tài vẫn cịn một số hạn chế như: Một số em không chịu đọc bài, soạn
bài, khơng nắm vững khái niệm, khơng tìm hiểu thêm kiến thức nên dẫn đến cịn chây
lười, khó tiếp thu kiến thức mới. Từ đó, dẫn đến tình trạng một số học sinh còn chưa
phân định rõ ràng đâu là hiện tượng đa nghĩa và đâu là hiện tượng đồng âm.
d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động:
Có rất nhiều nguyên nhân tác động dẫn đến sự thành công cũng như hạn chế trong
quá trình vận dụng đề tài vào thực tiễn của người giảng dạy. Cụ thể là:
Bản thân luôn nhận được sự quan tâm giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường, của tổ
chuyên môn cũng như các đồng nghiệp trong việc phối hợp để giáo dục và hồn thành
nhiệm vụ giảng dạy của mình.
Q nhấn mạnh việc gắn kết tri thức trong văn bản với đời sống nên giáo viên chú ý
nhiều tới liên hệ thực tế, dẫn đến việc khai thác kiến thức cơ bản chưa đầy đủ. Vốn kiến
thức của giáo viên thiếu sự mở rộng. Giáo viên chưa vận dụng linh hoạt các phương
pháp dạy học và các biện pháp tổ chức dạy học nhằm gây hứng thú cho học sinh nên

giờ dạy còn tẻ nhạt chưa thu hút được sự chú ý của học sinh.
- Một số giáo viên còn lúng túng trong việc đưa ra những cách thức phân biệt hiện
tượng đa nghĩa với hiện tượng đồng âm nên học sinh không khắc sâu được kiến thức.
4


Một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến q trình học tập của con em, chưa đơn
đốc các em việc học bài cũ trước khi đến lớp.
- Do học sinh chưa nắm vững khái niệm về từ nhiều nghĩa và từ đồng âm dẫn đến tình
trạng khơng phân biệt được từ nhiều nghĩa và từ đồng âm nên hiểu sai bản chất, dùng
sai từ khi giao tiếp cũng như khi tạo lập văn bản.
- Một số em học sinh không học bài, làm bài cũ nên dẫn đến tình trạng học trước
qn sau và khi có những bài tập cụ thể xác định về từ nhiều nghĩa sẽ không biết cách
giải quyết. Đa số các em chưa trang bị thêm cho mình những tài liệu tham khảo về
“Truyện Kiều” để làm tài liệu học tập.
e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra:
Sử dụng phân biệt hiện tượng đồng âm và hiện tương đa nghĩa trong tiết dạy có vai
trị quan trọng giúp học sinh nắm vững, khắc sâu và hình thành kiến thức sâu sắc hơn
tuy nhiên với những khó khăn mà giáo viên đang gặp phải là những khó khăn cần và có
thể giải quyết được giúp ý tưởng có thể đi vào thực tiễn giảng dạy như:
- Trước hết, với việc đa dạng học sinh trong lớp dẫn đến sự khó khăn khi truyền tải
kiến thức cho nên giáo viên cần có những câu hỏi phù hợp với từng đối tượng học sinh.
Do đó, làm cách nào để có thể giúp cho học sinh dễ dàng nắm bắt kiến thức, nhất là đối
với học sinh yếu. Ở các em có sự khác biệt về: khả năng tiếp thu bài, phong cách nhận
thức,… so với những học sinh khác. Có lẽ đây là vấn đề khơng chỉ của riêng ngành
giáo dục mà hiện nay cả xã hội cũng đang quan tâm và tìm giải pháp để khắc phục tình
trạng này. Để đưa nền giáo dục nước nhà phát triển tồn diện thì người giáo viên khơng
những chỉ biết dạy mà cịn phải biết tìm tịi phương pháp nhằm phát huy tính tích cực
của học sinh, giúp giảm dần khoảng cách về trình độ trong lớp học. Vấn đề nêu trên là
khó khăn với khơng ít giáo viên nhưng ngược lại, giải quyết được điều này là góp phần

xây dựng trong bản thân mỗi giáo viên một phong cách và phương pháp dạy học hiện
đại, giúp cho học sinh có hướng tư duy mới trong việc lĩnh hội kiến thức.
- Thứ hai, học sinh chưa nắm rõ các khái niệm, cấu trúc về hiện tượng đa nghĩa, hiện
tượng đồng âm nên chưa xác định đúng khi gặp trong văn bản. Ngồi ra, hiện tượng đa
nghĩa trong ba đoạn trích của tác phẩm “Truyện Kiều” (trong chương trình ngữ văn 9)
cịn ít nên giáo viên phải tìm tịi, củng cố, khắc sâu và nâng cao thêm kiến thức cho học
sinh. Điều đó địi hỏi người giáo viên cần đầu tư thời gian, công sức, tài liệu tham khảo
nhiều hơn cho các bài giảng của bản thân.
- Thứ ba, với việc học sinh không học bài, làm bài trước khi đến lớp và không khắc
sâu được kiến thức đã học, đồng thời khơng đầu tư vào bài học cịn khá phổ biến.
Chính việc học sinh khơng đầu tư vào bài soạn nên không khắc sâu được kiến thức,
thường nhầm lẫn giữa hai hiện tượng trên. Tuy nhiên, với đề tài này tơi muốn đề cập ở
đây chính là một phương pháp học hiệu quả, với cách phân biệt hai hiện tượng này bắt
buộc học sinh phải có sự hiểu sâu về vấn đề được học đồng thời biết vận dụng nó một
cách linh hoạt vào trong giao tiếp. Học phải biết ghi nhớ các điểm chính, các từ chủ
điểm rồi từ đó suy ra những vấn đề nhỏ hơn và hiểu rằng mình đang học cái gì. Cách
ghi nhớ này giúp cho những thông tin cần thiết được lưu lại trong não một cách hệ
thống và được sử dụng có hiệu quả trong những ngữ cảnh phù hợp. Vì vậy, thơng qua
SKKN này tôi muốn giúp học sinh khắc sâu, phân biệt hiện tượng đồng âm với hiện
tượng đa nghĩa này trong việc tạo lập văn bản cũng như trên thực tế đời sống.
5


- Thứ tư, đối với phần lớn học sinh thì việc học mơn Ngữ Văn là một điều gì đó các em
bị bắt buộc phải làm chứ các em không hề muốn. Học Ngữ Văn lúc này đối với học
sinh là một nghĩa vụ, và chính điều đó khiến cho các em cảm thấy khơng thoải mái khi
học. Đây chính là thử thách đầu tiên và cũng là lớn nhất mà một người dạy lẫn người
học môn Ngữ Văn phải đối mặt, bởi vì khi một người khơng thích học Ngữ Văn thì
chắc chắn sẽ khơng thể học nó tốt được. Chính vì vậy trách nhiệm của người giáo viên
dạy là phải tìm ra những phương pháp dạy học thích hợp nhằm khơi gợi niềm đam mê

của học sinh, để các em nhận ra rằng: Nếu muốn trở thành một người cơng dân tốt, có
cảm xúc và biết u thương, thì cần phải quan tâm đến bản thân chính q trình học
mơn Ngữ Văn của mình.
- Thứ năm, với cuộc sống ngày càng hiện đại hiện nay, trò chơi càng nhiều làm ảnh
hưởng đến tinh thần học tập của học sinh. Cho nên, giáo viên đóng vai trị quan trọng
trong việc tạo sự lôi cuốn học sinh trong từng tiết dạy. Từ đó, giáo viên cần phải ln
tìm hiểu cập nhật những kiến thức mới để tạo ra sự hứng thú đối với học sinh. Với sáng
kiến kinh nghiệm này, chúng ta có thể xây dựng những bài tập nhanh với hình ảnh hấp
dẫn để thu hút học sinh phân biệt giữa hai hiện tượng vừa chơi vừa học nhưng hiệu quả
thu lại rất cao.
II.3. Giải pháp, biện pháp:
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp:
Thông qua sáng kiến này, bản thân cố gắng giúp học sinh phân biệt được hiện
tượng đa nghĩa với hiện tượng đồng âm của ngôn ngữ: nắm vững cấu tạo, phân loại đặc
điểm của từng loại để tránh tình trạng dùng sai, dùng khơng đúng văn cảnh. Từ đó giúp
học sinh vận dụng nhuần nhuyễn, thích hợp từ nhiều nghĩa trong bài viết cũng như
trong giao tiếp hàng ngày.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp:
b.1. Hiện tượng đa nghĩa
 Khái niệm từ đa nghĩa:
Từ đa nghĩa (từ nhiều nghĩa) là những từ có một số nghĩa biểu thị những đặc điểm,
thuộ c tính khác nhau c ủ a một đối tượng, ho ặ c biể u th ị nh ững đối tượng khác nhau c ủa
thực tại.
Hay: Một từ v ới m ộ t hình thứ c ng ữ âm nhưng có thể gọ i tên nhi ều s ự vật, hi ện tượng,
bi ểu th ị nhi ều khái ni ệ m khác nhau trong th ực tế khách quan thì được g ọi là t ừ đa
nghĩa.
Ví dụ: Từ đi trong ti ếng Vi ệt là một từ đa nghĩa, nó vừa có nghĩa chỉ dịch chuyển
b ằng hai chi dưới (Tôi đi r ất nhanh nhưng vẫn không đuổ i kị p anh ấ y) v ừa có nghĩa
chỉ một người nào đó đã chết (Anh ấy ra đi mà khơng kịp nói lời trăng trối.)
 Cần phân biệt hiện tượng đa nghĩa và hiện tượng đồng âm:

Có thể hiểu từ đa nghĩa là một từ nhưng có nhiều nét nghĩa và các nét nghĩa đó có
mối liên hệ với nhau, còn từ đồng âm là những từ có hình thức ngữ âm ngẫu nhiên
giống nhau nhưng hoàn toàn khác nhau về nghĩa và các nét nghĩa đó khơng có bất kì
một mối liên hệ nào.
Ví dụ:
“Bà già đi chợ Cầu Đơng
Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng?
Thầy bói gieo quẻ nói rằng:
6


Lợi thì có lợi nhưng răng khơng cịn.”
(Ca dao)
Từ “lợi” trong ví dụ trên là từ đồng âm vì 2 từ “lợi” ở 2 câu hoàn toàn khác nhau về
ý nghĩa. Từ “lợi” trong câu đầu là tính từ chỉ lợi ích (trái với hại), cịn “lợi” ở câu 2 là
danh từ chỉ bộ phận trong khoang miệng, đó là phần thịt bao quanh chân răng, giữ cho
răng vững chắc.
Như vậy, việc phân biệt hiện tượng đa nghĩa và hiện tượng đồng âm là một điều cần
thiết trong việc sử dụng ngôn ngữ.
 Nguyên nhân biến đổi nghĩa của từ thành từ đa nghĩa:
- Nhu cầu giao tiếp: Do nhu cầu giao tiếp ngày càng đa dạng và phức tạp của con
người mà ngôn ngữ là một phương tiện cần phải bám sát để thỏa mãn nhu cầu đó. Số
lượng từ có hạn trong khi nhu cầu biểu thị nội dung ý nghĩa lại vơ hạn và khơng thể
tính hết. Nếu số lượng đơn vị từ tăng lên quá nhiều sẽ vượt quá khả năng ghi nhớ của
con người. Vì vậy, để khắc phục mâu thuẫn trên và để tuân thủ quy luật tiết kiệm hình
thức ngơn ngữ, tiếng Việt đã phát triển theo hướng dùng cái tối thiểu của hình thức để
biểu đạt tối đa nội dung. Quá trình này đã tạo ra các từ đa nghĩa.
- Từ phản ánh sự vật và các thuộc tính sự vật trở thành nét nghĩa của từ: Hệ quả
tất yếu là khi các thuộc tính của sự vật được từ gọi tên thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi
về nghĩa của từ. Ví dụ: Thẻ: trước đây, khi chưa phát minh ra giấy viết nghĩa là “mảnh

tre, gỗ được dùng để viết chữ” và chuyển sang hai nghĩa khác là “đồ dùng trong nghề
mê tín, dị đoan” (xin thẻ ở đền) và nghĩa “mảnh xương, ngà ghi chức tước mà các quan
đeo ở ngực”. Đến nay thì từ thẻ có nghĩa “giấy chứng nhận tư cách thành viên của một
tổ chức nào đấy” (thẻ hội viên,…)
- Do nhu cầu tạo ra những tên gọi mới: Để biểu thị những sự vật mới hình thành thì
các tên gọi cũ khơng cịn gây ấn tượng. Khi tên gọi mới được hình thành, tên gọi này
vừa mang nghĩa cũ lẫn nghĩa mới. Ví dụ: mạng nhện - mạng internet.
 Đặc điểm của từ đa nghĩa:
- Tính tiết kiệm – tính tần số sử dụng cao: Ngơn ngữ có quy luật tiết kiệm vơ cùng
kì diệu: dùng cái hữu hạn để biểu hiện cái vô hạn. Về mặt từ vựng, quy luật tiết kiệm
của ngôn ngữ thể hiện ở chỗ: cùng một hình thức ngữ âm có thể diễn đạt nhiều nội
dung khác nhau. Do đó từ đa nghĩa là những từ có tần số xuất hiện cao, được sử dụng
nhiều nhất trong đời sống ngơn ngữ.
- Tính nhiều nghĩa gắn liền với tính hệ thống: Các nét nghĩa trong từ đa nghĩa
không tồn tại đơn lẻ, cơ lập mà thường có quan hệ với nhau. Các nét nghĩa trong từ đa
nghĩa tập hợp với nhau thành ra một tổng thể các nét nghĩa có số lượng lớn hơn hai, có
quan hệ qua lại, quy định lẫn nhau và tổ chức thành một chỉnh thể. Nằm trong hệ thống
ý nghĩa của từ đa nghĩa, các nét nghĩa ln ln có một giá trị nhất định.
- Tính nhiều nghĩa gắn liền với tính cấu trúc: Quan hệ giữa các nét nghĩa trong hệ
thống ý nghĩa của từ đa nghĩa tạo thành cấu trúc của hệ thống ý nghĩa trong từ đa nghĩa.
Các quan hệ trong hệ thống cấu trúc từ đa nghĩa cũng có nhiều loại khác nhau.
b.2. Tiêu chí và phân loại các kiểu ý nghĩa của từ đa nghĩa
Các ý nghĩa khác nhau của một từ đa nghĩa không tồn tại rời rạc mà quan hệ, quy
định lẫn nhau tạo thành một kết cấu. Nghiên cứu kết cấu ý nghĩa của từ cần phải tách ra
các ý nghĩa khác nhau của nó. Có nhiều cách phân loại ý nghĩa của từ đa nghĩa.
b.2.1. Cách phân loại nghĩa truyền thống
7


 Phân loại nghĩa từ theo lịch đại:


Quan điểm này nhìn nhận nghĩa của từ trong tiến trình phát sinh, phát triển của nó
trong lịch sử và thời gian. Do đó, người ta phân định thành các cặp nghĩa:
- Nghĩa cổ và nghĩa mới:
Nghĩa cổ là nghĩa đầu tiên của từ, nghĩa này ít được dùng ở thời điểm hiện tại, có
khi bị loại hẳn trong giao tiếp hiện nay. Thường thì nghĩa cổ chỉ được dùng trong
những văn bản mà tác giả có dụng ý tái hiện lại khơng khí cổ kính của câu chuyện.
Nghĩa mới là loại nghĩa xuất hiện sau này của từ, nghĩa mới được nhiều người biết
đến và sử dụng rộng rãi hơn nghĩa cổ.
Ví dụ: từ thẻ có nghĩa gốc là chỉ mảnh tre dài, hẹp, mỏng, dùng để viết chữ vào đó
(khi chưa có giấy viết); hoặc nghĩa cổ khác là thẻ ngà có ý nghĩa là vật chứng nhận địa
vị xã hội của quan lại phong kiến dùng đeo trước ngực. Còn hiện nay nghĩa đó được sử
dụng với nghĩa mới như: thẻ đảng viên, thẻ sinh viên,… với ý nghĩa giấy chứng nhận.
- Nghĩa gốc và nghĩa chuyển:
Nghĩa gốc là nghĩa đầu tiên của từ, là khái niệm đầu tiên mà từ biểu thị. Nghĩa
chuyển là nghĩa phát sinh từ nghĩa gốc, có thể suy ra từ nghĩa gốc. Nghĩa gốc và nghĩa
chuyển có mối liên hệ với nhau.
Nghĩa gốc: mùa đầu tiên của một năm (từ tháng giêng đến tháng ba)
Ví dụ: Xuân
Nghĩa chuyển: tuổi trẻ, sức khỏe, một năm (tuổi xuân, sức xuân)
 Phân loại nghĩa từ theo đồng đại:
Ta xem xét nghĩa của từ trong trạng thái hoạt động hiện thời của chúng để xác lập
nội dung mà từ gợi ra. Theo đó, người ta chia ra các cặp nghĩa sau:
- Nghĩa trực tiếp và nghĩa gián tiếp:
Nghĩa trực tiếp là nghĩa phản ánh sự vật, hiện tượng một cách trực tiếp không thông
qua ý nghĩa nào khác của từ này.
Nghĩa gián tiếp là ý nghĩa phản ánh đối tượng gián tiếp thơng qua những nét ý nghĩa
khác.
Ví dụ: Từ chân chỉ bộ phận để đi, chi dưới của động vật là nghĩa trực tiếp vì nó trực
tiếp phản ánh đối tượng và người ta khơng giải thích được vì sao từ chân lại có ý nghĩa

đó. Ngược lại, các ý nghĩa khác của từ này như: chân tường, chân trời, chân đồi… là
nghĩa gián tiếp vì có thể giải thích được thơng qua ý nghĩa trực tiếp trên.
- Nghĩa thông thường và nghĩa thuật ngữ: Phản ánh trình độ nhận thức khác nhau
đối với sự vật, hiện tượng, đủ để có thể phân biệt những đối tượng cùng loại được khái
quát trong ý nghĩa đó đối với những đối tượng khác.
Nghĩa thuật ngữ phản ánh những thuộc tính bản chất của sự vật, hiện tượng.
Nghĩa thơng thường: chất lỏng nói chung
Ví dụ: Nước
Nghĩa thuật ngữ: hợp chất của hydro và oxy
- Nghĩa đen và nghĩa bóng:
Nghĩa đen là loại nghĩa có thể nhận thức được một cách trực tiếp cảm tính, khơng
phải trải qua các bước luận lí phức tạp.
Nghĩa bóng là loại nghĩa được suy ra từ nghĩa đen được hiểu một cách trừu tượng
thường thông qua phương thức ẩn dụ. Hai loại này có mối liên hệ với nhau về nghĩa.
Nghĩa đen: là một loại kim loại q
Ví dụ: Vàng
Nghĩa bóng: chỉ nhân cách cao quý
8


(Bác ấy đúng là người có tấm lịng vàng.)
- Nghĩa chính và nghĩa phụ:
Nghĩa chính là nghĩa cơ bản, làm nền tảng cho sự phát triển nghĩa của từ, ít phụ
thuộc vào văn cảnh. Nghĩa chính là nghĩa được nhiều người biết đến và được sử dụng
trong phạm vi rộng rãi, phổ biến.
Nghĩa phụ là nghĩa chỉ sử dụng trong một số trường hợp hạn chế, nhất định.
Nghĩa chính của từ có thể trùng với nghĩa gốc. Song có khi nghĩa chính của từ trong
một giai đoạn nhất định lại là nghĩa nhánh, là nghĩa phụ ở một giai đoạn khác.
Ví dụ: Từ chân nghĩa “chi dưới của động vật”, từ chín nghĩa “chỉ trạng thái của quả
cây” là nghĩa chính. Các nghĩa khác cịn lại của hai từ trên là các nghĩa phụ.

- Nghĩa ổn định và nghĩa lâm thời:
Nghĩa lâm thời chỉ được sử dụng trong một thời gian, sau đó chúng lại mất đi và
khơng được sử dụng nữa. Nghĩa lâm thời chính là nghĩa văn cảnh, nghĩa văn chương
được xét ở một góc độ khác, một tiêu chí khác.
Ví dụ:
Nghĩa ổn định: cơ quan sinh sản của cây hạt kín,
Hoa
thường có màu sắc và hương thơm.
Nghĩa lâm thời: chỉ Thúy Kiều trong câu thơ sau:
“Rộng thương cỏ nội hoa hèn
Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau”
b.2.2. Cách phân loại nghĩa từ hiện đại:
 Nghĩa biểu vật: Là thành phần nghĩa biểu thị và giới hạn phạm vi sự vật miêu tả
hoặc đề cập tới. Từ có thể mang một nghĩa biểu vật, hoặc nhiều nghĩa biểu vật.
Ví dụ: Từ chín có các nghĩa biểu vật sau:
1. Quả, cây đã đến thời kì phát triển cao nhất: Quả chín, lúa chín.
2. Nấu thức ăn đến lúc ăn được: Cơm chín, thịt chín
3. Suy nghĩ kĩ, đầy đủ: Nghĩ đã chín mới nói.
4. Phát triển đến cao độ cần giải quyết: Tình hình xung đột đã chín lắm rồi.
5. Trạng thái hổ thẹn làm da mặt đỏ rực: Ngượng chín cả người.
Như thế, căn cứ để xác định tính nhiều nghĩa biểu vật của từ là các phạm vi sự vật
hiện tượng khác nhau được từ biểu thị.
 Nghĩa biểu niệm: Là thành phần nghĩa trung tâm cơ bản của một từ. Nghĩa biểu
niệm phản ánh những hiểu biết của con người về những thuộc tính bản chất của sự vật,
hiện tượng trong thực tế khách quan. Nghĩa biểu niệm thường tồn tại dưới dạng một
cấu trúc. Nó có thể phân chia được thành từng phần nhỏ. Mỗi phần nhỏ là một nét
nghĩa. Ví dụ: Đi (hoạt động dời chỗ từ A đến B), (bằng chân), (tốc độ bình thường), (tư
thế thân mình thẳng), (hai chân khơng đồng thời nhấc lên khỏi mặt đất).

Nghĩa biểu cảm: Là tập hợp tất cả những sắc thái đánh giá góp phần bộc lộ

trạng thái tâm lí, tình cảm và sự đánh giá chủ quan của cá nhân người nói trước người
nghe và trước đối tượng được nói đến. Ví dụ: chết, hi sinh,… đều cùng nghĩa biểu vật
nhưng khác nhau về nghĩa biểu cảm.
- Ông ta đã chết tối qua rồi. (Sắc thái trung hòa)
- Anh ấy đã hi sinh vì Tổ quốc. (Sắc thái trang trọng)
b.2.3. Phương thức chuyển nghĩa của từ đa nghĩa:
9


Hai phương thức chuyển nghĩa phổ biến nhất trong tất cả các ngôn ngữ trên thế giới
là ẩn dụ và hoán dụ. Để phân biệt với ẩn dụ tu từ và hoán dụ tu từ là hai phương thức
chuyến nghĩa lâm thời trong văn chương thì chúng ta nên gọi đó là ẩn dụ từ vựng và
hốn dụ từ vựng.
 Ẩn dụ từ vựng: Là phương thức chuyển đổi tên gọi giữa sự vật A và sự vật B,
(hai sự vật này thường khơng có quan hệ khách quan với nhau). Sự chuyển tên gọi này
được thực hiện bằng phép so sánh liên tưởng thông qua sự nhận thức về sự so sánh
mang tính chất chủ quan và tư duy liên tưởng của con người. Ẩn dụ từ vựng có thể
được thiết lập dựa trên sự tương đồng giữa hai sự vật trên các mặt sau:
- Ẩn dụ hình thức: Là ẩn dụ dựa vào sự giống nhau về hình thức giữa các sự vật,
hiện tượng. Đây là sản phẩm của tư duy cảm tính trực quan và nó xuất hiện với tần số
cao trong lời nói. Ví dụ: mũi người - mũi thuyền - mũi kim…
- Ẩn dụ vị trí: Là ẩn dụ dựa vào sự giống nhau, sự tương quan về vị trí giữa các sự
vật, hiện tượng. Ví dụ: chân người, chân bàn, chân đồi (đều là bộ phận dưới cùng trong
tương quan cấu tạo của cái toàn thể).
- Ẩn dụ cách thức: Là ẩn dụ dựa vào sự giống nhau về cách thức thực hiện giữa các
hoạt động của sự vật hiện tượng. Ví dụ: Tơi về thăm quê - lũ về (đều là hoạt động di
chuyển trở lại vị trí cũ)
- Ẩn dụ về tính chất bổ sung: Là ẩn dụ dùng tên gọi của những cảm giác thuộc giác
quan này để gọi tên những cảm giác của giác quan khác.
Ví dụ: chua, ngọt, cay,… là những cảm giác của vị giác được dùng để gọi các cảm giác,

thính giác: lời nói ngọt, giọng nói chua lt, nói cay q...
- Ẩn dụ thuộc tính, tính chất: là những ẩn dụ dựa vào sự giống nhau về thuộc tính,
tính chất giữa các sự vật, hiện tượng. Ví dụ: đất khơ, tình cảm khơ,…
 Hốn dụ từ vựng: Là phương thức chuyển đổi tên gọi giữa sự vật A và sự vật B
(hai sự vật này có quan hệ khách quan với nhau). Sự chuyển tên gọi này được thực hiện
bằng phép liên tưởng dựa vào các đặc điểm tương cận, gần gũi nhau giữa các sự vật,
hiện tượng trong thực tế khách quan thông qua sự nhận thức và tư duy liên tưởng của
con người. Sự so sánh và liên tưởng này không tùy thuộc nhiều vào sự nhận thức chủ
quan mà có tính chất khách quan nhiều hơn phương thức ẩn dụ.
Dựa vào sự quan hệ nhau của sự vật, hiện tượng mà ta có thể chia hoán dụ từ vựng
ra thành các kiểu khác nhau sau:
- Hoán dụ từ vựng dựa trên quan hệ bộ phận và toàn thể hoặc chỉnh thể và bộ phận của
sự vật, hiện tượng. Ví dụ: một ngày cơng, một đêm văn nghệ…
- Hoán dụ từ vựng dựa trên quan hệ các đơn vị thời gian nhỏ với đơn vị thời gian lớn.
Ví dụ: xuân, hạ, thu… để chỉ năm.
- Hoán dụ từ vựng dựa trên quan hệ vật chứa và vật bị chứa. Ví dụ: cả làng…, cả
nhà…, lớp ta đã giật giải…
- Hoán dụ từ vựng dựa trên quan hệ vật chứa và lượng chất được chứa. Ví dụ: rương
quần áo, tủ vải vóc…
b.3. Hiện tượng đa nghĩa trong một số đoạn trích của “Truyện Kiều”:
Trong “Truyện Kiều” số lượng từ đa nghĩa chỉ có khoảng trên 10 từ nhưng tần số sử
dụng của mỗi từ lại tương đối nhiều. Hiện tượng đa nghĩa chủ yếu ở từ đơn và thuộc từ
loại danh từ, tính từ. Ngồi những từ có tần số xuất hiện ít như: lộc, lành,… thì những
10


từ còn lại: bạc, hoa, xuân, lòng, được xuất hiện khá nhiều. Mỗi từ đa nghĩa lại được thi
hào đặt vào từng văn cảnh, từng câu thơ tạo ra những nét nghĩa mang những giá trị biểu
đạt khác nhau.
b.3.1. Biểu hiện của từ đa nghĩa trong một số đoạn trích của “Truyện Kiều”


Xuân
- Nghĩa gốc: Trước hết, cần phải phân biệt rõ ràng hai từ xuân mà Nguyễn Du đã sử
dụng trong “Truyện Kiều”. Thi hào đã sử dụng hai chữ xn khác nhau hồn tồn về
nghĩa và đó được xem là hiện tượng đồng âm chứ không phải là từ đa nghĩa.
+ Từ xuân thứ nhất, đó là từ xuân mà nghĩa của nó chỉ cây xuân. Cây xuân thuộc
loại như cây xoan, thân cây to, gỗ cứng và theo sách Trang tử chép thì đời thượng cổ có
thứ cây xuân sống lâu, mùa xuân của nó đến tám nghìn năm. Vì vậy, trong “Truyện
Kiều”, nhà thơ Nguyễn Du đã dùng mười một lần từ xuân này kết hợp với một yếu tố
khác để chỉ đấng sinh thành như trong các câu thơ sau:
Xuân và huyên để gọi hai đấng sinh thành:
Xót thay hun cỗi xn già,
Tấm lịng thương nhớ biết là có ngi?
Dùng để nói đến cha mẹ của Thúy Kiều nhưng được dùng với phương thức ẩn dụ:
Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,
Liều đem tấc cỏ, quyết đền ba xuân
Ba xuân có nghĩa là con cái báo đáp cho cha mẹ như cây cỏ đền bồi mùa xuân.
Như vậ y, t ừ xuân trên là để nói đến cha mẹ, nói đế n tu ổi già hay s ức khỏ e củ a cha mẹ
đã già yếu và nghĩa của nó khơng hề liên quan đến từ xuân sau đây.
+ Từ xuân thứ hai với nét nghĩa gốc là chỉ mùa xuân, mùa đầu tiên trong năm bắt
đầu t ừ tháng 1 đến h ết tháng 3 và đây là từ xuân mà chúng ta c ần quan tâm làm rõ tính
đa nghĩa củ a nó. Mùa xuân là mùa cây c ố i đâm chồi, nả y l ộ c, và là mùa mà c ả nh v ậ t,
thiên nhiên tr ở nên tươi tố t, căng đầ y s ức s ống. Trong “Truyệ n Ki ều ” , Nguyễn Du đã
41 lần dùng từ xuân, trong đó 22 lần từ xuân xuất hiện với nét nghĩa gốc này.
Cũng như các nhà thơ khác, thi hào đã sử dụng từ xuân với nét nghĩa vốn có của từ
để miêu t ả ngày xuân v ớ i nh ững hình ả nh, khơng khí c ủa mùa xuân. Ch ắ c h ẳn không ai
xa lạ gì vớ i b ức tranh t ả c ả nh mùa xuân trong sáng và thanh khi ết ở nh ững câu thơ
trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân” – Truyện Kiều:
“Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.

Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.” (9)
Chị em Thúy Kiều đi chơi Thanh minh vào một ngày xuân. Mùa xuân là mùa đẹp
nhấ t trong một năm; mùa xuân có ba tháng. Do đó, bức tranh thiên nhiên đã được vẽ
lên v ới nh ững gam màu th ật trong sáng: màu c ỏ non xanh mơn mở n và màu tr ắ ng tinh
khi ết củ a hoa lê. Nguyễn Du đã gieo vào lòng người c ảm giác say mê, đầ y s ức s ống
trướ c cảnh đẹ p của đấ t tr ời vào nh ững ngày đầ u củ a tháng cuố i xuân. Khi nhắc đến mùa
xuân trong mỗi chúng ta đều liên tưởng đế n b ức tranh tuyệt mĩ ấ y c ủ a Nguyễ n Du. Hay
câu thơ sau:
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân. (9)
Xuân lan, thu cúc mặn mà cả hai.
11


Mùa xuân và mùa thu là hai mùa đẹp nhất trong năm. Nếu mùa xuân trăm hoa đua
n ở , có hoa lan n ổi b ật lên đẹp r ạng r ỡ , thì vào mùa thu thiên nhiên, hoa lá l ạ i mang v ẻ
đẹp khác v ới hoa cúc gi ả n d ị , mà không h ề kém ph ần xinh tươi. Mỗi mùa đều có mỗ i
lo ại hoa q, ví như Thúy Ki ều, Thúy Vân hai người con gái xinh đẹp, tài s ắc v ẹn toàn.
Xuân- một từ đa nghĩa được sử dụng khá phổ biến trong văn chương cùng với các
nét nghĩa vốn có của nó. Chỉ một chữ xuân thôi cũng đủ để nhà thơ khái quát, phản ánh
được tâm trạng, gợi lên khơng khí tươi vui, nhộn nhịp của cuộc sống. Chẳng thế mà các
thi sĩ của chúng ta đã gọi mùa xuân, nâng niu và khao khát mùa xuân đến như thế. Tố
Hữu đã từng gọi mùa xuân rất thân mật với đại từ “em”:
Xuân ơi xuân, em mới đến dăm năm,
Mà cuộc sống đã tưng bừng ngày hội.
(Tố Hữu – “Bài ca mùa xuân 1961”)
Nhà thơ chào đón, ca ngợi mùa xuân của thiên nhiên, của dựng xây, của hạnh phúc,
lần đầu tiên trong thơ mùa xuân của đất nước được gọi là “em”. Hay nhà ái quốc Phan
Bội Châu sau hơn ba mươi năm hoạt động cách mạng, phải trở về khuây “với bạn đầu
xanh” cũng than thở với mùa xuân:

Xuân ơi xuân, xuân có biết cho chăng?
Thẹn cùng sơng, buồn cùng núi, tủi cùng trăng.
(Phan Bội Châu - “Bài ca chúc tết thanh niên”)
Quy luật của tự nhiên là thế nhưng không ai là không tiếc mùa xuân, ngay nhà thơ
Xuân Diệu dẫu trẻ trung, sôi nổi đến như vậy nhưng cũng không sao ngi được niềm
than tiếc hồi xn:
Xn đang tới, nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.
(Xuân Diệu – “Vội vàng”)
Nói như vậy, để từ đó chúng ta mới tìm hiểu xem một đại thi hào đã đưa mùa xuân
vào trong “Truyện Kiều” và cảm nhận về mùa xuân như thế nào? Với chữ xuân
Nguyễn Du đã tinh dụng ra sao?
- Nghĩa chuyển:
+ Chỉ niề m vui, hạ nh phúc: Mùa xuân đẹ p, trong xanh, tinh khi ế t là th ế nên mỗ i
khi đông qua xuân đến như hứa hẹn bao điề u tố t lành, h ạnh phúc cho một năm mớ i. Vì
v ậ y mà Nguyễ n Du thườ ng hay s ử d ụ ng từ xuân đi kèm mộ t danh t ừ nào đó thì nghĩa
c ủ a t ừ đó ln gợi cho ta mộ t c ả m giác tho ả i mái, s ự vui v ẻ , nh ững gì t ốt đẹp và may
mắn nhất.
“Một tường tuyết trở sương che,
Tin xuân đâu dễ đi về cho năng!”
“Tin xuân” là những tin vui, tin tốt lành của người yêu.
Hay từ xuân trong: đêm xuân, giấc xuân:
Thuý Vân chợt tỉnh giấc xuân,
Dưới đèn ghé đến ân cần hỏi han:
Đêm xuân, giấc xuân nhà thơ muốn nói đến một đêm an lành, có một giấc ngủ
ngon khơng ph ải suy nghĩ về điều gì. Trướ c tai bi ến c ủa gia đình, Thúy Kiều đang lo
lắng khơng thể chợp mắt được thì Thúy Vân vẫn vơ tư, vẫn có một giấc ngủ ngon.

12



+ Chỉ tuổ i tr ẻ , s ắc đẹ p: Như đã nói ở trên, quy lu ật tu ần hồn xn đến, xn đi nên
ai ai cũng có lúc đón mùa xn đến mà lịng c ả m th ấ y xao xuyến vì mình đang thêm
mộ t tuổ i mớ i , thêm già đi rồi tuổ i trẻ , nhan s ắc cũng dầ n phai tàn theo th ờ i gian . Do đó,
xn cịn chỉ tuổi trẻ , nhan s ắc và điều này càng có ý nghĩa quan trọng hơn đối v ới
người phụ nữ. Nét nghĩa này được thi hào dùng trong câu thơ sau:
Ngày xn em hãy cịn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
(9)
Vẫn là chữ xuân đó nhưng ở hai câu thơ trên lại dùng phương thức hoán dụ, Nguyễn
Du đã dùng từ ngày xuân để nói đến tuổi tr ẻ và s ắc đẹp. Sau bu ổi đi hội Đạ p thanh và
g ặp mộ Đạ m Tiên thì Thúy Ki ều đã dự đốn đượ c ki ếp đoạn trườ ng củ a mình s ẽ b ắ t
đầu t ừ đây. Số mệ nh c ủ a nàng như đã được an bài trước và khi gia đình gặ p tai bi ến
nàng đã phải trao duyên cho Thúy Vân. Nàng mu ốn Thúy Vân thay mình để n ối duyên
v ới chàng Kim, th ực hi ện l ời th ề h ẹn trăm năm giữa Ki ề u và Kim Tr ọ ng. Rồ i ở mộ t số
trường hợp khác Nguyễn Du cũng đã sử dụng từ xuân với nghĩa này như:
Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê. (9)
Hay ngày Vương ông, Vương bà gặp lại đứa con gái hiếu thảo sau mười lăm năm thì
ni ề m vui khôn xi ế t khi th ấ y con gái mình nay v ẫ n cịn s ố ng khỏ e mạnh nhưng cũng vơ
cùng đau lịng, xót xa cho sự hao gầy của con gái.
Bấy chầy dãi nguyệt, dầu hoa,
Mười phần xuân, có gầy ba bốn phần.
Thúy Kiều “phận liễu yếu đào tơ” trải qua mười lăm năm lưu lạc “thanh lâu hai lượt,
thanh y hai l ần” vớ i bi ết bao đau khổ , ng ậm đắ ng, nu ốt cay trong nướ c mắ t thì nhan s ắ c,
sự trẻ trung sao cịn được ngun vẹn như ngày trước.
+ Chỉ tình u: Sự tài tình nh ất c ủa Nguyễ n Du là cách dùng ch ữ dướ i hình th ức ngh ệ
thu ật ẩn d ụ , hoán d ụ nhưng người đọc, ngườ i nghe v ẫn có th ể c ả m nh ận đượ c ẩ n ý sâu
xa đằng sau nh ững ch ữ nghĩa đó. Từ xuân tượng trưng cho sự tr ẻ trung, cho cái đẹp
như những câu thơ trên nhưng ở nh ững trườ ng h ợp sau s ự k ết h ợp có ph ần phũ phàng

hơn và xuân gi ờ l ạ i ẩ n ch ứa thêm một nét nghĩa khác. Có khi tác gi ả dùng t ừ theo
nghĩa thuần Vi ệt: “t ỏ a ” là cái khoá ; “xuân to ả” hay “khoá xuân ” là nơi giam giữ người
con gái đẹp:
Trước lầu Ngưng Bích khố xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung. (9)
Như vậy, xuân ở đây đâu chỉ là niềm vui, tuổi trẻ nữa mà đó cịn là tình u. Khóa
xn đó là nơi Kiều b ị giam gi ữ, trói bu ộc c ả về th ể xác l ẫn tâm h ồn. Tình yêu, tu ổi tr ẻ ,
s ắc đẹ p củ a nàng Ki ều r ồi cũng sẽ lụi tàn n ơi l ầu xanh đó. Và để r ồ i nh ững khi nhìn l ạ i
mình nàng cũng phải ngao ngán, thốt lên rằng:
Những mình nào biết có xn là gì!
“Chữ trinh đáng giá nghìn vàng” kia khi nàng đã trao cho Mã Giám Sinh một tên vô
h ọc, không bi ế t trân tr ọng điều đó khi “chơi cho li ễu chán hoa chê” xong r ồi thì h ắn bán
Ki ề u vào l ầ u xanh. Và nh ững ngày n ối tiế p, khi ph ải ti ếp khách ở l ầu xanh “Sớm đưa
Tố ng ng ọc, tối tìm Tràng Khanh” những cu ộc vui su ốt đêm ấ y nàng bi ết r ằng đó chỉ là
sự thỏa mãn dục vọng chứ đâu phải là tình yêu.

13


Phát huy những nét nghĩa vốn có của từ xuân, Nguyễn Du đã đưa vào từng câu thơ
r ấ t h ợp ngườ i, hợ p cả nh. Xuân để chấm phá, để g ợi lên ni ề m vui, h ạnh phúc; xuân là
tình yêu, là s ắc đẹp, là tuổ i tr ẻ . Xuân còn đượ c thi hào s ử dụ ng có phần ưu ái hơn khi
nói đến người con gái đẹp, đặc biệt là khi miêu tả, nói về nhân vật Thúy Kiều.
 Hoa
- Nghĩa gố c: Trong t ổ ng số 3254 câu Ki ề u, thì có 107 l ầ n t ừ hoa xu ất hi ệ n và đượ c
chia ra thành 4 nét nghĩa sau:
+ Cái hoa, nghĩa đen và nghĩa bóng là dùng để tỷ dụ người đẹp, sắc đẹp, tình u.
+ Cái hoa được nhân cách hóa
+ Tỷ dụ mặt người đẹp
+ Tính từ chỉ vật gì có hoa, có trang sức bằng hoa

Dựa trên cơ sở của các nét nghĩa trên, tôi cũng đưa ra những nét nghĩa chuyển của
từ hoa theo quan điểm nhìn nhận riêng của tôi.
Trước tiên, hoa với nghĩa gốc là chỉ cái hoa, là bộ phận sinh sản của cây hạt kín, có
màu s ắc và hương thơm. Từ hoa với nghĩa gốc đượ c s ử dụ ng v ới tầ n số là 59 lầ n, như
các câu thơ sau:
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh. (9)
“Hoa” và “liễu” đều được nhân cách hóa. Hoa ghen vì khơng thắm bằng vẻ đẹp của
Kiều và liễu thì hờn vì không xanh, không mặn mà như Kiều. Với từ “ghen” và “hờn”
bao hàm ý nghĩa rằng sắc đẹp của Thúy Kiều đến mức tạo hóa cũng phải ghen ghét,
ganh tị.
Sen tàn cúc lại nở hoa,
Nhà thơ khơng nói gì đến sự thay đổi, chuyển giao mùa trong năm nhưng bằng hình
ảnh hoa sen và hoa cúc người đọc tự đốn được đó là sự chuyển từ mùa hạ sang mùa
thu. Mùa hạ mới có hoa sen nổi bật, cịn mùa thu lại rực rỡ với hoa cúc, hai loài hoa
tiêu biểu cho hai mùa.
Thiếp như hoa đã lìa cành,
Khi biết được tình cảm mà Thúc Sinh dành cho mình, muốn lấy mình về làm thiếp
nhưng Kiều tự nhận mình giống như một bơng hoa đã lìa cành, trở nên khơ héo, tàn úa
rồi chứ khơng cịn hương sắc gì đáng để được yêu quý nữa.
Hình ảnh hoa được xuất hiện tương đối nhiều trong các câu thơ:
Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa.
Trước sau nào thấy bóng người,
Hoa đào năm ngối cịn cười gió đơng
Cảnh vật giờ đã khác xưa, người khơng cịn thấy nữa mà chỉ cịn hoa đào lay động
trong làn gió. Hoa cứ đế n mùa hoa n ở . Cứ có gió xuân là hoa l ạ i bướ c vào cuộ c số ng
h ội hè. Hoa “cườ i ” là c ử ch ỉ đẹp nhấ t của lồi hoa vì nó đang sống h ế t mình v ới ngườ i
b ạn x ứng đơi - gió xn. Nhưng đáng thương thay, cái tươi tắn vơ tình củ a hoa càng
khơi gợi s ự tàn héo c ủ a n ỗi ngườ i. Vết thương lòng từ s ự va ch ạ m tr ớ trêu này mà tr ở
nên nh ức nhối. Không gian của ngày xưa và của hôm nay đã có bao đổ i thay khác bi ệ t.
Người xưa cũng đã vắ ng bóng. Duy nh ấ t khơng có s ự đổi thay là tình u thu ỷ chung,

mãnh liệt của Kim Trọng.
- Nghĩa chuy ể n: Nhắc đến hoa là liên tưởng đến cái đẹp. Hoa có màu s ắc, có hương
thơm nên hoa ln là hình ả nh so sánh, ẩn d ụ v ề người phụ n ữ xinh đẹ p, quý phái, sang
14


tr ọng. Thúy Ki ề u đượ c thiên phú mộ t v ẻ đẹp nghiêng nướ c nghiêng thành làm say đắ m
bao người thì Nguyễ n Du khơng th ể b ỏ qua hình ảnh củ a hoa để so sánh, để biểu trưng
mỗ i khi nh ắc đến nàng Ki ều. Vẻ đẹ p c ủ a Ki ều đến hoa cũng ph ả i ghen, li ễu cũng phả i
hờn. Với nét nghĩa chuyển từ hoa được xuất hiện với tần số là 48 lần.
+ Chỉ người phụ nữ, chỉ tình yêu hay sắc đẹp: Nguyễn Du đã dành ưu ái nhất cho vẻ
đẹp của người phụ nữ, cho tình u đơi lứa. Bởi “Người ta là hoa đất” người con gái
đẹp lại là bông hoa tinh tuý nhất, ngọt ngào nhất trong vô số các lồi hoa của tạo vật. Vì
thế, hình ảnh được đem ra so sánh với hoa là hình ảnh người phụ nữ đẹp. Trong 107 lần
xuất hiện có tới 49 lần từ hoa quy chiếu đến người con gái đẹp. Hoa khơng chỉ làm nổi
bật vẻ đẹp ngoại hình kiều diễm mà hoa còn là một thứ “nước rửa ảnh” làm sáng thêm
trí tuệ sắc sảo và tâm hồn nồng nhiệt của người con gái họ Vương:
Hoa hương càng tỏ thức hồng,
Đầu mày cuối mắt càng nồng tấm yêu.
“Hoa” và “hương” tượng trưng cho vẻ đẹp và mùi thơm. Ở đây Nguyễn Du muốn
nói khi Kiều đánh đàn nhìn sắc càng đẹp và tài càng làm say lòng người.
Hoa còn là biểu tượng của tình u đơi lứa. Trong “Truyện Kiều”, dưới nhiều hình
thức khác nhau, tình yêu kéo dài từ đầu đến cuối, đa sắc đa màu với những khuôn mặt
điển hình bất hủ, từ mối tình đầu e ấp, được dệt bởi mộng và thơ:
Gặp tuần đố lá, thỏa lịng tìm hoa.
Trong ngày hội đạp thanh khi “chị em sắm sửa bộ hành chơi xn” thì có biết bao
thiếu nữ xinh đẹp từ khắp nơi về dự hội, mỗi người đều như những bông hoa tươi đẹp,
thơm ngát hội tụ thành một vườn hoa rực rỡ. Chàng Kim Trọng cũng đến tham dự hội
trong ngày Thanh minh ấy và đã thỏa lòng mong ước khi được gặp Thúy Kiều - một
người con gái xinh đẹp, thùy mị nổi bật trong vườn hoa đó. Hay trong câu thơ:

Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa.
Nguyễn Du lấy hình ảnh đóa hoa để ẩn dụ về nàng Kiều, để nói về tình u, sự xinh
đẹp của nàng. Hoa cịn là hình ảnh miêu tả số phận của Thúy Kiều vì hoa chóng nở,
sớm tàn đó là quy luật tất yếu. Vì vậy, cái kiếp hồng nhan bạc mệnh ấy của Kiều cũng
như quy luật sinh trưởng của một đóa hoa.
Hoa dù rã cánh lá còn xanh cây.
Trước cảnh gia biến, Kiều phải bán mình để chuộc cha, với nàng cơng ơn sinh thành,
dưỡng ni của cha mẹ là khơng gì đền đáp cho xứng. Nên hoa dù có rã cánh, rụng
xuống đất nghĩa là nàng hy sinh thân mình, chịu đau khổ để cho gia đình vượt qua cơn
sóng gió, được đứng vững, n bình “lá cịn xanh cây”.
+ Chỉ sự tươi tắn: Hoa là vật phẩm đẹp đẽ mà đất trời ban tặng cho cây cối. Sắc màu
đó, hương thơm đó đã mang lại cho hoa một ý nghĩa biểu trưng dịu dàng: hoa tượng
trưng cho cái đẹp, cái thanh cao và còn biểu trưng cho sự tươi tắn, dịu dàng.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang, (9)
“Hoa” và “ngọc” đã được nhân cách hóa. Nụ cười của Thúy Kiều tươi như hoa, tiếng
nói của nàng thì trong như ngọc. Hoa là miệng cười rồi hoa có lúc lại là nét mặt của
Thúy Kiều:
Lại càng ủ dột nét hoa,
Hoa trong câu thơ khơng phải để chỉ nụ cười, cũng khơng nói đến số phận của Thúy
Kiều mà tác giả muốn nhấn mạnh đến nét mặt của Kiều. Nàng đang buồn, đang lo lắng
15


và nỗi buồn đã hiện lên trên khuôn mặt xinh đẹp, diễm lệ ấy. Vì thế mà Thúy Kiều vẫn
đẹp ngay cả những khi nàng buồn, nét buồn của nàng vẫn phải là “nét hoa”.
Nếu như “hoa cười” được nhân hóa chỉ sự tươi tắn, xinh đẹp thì một lần nữa hoa lại
được nhân hóa thành “hoa chào”:
Hoa chào ngõ hạnh hương bay dặm phần. (2862)
Ngày xưa, ai đậu được tiến sĩ sẽ được cưỡi ngựa để đi xem hoa ở Ngự Uyển, cho
nên nói được là “hoa chào” để thể hiện sự tôn trọng và xứng là một người quyền quý,

cao sang. Khi Kim Trọng và Vương Quan đỗ đạt trở về nhà thì đến hoa cũng nghiêng
mình chào đón, chính từ hoa đã gợi lên một khơng khí tươi vui, trang trọng.
+ Tính từ chỉ vật gì có hoa, có trang sức bằng hoa, hay có vẻ đẹp: Hình ảnh hoa
cịn gợi lên sự thanh cao, đẹp đẽ nhất. Trong Truyện Kiều, hoa được dùng như một tính
từ để chỉ cái cao sang, quyền quý. Những gì xung quanh Kiều: trướng hoa, kiệu hoa,…
đều đã trở nên lộng lẫy, đẹp hơn và nhờ có hoa mà khơng khí, không gian của một tiệc
cưới mới thật sự đúng nghĩa và thêm phần trang trọng.
Kiều từ trở gót trướng hoa,
Hoa thêu dệt nên lời thề với người tình chung:
Thề hoa chưa ráo chén vàng
Mỗi tiếng hoa gieo vào câu thơ tựa hồ như một nốt nhạc vang vang đầy xúc cảm.
Mảnh hương nguyền cịn đó, phím tơ đàn cịn đây, vậy mà lời thề kia đã xa mất rồi.
Một lời thề chưa được đền đáp trọn vẹn! Đó là lời “thề hoa” bởi đằng sau nó là mối tình
thiêng liêng, là khát vọng hạnh phúc mãnh liệt.
Hoa trở thành tính từ khi đi cùng với một danh từ khác để trở thành một cụm danh
từ chỉ sự vật. Rõ ràng nhờ vào nét nghĩa của từ “hoa” mà “trướng hoa”, “thềm hoa”,…
những danh từ ấy trở nên tươi đẹp hơn, sang trọng và cao quý hơn rất nhiều.
Có thể thấy, từ hoa trong “Truyện Kiều” chủ yếu được dùng với hai nghĩa: nghĩa
thứ nhất là chỉ người con gái đẹp, chỉ tình u, sắc đẹp; nghĩa thứ hai là tính từ chỉ vật
có hoa, có trang sức bằng hoa,... Hoa hình ảnh ẩn dụ cho vẻ đẹp của Thúy Kiều và đã
góp một phần lớn trong việc miêu tả thân phận trôi nổi, lưu lạc của nàng.
 Bạc
- Nghĩa gốc: Trong 3254 câu Kiều thì Nguyễn Du chỉ dùng 19 lần từ bạc nhưng việc
kết hợp của từ “bạc” với một yếu tố khác đã tạo nên những nét nghĩa chính xác vừa hợp
người, hợp cảnh trong mỗi trường hợp và từng đối tượng.
Theo Nguyễn Như Ý thì từ bạc có 3 nét nghĩa:
+ Chỉ sự mỏng manh, khơng trọn vẹn: mệnh bạc,… (1)
+ Chỉ sự ít ỏi, sơ sài (trái với hậu): lễ bạc lịng thành,… (2)
+ Khơng nhớ ơn nghĩa, khơng giữ được tình cảm trước sau: ăn ở bạc với bố mẹ,…(3)
Nghĩa (1) của từ “bạc” là nghĩa từ nguyên có gốc là Hán Việt. Nghĩa (2) và (3) của

nó đều là nghĩa chuyển từ nghĩa (1). Tuy nhiên, trong thực tế tiếng Việt hiện đại chúng
ta thấy nét nghĩa (3) lại được dùng phổ biến nhất.
Song, trong “Truyện Kiều” qua khảo sát cho thấy Nguyễn Du phần lớn sử dụng từ
“bạc” với nét nghĩa gốc và kết hợp cùng với một yếu tố khác là 16 lần, nét nghĩa (3) là
3 lần còn nét nghĩa (2) thì khơng có.
Chỉ sự mỏng manh, hẩm hiu, khơng gặp may mắn trong tình duyên: Nếu ai đã
từng đọc “Truyện Kiều”, từng cảm thấy nhói đau, xót xa, thương tiếc cho mối tình Kim
16


Kiều và kiếp đoạn trường của nàng thì một trong những dư âm vẫn luôn ám ảnh chúng
ta khi thiên truyện khép lại đó là một sự thật phũ phàng về kiếp “hồng nhan bạc mệnh”.
Chẳng vậy mà ngay những câu thơ mở đầu “Truyện Kiều” thi hào đã đưa ra một nhận
định rất chắc chắn rằng:
Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Người phụ nữ càng xinh đẹp thì cuộc sống lại càng lận đận nhiều nỗi truân chuyên
và nhất là trong chuyện tình duyên. Như vậy, Thúy Kiều một người tài sắc vẹn tồn đến
thiên nhiên cũng phải hờn ghen thì nàng sẽ “bạc mệnh” biết dường nào. Câu thơ sau
như là minh chứng cho điều đó.
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân. (9)
Hai chữ “bạc mệnh” trên như xuyên suốt “Truyện Kiều” và đeo bám lấy Thúy Kiều.
Thân phận người phụ nữ dưới chế độ phong kiến đều bị coi thường, rẻ rúng, trong quan
hệ giới thì “trọng nam khinh nữ”, trong hơn nhân thì “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”.
“Bạc” ghép với “mệnh” như một danh từ được tạo ra để luôn luôn song hành với số
phận người phụ nữ mà người con gái càng đẹp thì lại càng “bạc mệnh”. Khi tình yêu
đang dệt mộng đẹp thì tai họa ập đến với gia đình Kiều, nàng phải bán mình chuộc cha,
phải bội thề với Kim Trọng; phải chịu sự tủi nhục ê chề nơi lầu xanh; bị Sở Khanh lừa
gạt,… một người phụ nữ đẹp tồn bích trải qua ba mối tình nhưng cuối cùng lại là một
kết thúc không trọn vẹn.

Thiên mệnh dường như đang đùa giỡn, trêu chọc người con gái đẹp ấy một cách
quá đà, để sự chịu đựng, đau đớn như không thể chịu nổi để nàng Kiều, Vương ông
phải thốt lên một cách chua xót:
Phận sao phận bạc như vơi
“Bạc mệnh”, “phận bạc” chỉ có 16 lượt nhắc đến trong “Truyện Kiều” nhưng sao
mỗi lần cất lên lại càng như khẳng định cái kiếp “hồng nhan” của người con gái họ
Vương. Điều đó như đay nghiến vào trái tim Kiều, nó khơng bng tha cho Kiều, để
không chỉ Vương ông, Thúy Kiều mà ngay người đọc cũng khơng khỏi xót xa mà thở
dài ngao ngán cho số mệnh của Kiều, nhất là sự trắc trở trong đường tình duyên.
Bạc trong câu thơ sau cũng là một trường hợp nhà thơ sử dụng nghĩa gốc của từ
nhưng nó lại dành cho một đối tượng khác với dụng ý khác.
Mấy người bạc ác tinh ma,
“Bạc ác” là từ nhận xét chính xác nhất mà Nguyễn Du đã “ném” cho một nhân vật
khét tiếng trong “Truyện Kiều” - Hoạn Thư. Từ “bạc” với nghĩa gốc là mỏng, “ác” là
những việc làm trái với chuẩn mực đạo đức, trái với luân thường đạo lý, hai từ dùng
chung nghĩa để nói Hoạn Thư – một người đàn bà nham hiểm, độc ác. Sự ghen tuông,
thủ đoạn và mưu mơ của ả đến Thúy Kiều, Thúc Sinh cịn phải run sợ. Bởi Hoạn Thư
đã từng tuyên bố với mọi người.
Làm cho nhìn chẳng được nhau,
Làm cho đầy đọa cất đầu chẳng lên!
Và dĩ nhiên ả nói được là làm được. Sự nham hiểm “cao tay” của Hoạn Thư mà đến
người thông minh, khôn ngoan như Thúy Kiều cũng phải thừa nhận rằng xưa nay chỉ
thấy một.

17


- Nghĩa chuyển: Như đã nói ở trên, mặc dù trong Truyện Kiều Nguyễn Du sử dụng từ
bạc với nét nghĩa (3) rất ít, chỉ vẻn vẹn 3 lần nhưng mỗi một từ đó đã hồn thành nhiệm
vụ của mình một cách xuất sắc khi thi hào đã có dụng ý đặt vào từng câu thơ.

+ Chỉ sự bội nghĩa, khơng giữ trọn tình cảm trước sau: Nhắc đến nét nghĩa này
chúng ta không thể quên được một nhân vật cũng không kém phần xấu xa, bỉ ổi tên là
Sở Khanh. Nếu như hai từ “bạc ác” để dành cho người đàn bà nham hiểm Hoạn Thư thì
thi hào đã dành hai từ “bạc tình” cho tên họ Sở này.
Bạc tình nổi tiếng lầu xanh
Nếu “bạc” trong từ “bạc mệnh” được dùng để chỉ số phận người phụ nữ thì “bạc”
trong từ “bạc tình” lại để dành cho người đàn ông. Bởi xưa nay người phụ nữ luôn được
đề cao về sự chung thủy, ln một lịng một dạ với chồng và điều này cũng có thể một
phần do xã hội phong kiến bấy giờ cho phép “trai năm thê bảy thiếp, gái chính chun
một chồng”. Do đó, người phụ nữ thời nào cũng vậy đều rất sợ sự bội ước, không thủy
chung mà ngay đến bà chúa thơ Nôm đáo để là thế cũng phải thổ lộ:
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá bạc như vơi
(Mời trầu –Hồ Xuân Hương)
Bạc để chỉ những con người ăn ở khơng có tình nghĩa, lịng dạ đổi trắng thay đen.
Đó chính là bản chất của tên Sở Khanh đã lừa dối, phản bội Thúy Kiều. Hắn giở giọng
ngon ngọt, rót vào tai những cơ gái nhẹ dạ, cả tin để chiếm lấy tình cảm, sự tin yêu của
họ. Hắn thề non hẹn biển, khoe mẽ về tài năng và sức mạnh:
Nàng đã biết đến ta chăng,
Bể trầm luân lấp cho bằng mới thơi.
Nhưng tất cả đều khơng có thực, tình cảm cũng chỉ là sự giả dối, lọc lừa và tên họ
Sở ấy “một tay chôn biết mấy cành phù dung” trong đó Thúy Kiều cũng trở thành nạn
nhân của kẻ “bạc tình” ấy. Hắn cũng chẳng khác gì Sở Khanh cũng lại lừa dối tình cảm
của Thúy Kiều và đã nhẫn tâm bán nàng trở lại lầu xanh lần thứ hai rồi trốn đi mất hút.
Như vậy, bạc là một từ đa nghĩa, thuộc từ loại tính từ để chỉ tính chất, bản chất của
con người hoặc một hiện tượng. Nét nghĩa của từ bạc vì vậy thường mang hàm ý tiêu
cực như để phê phán, đả kích hoặc lên án.
 Lòng
- Nghĩa gốc: Trong số những từ đa nghĩa trong Truyện Kiều thì từ lịng được xuất
hi ện nhi ều nh ấ t là 162 l ần. Mở đầu cho tác ph ẩm, thi hào đã mượ n ch ữ lòng để th ể hiệ n

s ự thương xót, đồ ng c ả m c ủ a mình v ới thân ph ận nàng Ki ều và đây cũng là nh ững câu
thơ dự báo, mở đầu cho kiếp đoạn trường sau này của Thúy Kiều:
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lịng.
Theo Đào Duy Anh, từ lịng có 2 nét nghĩa cơ bản là: chỉ sự sinh đẻ và nét nghĩa cịn
l ạ i ch ỉ tâm tình, tình ý, hay ý chí. Tuy nhiên, đọ c mỗ i câu Ki ều có ch ứa t ừ lịng trong
t ừng ng ữ c ảnh nh ất đị nh chúng ta đề u c ảm nh ận là nét nghĩa củ a chúng phong phú và
cụ thể hơn rất nhiều so với 2 nét nghĩa trên đã khái quát.
Nghĩa gốc của từ lòng là chỉ những bộ phận bên trong khoang bụng của động vật,
con người. Thường ở động v ật khi b ị giế t th ịt thì lịng (tim, gan, …) là một món ăn
ngon, như lịng gà, lịng lợn,… hay trong ca dao chúng ta cũng có câu:
18


“Nhìn mặt mà bắt hình dong
Con lợn có béo cỗ lịng mới ngon”
Trong “Truyện Kiều” nhà thơ lại khơng dùng từ lòng nào với nét nghĩa gốc này.
Bởi trong văn chương việ c dùng t ừ lòng v ới nghĩa gố c là rấ t hi ế m vì tính khái quát,
trừu tượng của nó nên chủ yếu người ta dùng với nghĩa biểu trưng của từ.
- Nghĩa chuyể n: Phầ n l ớn, t ừ lòng khi dùng trong cu ộ c sống hay văn chương để nói
đến con người thì thườ ng bi ểu trưng cho tâm lí, tinh thần như “ấ m c ật no lòng”, “đồ ng
lòng”.
Dựa vào ngữ nghĩa của từ lòng trong từng ngữ cảnh của “Truyện Kiều” tôi đưa ra
một số nét nghĩa biểu trưng của từ lòng như sau:
+ Chỉ sự sinh đẻ: Khi giới thiệu về chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du viết:
Đầu lòng hai ả tố nga (9)
Theo Đào Duy Anh nghĩa của từ lòng trong câu thơ trên được dùng để chỉ việc sinh
đẻ , nhấ n mạ nh t ới vai th ứ củ a nhân v ật trong mố i quan h ệ gia đình . Thi hào mu ố n giớ i
thi ệu cho người đọ c bi ế t v ề gia đình họ Vương: sinh được 2 người con gái đầ u xinh đẹ p
là Thúy Kiều và Thúy Vân.

+ Chỉ s ự mong mu ố n, ước nguyệ n: Nếu như từ lòng ở trên là ch ỉ s ự sinh n ở thì lịng
ở những câu thơ sau lại mang nét nghĩa hồn tồn khác.
Đã lịng hiển hiện cho xem.
Trước mộ Đạm Tiên, Kiều đã đồng cảm, xót xa cho số phận của nàng và sự gặp gỡ
gi ữa hai người con gái này ph ải chăng cũng là đã có duyên s ố. Trướ c thành ý, duyên
h ội ngộ và th ỏ a mong mu ố n củ a Thúy Ki ều nên Đạm Tiên đã hiện ra vớ i nàng. Rồi đến
Kim Trọng cũng được thỏa niềm mong ước của mình:
Gặp tuần đố lá thỏa lịng tìm hoa.
Trong ngày lễ Thanh minh, chị em Thúy Kiều đi trẩy hội, đây là dịp để cho những
chàng trai có cơ hội gặ p g ỡ vớ i nh ững cô gái. Và Kim Tr ọ ng g ặp đượ c Thúy Ki ề u, một
người đẹ p trên h ết mọi người đẹ p ở đó khi “hai m ắ t cùng li ếc hai lịng cùng ưa” thì đã
thỏa được niềm mong ước với tình yêu đang chớm nở.
Trải qua bao nhiêu sóng gió, thăng trầm với ba mối tình dở dang, không thành, sau
mười lăm năm lưu lạc Ki ề u g ặp l ại Kim Tr ọng, đoàn viên với gia đình song, mọ i th ứ l ạ i
khơng thể quay lại như lúc đầu vì giờ Thúy Kiều đã là người của cửa Phật.
Như vậy, từ lòng trong những câu thơ trên đã mang một nét nghĩa cụ thể hơn là chỉ
sự mong muốn, niềm mong ước được toại nguyện của con người.
+ Chỉ ý chí, nguy ệ n vọ ng, nỗi ni ề m: Trong nh ững câu thơ dưới đây thì từ lịng mang
nét nghĩa khái quát hơn, trừu tượng hơn các nét nghĩa nêu trên. Lòng th ể hi ệ n nỗ i ni ềm,
ý chí, nguyện vọng và những suy nghĩ bên trong của con người.
Trong khi Kiều báo oán, báo ân thì người đầu tiên nàng gọi đến xử tội chết không ai
khác là Ho ạn Thư nhưng bằng cách lậ p luậ n, lí l ẽ s ắ c bén củ a mình Ho ạn Thư đã đượ c
Kiều tha chết. Cách lập luận của Hoạn Thư có xuất hiện từ lịng như sau:
Lịng riêng riêng những kính u
Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai (9)
Ở đây, Hoạn Thư muốn bào chữa cho mình rằng “lịng riêng” nghĩa là ả cũng rất
kính trọ ng Thúy Ki ề u, một ngườ i có s ắc, có tài hơn ngườ i và c ũ ng r ất thương yêu,
thông c ả m cho số phậ n củ a Ki ề u. Cùng là ph ụ n ữ vớ i nhau ch ắc Thúy Ki ề u hi ểu không
19



có người ph ụ n ữ nào l ạ i mu ố n chia sẻ tình c ả m ch ồ ng của mình cho người phụ n ữ khác.
Nếu đặt ở vị trí của Hoạn Thư thì Kiều cũng phản ứng lại như vậy mà thơi.
Tạ lịng nàng lại nói thêm vài lời. )
Nhờ khả năng diễn đạt những khái niệm, những tình cảm, suy nghĩ bên trong của
con người mà từ lòng được Nguyễn Du sử dụng với nét nghĩa này là chủ yếu.
Như vậy, có thể thấy rằng các giá trị ngữ nghĩa của một từ đa nghĩa là rất phong phú
và đa dạ ng. Và vi ệc phát huy, sáng t ạ o thêm nh ững nét nghĩa mớ i c ủa t ừ còn ph ụ thuộc
vào kh ả năng của nhà thơ khi đặ t mỗ i t ừ vào trong t ừng ng ữ cả nh nh ất định. Nguyễ n
Du rất thành cơng khi đưa từ lịng vào trong từng câu thơ trong Truyện Kiều.
b.3.2. Giá trị của từ đa nghĩa trong một số đoạn trích của “Truyện Kiều”:
 Giá trị về nội dung:
- Góp phần miêu tả thiên nhiên: Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du miêu tả rất tài
tình về thiên nhiên, có khi là một bức tranh thiên nhiên đẹp, thơ mộng nhưng cũng có
lúc là một thiên nhiên pha chút buồn man mác. Để tạo nên được những hình ảnh thiên
nhiên đó bên cạnh những yếu tố ngơn ngữ khác thì từ đa nghĩa cũng giữ một vai trị
nhất định trong việc miêu tả, xây dựng những bức tranh thiên nhiên ấy.
Một không gian thiên nhiên vui tươi, đầy sức sống trong ngày hội Đạp Thanh:
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngồi sáu mươi
Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa (9)
Thi hào đã gợi cho người đọc cảm nhận được cái khơng khí, bức tranh thiên nhiên
vào những ngày tháng cuối của mùa xuân đẹp và tinh khiết biết bao! Ở đó có cánh én
bay liệng từng đàn ríu rít, có những thảm cỏ non mơn mởn kéo tận đến chân trời và trên
thảm cỏ xanh ấy lại được điểm trắng bởi những bông hoa lê tinh khiết. Tất cả đã tạo
nên một bức tranh đẹp tuyệt vời!
Đó là khơng khí của lúc vào hội nhưng cũng là “ngày xuân” ấy nhưng khi tan hội
lúc “chị em thơ thẩn dan tay ra về” lại là một không gian thiên nhiên hồn tồn khác:
Tà tà bóng ngả về tây (9)

Câu thơ trên cho chúng ta biết là ngày hội đã tan, đã đến lúc chiều tàn và mọi người
đều phải trở về nhà. Bóng ở đây chính là mặt trời, mặt trời đang dần dần lặn xuống phía
sau núi.
Đó là hình ảnh thiên nhiên nơi mà chàng Kim Trọng đang cưỡi ngựa đến, chính câu
thơ này đã tạo nên phơng nền để tôn thêm vẻ sang trọng, nho nhã của chàng Kim.
Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời
Nhưng cũng có lúc là một thiên nhiên ảm đạm, thấm đượm nỗi buồn bởi có thể do
cảnh hoặc do người khơng vui vì “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Đó là những
ngày tháng khi Thúy kiều bị giam cầm ở lầu Ngưng Bích, ngồi trên lầu cao nhìn xa xa
khung cảnh xung quanh nơi đó lịng Kiều vừa cảm thấy cô đơn, lại càng đau đớn, lo sợ
cho số phận long đong của mình.
Buồn trơng ngọn nước mới sa
Hoa trơi man mác biết là về đâu
(9)
Nhìn cánh hoa trơi Kiều lại nghĩ đến phận mình cũng chẳng khác gì đóa hoa đó,
mỏng manh, yếu đuối mà phía trước tương lai lại rất mù mịt, xa xăm. Nàng cảm thấy lo
20


sợ khi nghĩ đến ngày mai của mình, biết số phận sẽ đưa đẩy nàng đến nơi đâu. Có lẽ,
Kiều sẽ như đóa hoa kia để nước cuốn trơi đi chứ nàng không thể quyết định được vận
mệnh, tương lai của mình.
- Góp phần khắc họa ngoại hình và số phận của nhân vật:
+ Khắc họa ngoại hình nhân vật: Thành công lớn nhất của Nguyễn Du là xây dựng
nhân vật Thúy Kiều, xét ở mặt ngoại hình thơi đã đủ thấy rằng khơng cịn hình ảnh nào
so sánh được với vẻ đẹp của Kiều. Vẻ đẹp của nàng dường như không thể đẹp hơn
được nữa:
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh (9)
Sắc đẹp của Thúy Kiều giống như làn nước vào mùa thu êm đềm, trong xanh, như

đỉnh núi vào mùa xuân xanh mơn mởn và hoa biểu trưng cho sự xinh đẹp, quyến rũ
nhất mà cũng phải ghen tị với nhan sắc của nàng. Và chính vẻ đẹp của hoa lại làm nền,
sự so sánh tôn thêm sắc đẹp của chị em Thúy Kiều.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang (9)
Rồi hoa cũng để khắc họa, miêu tả những khi Kiều buồn:
Lại càng ủ dột nét hoa
Hay khi Nguyễn Du muốn miêu tả, nói đến vẻ đẹp của Kiều sau kiếp nạn lưu lạc kéo
dài mười lăm năm thì nàng có phần xanh xao, gầy hơn trước.
Mười phần xuân có gầy ba bốn phần
Nếu trước đây, cũng bằng chữ “xuân” để miêu tả vẻ đẹp tuyệt trần của Thúy Kiều
đó là “nét xuân sơn”, “mười phân vẹn mười” thì giờ đây “nét xuân” ấy đã khơng cịn
được mặn mà, trọn vẹn như trước.
+ Khắc họa số phận nhân vật: Một câu chuyện không thể khơng có nhân vật và địi
hỏi nhân vật đó phải có số phận. Nếu nhân vật đó khơng có số phận thì sẽ khơng thể để
lại ấn tượng gì cho độc giả và tác phẩm đó khơng thể tồn tại. Nhân vật, số phận của
nhân vật sẽ ra sao phụ thuộc vào khả năng xây dựng của tác giả.
Qua hai phương thức ẩn dụ, hoán dụ của hiện tượng đa nghĩa, Nguyễn Du đã khắc
họa được số phận của nhân vật Thúy Kiều một cách hình ảnh, đầy đủ và sâu sắc nhất.
Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương
Đó là số phận của nàng Đạm Tiên, cũng giống như Thúy Kiều cả hai đều là người
con gái xinh đẹp, tài trí thơng minh nên đều phải chịu kiếp “hồng nhan bạc mệnh” mà
tạo hóa đã định đoạt cho họ. Tuổi trẻ, tình yêu, nhan sắc đang trong giai đoạn đẹp nhất
của đời người thì cuộc đời đã nhẫn tâm đẩy nàng vào con đường tuyệt vọng, kết thúc
cuộc đời khi đang “nửa chừng xuân”. Cụm từ ấy tạo cho chúng ta cảm giác quá bất ngờ,
đầy tiếc nuối cho số phận của nhân vật.
Hoa trôi giạt thắm liễu xơ xác vàng
Nếu ở phần đầu “Truyện Kiều” hình ảnh cánh hoa ẩn dụ cho vẻ đẹp của Thúy Kiều
thì khi bắt đầu kiếp lưu lạc, hoa lại là hình ảnh biểu trưng cho số phận trôi nổi, lưu lạc
của Kiều. Sau khi sống cuộc sống nhơ nhớp trốn lầu xanh, Thúy Kiều ví mình như hoa
đã lìa cành khơng cịn giá trị gì nữa. Số phận của nàng giống như số phận của một đóa

hoa nên rất nhiều câu thơ cực tả số phận ấy bằng hình ảnh hoa Nguyễn Du đã thể hiện
một cách trọn vẹn những đoạn đường đời, những ngày tháng lưu lạc của Kiều.
Phận sao phận bạc như vôi
21


Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng (754)
Chỉ một chữ bạc thơi cũng đủ nói lên số phận của Thúy Kiều, “bạc mệnh” “phận
bạc” chỉ số phận mỏng manh, gặp nhiều trắc trở trong đường tình duyên. Trải qua bao
thăng trầm cuộc sống, đau đớn, tủi nhục đến hai lần kết thúc cuộc đời gieo mình xuống
sơng tự vẫn nhưng số mệnh vẫn chưa bng tha.
Tóm lại, qua các từ đa nghĩa như: xuân, hoa, bạc… trong Truyện Kiều ngồi những
giá trị biểu đạt riêng của từ thì hiện tượng đa nghĩa đã góp một phần đáng kể trong việc
xây dựng, khắc họa số phận của nhân vật.
+ Tạo nên sức sống lâu bền cho “Truyện Kiều”: Từ khi ra đời đến nay, Truyện Kiều
đã gây một tiếng vang lớn, có sức ảnh hưởng sâu sắc đối với văn học cũng như tâm hồn
dân tộc ta. Nó khơng chỉ thấm vào hơi thở, mạch máu của nhân dân ta, mà cịn là nguồn
thi liệu khơng cùng của bao thế hệ thi nhân ở mọi thời đại. Điều đó đã minh chứng rằng
“Truyện Kiều” có một sức mạnh khơng ngờ và một sức sống bất diệt. Mỗi từ lại mang
những giá trị khác nhau về nội dung, nghệ thuật và tất cả lại thống nhất trong một chỉnh
thể trọn vẹn để làm nên một kiệt tác cho nhân loại.
Như vậy chúng ta khơng thể phủ nhận được vai trị, giá trị của hiện tượng đa nghĩa
trong việc tạo nên một “Truyện Kiều” như ngày nay. Những nhân vật điển hình Tú bà,
Hoạn Thư,… đã đi vào cuộc sống đời thực; có những điển tích nhờ Truyện Kiều mới
được người đời biết đến… và từ đa nghĩa cũng vậy. Đó là chữ “xuân” chứa đựng bao ý
nghĩa, có thể là “ngày xuân con én đưa thoi”, là sự xót xa cho nàng Đạm Tiên đoản
mệnh. Người đọc vẫn còn ám ảnh hai chữ “bạc mệnh” cái số mệnh chung cho tất cả
người phụ nữ đương thời “lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”, là bản chất của tên Sở
Khanh “bạc tình nổi tiếng lầu xanh”. Nhờ vậy, “Truyện Kiều” đã đi vào tâm hồn người
Việt, đi vào cuộc sống thường ngày, chúng ta có thể nhớ và vận dụng một cách linh

hoạt những câu Kiều phù hợp với hoàn cảnh, tâm trạng của ta. Chắc hẳn, giá trị của
“Truyện Kiều” sẽ không chỉ dừng lại ở đây, cũng như các nét nghĩa của từ đa nghĩa rồi
sẽ được tìm tịi và phát hiện thêm những điều mới mẻ, độc đáo hơn nữa.
 Giá trị về nghệ thuật:
- Tạo nên tính đối ngẫu cho câu thơ: Đối ngẫu là một biện pháp nghệ thuật làm cho
câu thơ trở nên sắc bén, hài hịa, giàu nhạc tính, tạo thành chất thơ đậm đà cho tác
phẩm. Nhờ vậy mà câu thơ bớt được tính nơm na, đơn điệu của ca dao, giúp cho dịng
thơ trở nên súc tích, nâng cao tính thẩm mỹ, tính nghệ thuật cho tác phẩm. Từ đa nghĩa
cũng đã góp phần nào đó để tạo nên tính đối ngẫu cho “Truyện Kiều”.
Rất nhiều câu thơ chúng ta thấy Nguyễn Du đã đưa cả hai từ đa nghĩa vào cùng một
câu tạo nên một câu đối cân xứng, hài hòa với nhau:
Thiệt lịng khi ở/ đau lịng khi đi
Có khi đối giữa câu:
Thềm hoa một bước/ lệ hoa mấy hàng
Những từ đa nghĩa trên đây tạo ra được những cặp đối ngẫu góp phần miêu tả, diễn
bi ến tâm tr ạ ng c ủ a nhân v ật. M ặt khác, giúp cho câu thơ trở nên có v ần nh ịp, d ễ đọ c và
dễ thuộc.
- Tạo nên sự cơ đọng, súc tích cho câu thơ: Nếu như từ Hán Việt, điển cố điển tích
thể hiện sự kín đáo, sự uyên thâm Nho học thì từ đa nghĩa cũng đã góp một phần cho sự
thành cơng đó của “Truyện Kiều”. Văn chương, thơ ca là tiếng nói, tâm tư của con
22


người gửi gắm, ẩn chứa trong đó, nhưng với đặc trưng vốn có của thơ ca địi hỏi phải
lời ít ý nhiều mà nội dung phải chuyển tải được ý thơ. Mặt khác, tâm tư tình cảm của
con người mang tính phi vật thể, tinh thần nên đơi khi rất khó diễn đạt một cách cụ thể,
rõ ràng được. Do đó, ở mặt này từ đa nghĩa đã phát huy được giá trị đó của mình.
Chắc có lẽ phải dằn vặt, khó khăn lắm Kiều mới mở lời“cậy” Thúy Vân thay mình
nối duyên với Kim Trọng. Mở đầu cho những lý lẽ để thuyết phục Thúy Vân không thể
từ chối được Kiều đã nói:

Ngày xn em hãy cịn dài
Chỉ một từ ngày xuân đã đủ để Kiều nói hết được những điều mà Vân đang có và
đủ để giúp Kiều thực hiện được ước nguyện của mình. Ngày xn đó là tuổi trẻ, nhan
sắc hay tình u và Kiều có lẽ dư điều đó nhưng nàng phải cậy Vân vì Kiều như đã
đốn trước được số mệnh của mình cịn Thúy Vân thì những ngày tươi đẹp phía trước
cịn rất dài và bình n chứ khơng bạc mệnh như Kiều.
Cũng chính nhờ tính cơ đọng, súc tích của từ mà Hoạn Thư đã thuyết phục được
Kiều tha trắng án. Trong câu thơ “lịng riêng, riêng những kính u”, chỉ với chữ
“lòng” đã đủ để Hoạn Thư bộc lộ, giãi bày những tình ý, sự chân thành của mình với
Kiều. Chúng ta rất khó có thể tìm được một từ nào để có thể thay thế vào vị trí của từ
“lịng” trong mỗi câu thơ mà thi hào đã sử dụng.
Như vậy, nhờ vào đặc điểm của từ đa nghĩa là có tính tiết kiệm nên hiện tượng đa
nghĩa đã giúp cho câu thơ trở nên cơ đọng, súc tích mà vẫn diễn đạt trọn vẹn những nội
dung cần nói.Từ đó, chúng ta tránh được lối diễn đạt dài dòng, lan man mà thậm chí có
khi lại khơng khái qt được điều cần nói tới và trong văn chương.
b.4. Tiểu kết
Qua khảo sát về hiện tượng đa nghĩa trên các mặt về số lượng, đặc điểm, thống kê
tổng hợp các từ đa nghĩa, tôi nhận thấy rằng biểu hiện của từ đa nghĩa trong “Truyện
Kiều” tuy không nhiều về mặt số lượng nhưng các nét nghĩa của chúng thì rất phong
phú, đa dạng. Từ đa nghĩa vào “Truyện Kiều” đã phát huy tối đa được giá trị ngữ nghĩa
của mình và chúng ta càng thán phục cái tâm, cái tài của Nguyễn Du trong việc sử dụng
từng từ trong từng câu thơ. Bên cạnh những yếu tố ngơn ngữ khác thì từ đa nghĩa cũng
đã góp phần quan trọng trong việc tạo nên những giá trị về mặt ngôn ngữ và nghệ thuật
cho “Truyện Kiều”. Từ đó, giúp chúng ta nhận thức sâu hơn những khái niệm, lý thuyết
về hiện tượng đa nghĩa. Nắm chắc được các vấn đề lý thuyết cơ bản về hiện tượng đa
nghĩa cũng có nghĩa là chúng ta tiếp nhận được yếu tố dẫn đường, làm cơ sở nghiên
cứu hiện tượng đa nghĩa trên các tác phẩm văn học cụ thể. Để từ đó có cơ sở vận dụng
tìm hiểu các tác phẩm văn học tiếp theo ở một trình độ cao hơn.
c. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp:
- Để giải quyết được những thực trạng trên cần sự cố gắng, trau dồi kiến thức và sự

tận tụy với nghề của từng giáo viên để tìm ra những phương pháp tối ưu giúp học sinh
khơng cịn nhầm lần giữa từ nhiều nghĩa với từ đồng âm.
- Cần sự quan tâm hơn nữa của nhà trường, các bậc phụ huynh học sinh trong việc
động viên các em học bài và đi học chuyên cần.
- Ngoài ra cũng cần có sự cố gắng nỗ lực khơng nhỏ từ phía học sinh, cần đầu tư
nghiêm túc hơn cho mục tiêu giáo dục. Yêu cầu học sinh cần học bài, nắm vững các

23


khái niệm, phân loại, đặc điểm của từ nhiều nghĩa với từ đồng âm để làm cơ sở phân
biệt hai loại này.
- Yêu cầu học sinh sưu tầm, tìm hiểu thêm những câu thơ có chứa từ nhiều nghĩa và từ
đồng âm được sử dụng trong các tác phẩm văn học, trong đời sống, trong giao tiếp ở
trong từng hoàn cảnh cụ thể.
d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp:
Cần thống nhất trong cách thực thực hiện các biện pháp trên cơ sở của những biện
pháp đã đề ra. Cần phối hợp nhịp nhàng giữa giáo viên với tổ chuyên môn, nhà trường
và cha mẹ học sinh.
Trên cơ sở mỗi giải pháp cần đưa ra những biện pháp cụ thể như:
+ Giáo viên cần tìm ra cách thức gây hứng thú cho học sinh trong quá trình học: Trị
chơi tìm câu thơ có chứa từ nhiều nghĩa và từ đồng âm trong tác phẩm Truyện Kiều mà
thông qua đó học sinh có thể nhận diện được đó là từ nhiều nghĩa hay từ đồng âm…
+ Cần có những hình thức răn đe, giáo dục song cũng cần có phương pháp khuyến
khích khi học sinh khơng học bài và làm bài khi đến lớp.
+ Trong các phần luyện tập cần có những bài tập nhanh, bài tập phù hợp với đối tượng
học sinh yếu, kém nhằm khuyến khích khả năng học tập của các em.
e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu:
Với việc áp dụng đề tài “Hiện tượng đa nghĩa trong một số đoạn trích của tác
phẩm Truyện Kiều” qua q trình giảng dạy tơi nhận thấy có rất nhiều thuận lợi khi

giảng dạy. Kết quả cụ thể như sau:
+ Học sinh đã dần dần biết phân biệt từ nhiều nghĩa và từ đồng âm, đã nắm vững đặc
điểm cũng như cấu tạo của từ nhiều nghĩa trong các tác phẩm văn chương.
+ Kết quả các kỳ thi xét tốt nghiệp ở khối lớp 9 môn Ngữ Văn của các em trường
THCS Nguyễn Trãi trong ba năm gần đây đều đạt 70% bài làm từ điểm 5 trở lên. Đây
là một kết quả khá cao so với các lớp còn lại trong khối.
+ Năm học 2013-2014 trường THCS Nguyễn Trãi đạt một giải khuyến khích mơn
Ngữ văn khối 7 cấp huyện.
+ Năm học 2014-2015 trường THCS Nguyễn Trãi đạt một giải nhì và một giải ba môn
Ngữ văn khối 7 cấp huyện.
+ Năm học 2015-2016 trường THCS Nguyễn Trãi đạt một giải ba và một công nhận
môn Ngữ văn khối 7 cấp huyện.
Đây cũng là kết quả đã đạt được trong ba năm gần nhất mà tôi đảm nhiệm công tác
giảng dạy môn Ngữ văn khối 7 trường THCS Nguyễn Trãi.
Trong năm học 2015-2016 khi nghiên cứu đề tài này qua khảo sát tôi thu được kết
quả như sau:
Trước khi vận dụng đề tài nghiên cứu vào thực tế giảng dạy các em khối lớp 9
trường THCS Nguyễn Trãi tôi thấy kết quả còn hạn chế. Cụ thể như sau:

24

STT

Lớp

Sĩ số

1
2


9A5
9A7
TC

34
34
68

Giỏi
SL
2
0
2

%
6%
0
3%

Khá
SL
%
27 79 %
3
9%
30 44,1 %

Trung bình
SL
5

21
26

%
15 %
62 %
38,2%

Yếu
SL
0
10
10

%
0
29 %
14,7 %

Kém
SL
0
0
0

%
0
0
0



Sau khi vận dụng đề tài nghiên cứu vào thực tế giảng dạy các em khối 9 trường
THCS Nguyễn Trãi, chúng tôi thực hiện khảo sát, thống kê được kết quả như sau:
STT Lớp
1
2

9A5
9A7
TC

Giỏi

Sĩ số
34
34
68

SL
6
1
7

%
17,7 %
3%
10,3 %

Khá
SL

26
5
31

%
76,5 %
14,7 %
45,6 %

Trung bình
SL
2
25
27

%
5 ,8 %
73,5 %
39,7 %

Yếu
SL
%
0
0
3 8,8 %
3 4,4 %

Kém
SL

0
0
0

%
0
0
0

II.4. Kết quả
Qua kết quả khảo nghiệm tôi thấy về kiến thức đại đa số học sinh đã nắm được
khái niệm, đặc điểm, vai trò cũng như ý nghĩa từ nhiều nghĩa. Từ đó, các em có thể
phân biệt, vận dụng từ nhiều nghĩa vào trong đời sống hàng ngày cũng như trong quá
trình học tập. Một số bài làm đạt điểm trung bình hoặc yếu là rơi vào các em học sinh
đồng bào Ê-đê vì năng lực tư duy ngơn ngữ của các em có phần hạn chế.
Về thái độ đa số các em đã có ý thức giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt từ đó dùng
từ nhiều nghĩa đúng với từng hoàn cảnh giao tiếp.
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
III.1. Kết luận:
Chúng ta có thể khẳng định “Truyện Kiều” là kiệt tác của mọi thời đại. Tác phẩm
có sức sống và sức hấp dẫn kì diệu đối với nhân dân ta từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Nội dung mang tính hiện thực sâu sắc và tinh thần nhân đạo cao cả được thể hiện bằng
một hình thức và nghệ thuật tuyệt mĩ. Về ngôn ngữ thơ, đại thi hào Nguyễn Du đã sử
dụng từ ngữ hết sức tinh luyện, biến hóa, sáng tạo và đã nâng nền ngơn ngữ văn học
dân tộc đến đỉnh cao chói lọi. Lời ăn tiếng nói hàng ngày của quần chúng nhân dân giàu
có, trong sáng; vốn từ Hán Việt dồi dào, trang trọng, hàm súc được đưa vào Truyện
Kiều tự nhiên, sống động, chuẩn xác, mẫu mực. Nếu như lâu đài thơ “Truyện Kiều” đã
được xây dựng bằng các yếu tố ngơn ngữ, các lớp ngơn từ thì từ đa nghĩa chính là
những viên gạch lót nền để dựng nên lâu đài ấy.
Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm mới chỉ là những khám phá bước đầu về việc

dùng t ừ đa nghĩa của Nguyễn Du. Qua đó, cho thấy đạ i thi hào Nguyễ n Du chính là
người đã góp phần khơng nh ỏ trong vi ệ c khai thác, s ử d ụng thu ầ n th ục kho t ừ v ựng
ti ếng Vi ệt và cũng như đưa ngôn ngữ dân tộc lên đỉnh cao mớ i. S ự th ống nh ất gi ữa nộ i
dung và hình th ức, sự k ế t h ợp hài hịa c ủa ngơn ng ữ, t ất c ả mọ i yế u t ố đó đã làm nên
một Nguyễn Du và “Truyện Kiều” bất hủ.
Trên đây là một số giải pháp mà tôi thấy nên làm để phân biệt hiện tượng đa nghĩa
với hiện tượng đồng âm cho học sinh khối 9 nói riêng và học sinh bậc THCS năm học
2015-2016 nói chung và tiếp tục tìm hiểu nghiên cứu trong những năm tiếp theo.
Với kết quả khảo sát trên cùng với sự hứng thú của học sinh trong các tiết học tôi cho
rằng đề tài có khả năng thực thi khi áp dụng vào thực tế dạy học các đoạn trích của tác
phẩm “Truyện Kiều” ở lớp 9. Cũng qua đề tài này, bản thân mong muốn góp một phần
nhỏ bé của mình trong việc nghiên cứu ngôn ngữ “Truyện Kiều”, để thấy được đặc
điểm của hiện tượng đa nghĩa nói chung và trong “Truyện Kiều” nói riêng. Từ đó,
25


×