Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

VẤN đề BIỆN CHỨNG GIỮA lực LƯỢNG sản XUẤT và QUAN hệ sản XUẤT TRONG TRIẾT học mác LÊNIN và ý NGHĨA của nó đối với CUỘC SỐNG và VIỆC học tập của SINH VIÊN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.67 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIAO THÔNG VẬN TẢI TP.HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN

VẤN ĐỀ BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ
SẢN XUẤT TRONG TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ
ĐỐI VỚI CUỘC SỐNG VÀ VIỆC HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY

Giảng viên hướng dẫn:

Thành phố Hồ Chí Minh - 2021


MỤC LỤC
ĐỀ MỤC

TRANG

MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
NỘI DUNG..........................................................................................................3
Chương 1: Vấn đề biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
trong triết học Mác - Lênin...................................................................................3
1. Phương thức sản xuất.......................................................................................3
1.1. Lực lượng sản xuất........................................................................................3
1.2. Quan hệ sản xuất...........................................................................................5
2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất.......................................................................................................................8
2.1. Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đôi với quan hệ sản xuất.............8
2.2. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất..........10
Chương 2: Ý nghĩa của vấn đề biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ


sản xuất đối với cuộc sống và việc học tập của sinh viên hiện nay....................11
KẾT LUẬN.......................................................................................................12
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................13


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Theo Chủ nghĩa Mác-Lênin thì lồi người từ trước đến nay đã trải qua 5
hình thái kinh tế xã hội, đó là: Thời kỳ công xã nguyên thủy, thời kỳ chiếm
hữu nô lệ, thời kỳ phong kiến, thời kỳ tư bản chủ nghĩa và thời kỳ chủ nghĩa
xã hội. Trong mỗi hình thái kinh tế xã hội được quy định bởi một phương
thức sản xuất nhất định. Chính những phương thức sản xuất vật chất là yếu tố
quyết định sự phát triển hình thái kinh tế xã hội. Và qua nghiên cứu thì một
phương thức sản xuất nào cũng đều phải có sự phù hợp giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn song
song tồn tại và tác động lẫn nhau để hình thành một phương thức sản xuất.
Đây là hai yếu tố quan trọng quyết định tính chất, kết cấu của xã hội.
Trong bất kỳ một phương thức sản xuất nào quan hệ sản xuất cũng phải
phù hợp với lực lượng sản xuất. Sự tác động qua lại và mối quan hệ giữa
chúng phải hài hòa và chặt chẽ. Tuy nhiên trong hai yếu tố đó thì lực lượng
sản xuất ln quyết định quan hệ sản xuất. Một hình thái kinh tế - xã hội có
ổn định và tồn tại vững chắc thì phải có một phượng thức sản xuất hợp lý.
Chính bởi lẽ đó mà lực lượng sản xuất phải tương xứng phù hợp với quan hệ
sản xuất bởi vì xét đến cùng thì quan hệ sản xuất chính là hình thức của lực
lượng sản xuất. Vậy nên nếu lực lượng sản xuất phát triển trong khi đó quan
hệ sản xuất lạc hậu thì sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Ngược lại quan hệ sản xuất tiến bộ hơn lực lượng sản xuất thì khơng phù hợp
với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất gây ra sự bất ổn cho xã hội.
Do đó một phương thức sản xuất hiệu quả thì phải có một quan hệ sản xuất
phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.

Sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là vấn đề cần
được quan tâm, để tìm ra những biện pháp thích hợp. Chính vì vậy, nên em
chọn đề tài 3 “Vấn đề biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

1


trong triết học Mác-Lênin và ý nghĩa của nó đối với cuộc sống và việc học tập
của sinh viên hiện nay”.
2. Mục tiêu
Giúp mọi người hiểu rõ hơn về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất, ngồi ra nó cịn có ý nghĩa đối với cuộc sống và học tập đặc
biệt là sinh viên hiện nay.
3. Phương pháp nghiên cứu
Bài tiểu luận được nghiên cứu dựa vào sách “Giáo trình triết học MácLênin” của trường Đại học Giao Thơng Vận Tải Thành Phố Hồ Chí Minh.
Dựa vào cơ sở lý luận của học thuyết Mác-Lênin, quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Theo phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử để hiểu về vấn đề
biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Ngoài ra, bài tiểu luận được lấy thông tin từ những trang mạng đáng tin
cậy của Nhà nước.
4. Kết cấu của tiểu luận
Tiểu luận gồm: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận.
Phần nội dung gồm 2 chương:
- Chương 1: Vấn đề biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất trong triết học Mác - Lênin.
- Chương 2: Ý nghĩa của vấn đề biện chứng giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất đối với cuộc sống và việc học tập của sinh viên hiện nay.

2



NỘI DUNG
Chương 1: Vấn đề biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất trong triết học Mác - Lênin
1. Phương thức sản xuất
Phương thức sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở
một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng. Phương thức sản
xuất biểu thị cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở
những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. Dựa vào phương thức
sản xuất đặc trưng ở mỗi thời đại, chúng ta có thể phân biệt sự khác nhau giữa
các thời đại kinh tế khác nhau.
Để hiểu rõ hơn về phương thức sản xuất, chúng ta sẽ tìm hiểu 2 yếu tố
của nó là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Hai yếu tố này chỉ ra hai
mối quan hệ “song trùng” của nền sản xuất vật chất xã hội, đó là quan hệ giữa
con người với tự nhiên và quan hệ giữa người với người trong quá trình sản
xuất vật chất.
1.1. Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa người với giới tự nhiên.
Nghĩa là trong quá trình thực hiện sự sản xuất xã hội, con người chinh phục
giới tự nhiên bằng tổng hợp các sức mạnh hiện thực của mình, sức mạnh đó
được chủ nghĩa duy vật lịch sử khái quát trong khái niệm lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất nói lên năng lực thực thực tế của con người trong quá
trình sản xuất tạo ra của cải xã hội. Lực lượng sản xuất bao gồm người lao
động với kinh nghiệm sản xuất, kỹ năng lao động, biết sử dụng tư liệu sản
xuất để tạo ra của cải vật chất. Trong quá trình sản xuất, lao động của con
người và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động kết hợp với nhau tạo
thành lực lượng sản xuất. Trong đó, “lực lượng sản xuất hàng đầu của tồn
thể nhân loại là công nhân, là người lao động”.
Trong nền sản xuất, con người có sức mạnh và kỹ năng lao động cả về

chân tay lẫn trí óc. Trong lao động sức mạnh và kỹ năng ấy đã được nhân lên
3


gấp nhiều lần. Hơn nữa, lao động của con người ngày càng trở thành lao động
có trí tuệ và lao động trí tuệ. Trong q trình lịch sử lâu dài của xã hội lồi
người, trí tuệ hình thành phát triển cùng với lao động làm cho lao động ngày
càng có hàm lượng trí tuệ cao hơn. Do đó đã làm cho con người trở thành một
nguồn lực cơ bản, vô tận và đặc biệt của sản xuất.
Tư liệu sản xuất là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất, bao
gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động. Đối tượng lao động là những vật
mà lao động của con người tác động vào nhằm biến đổi nó theo mục đích của
mình. Đối tượng lao động khơng phải là tồn bộ giới tự nhiên mà chỉ có một
bộ phận của giới tự nhiên được đưa vào sản xuất. Con người khơng tìm trong
giới tự nhiên những đối tượng lao động sẵn có, mà cịn sáng tạo ra bản thân
đối tượng lao động. Tư liệu lao động là hệ thống những vật làm nhiệm vụ
truyền dẫn sự tác động của con người lên đối tượng lao động, nhằm biến đổi
đối tượng lao động theo mục đích của mình. Tư liệu lao động bao gồm công
cụ lao động, hệ thống các yếu tố vật chất phục vụ trực tiếp hoặc gián tiếp quá
trình sản xuất (nhà xưởng, đường sá, các phương tiện giao thông vận tải,
thông tin liên lạc,...). Trong các yếu tố hợp thành tư liệu lao động thì cơng cụ
lao động có ý nghĩa quyết định nhất, là một thành tố cơ bản của lực lượng sản
xuất. Cơng cụ lao động là “khí quan của bộ óc con người”, là tri thức đã được
vật thể hóa có tác dụng “nối dài bàn tay” và nhân lên sức mạnh trí tuệ của con
người. Trong q trình sản xuất, công cụ lao động luôn luôn được cải tiến,
tinh xảo hơn để lao động bớt nặng nhọc và đạt hiệu quả cao hơn. Nó là yếu tố
động nhất và cách mạng nhất trong lực lượng sản xuất. Cùng với sự biến đổi
và phát triển của cơng cụ lao động thì kinh nghiệm sản xuất, kỹ năng sản xuất,
kiến thức khoa học của con người cũng tiến bộ, phong phú thêm. Chính sự
chuyển đổi, cải tiến và hồn thiện khơng ngừng của nó đã gây ra những biến

đổi sâu sắc trong tồn bộ tư liệu sản xuất. Xét cho cùng chính đó là nguyên
nhân sâu xa xa của mọi biến cải xã hội. Trình độ phát triển của cơng cụ lao
động là thước đo trình độ tác động, cải biến tự nhiên của con người, là tiêu
4


chuẩn để phân biệt sự khác nhau giữa các thời đại kinh tế. Đối với mỗi thế hệ
mới, những tư liệu lao động do thế hệ trước để lại trở thành điểm xuất phát
của sự phát triển tương lai. Vì vậy những tư liệu đó là cơ sở kế tục của lịch sử.
Tư liệu lao động chỉ trở thành lực lượng tích cực cải biến đối tượng lao
động, khi chúng kết hợp với lao động sống. Chính con người với trí tuệ và
kinh nghiệm của mình đã chế tạo ra tư liệu lao động. Tư liệu lao động dù có ý
nghĩa đến đâu, nhưng nếu tách khỏi người lao động thì cũng khơng thể phát
huy được tác dụng, khơng thể trở thành lực lượng sản xuất của xã hội.
Trong quá trình chinh phục tự nhiên, con người sáng tạo ra khoa học,
đến lượt mình, khoa học lại đóng vai trị là công cụ lao động đắc lực của con
người. Ngày nay, khoa học đã phát triển trở thành nguyên nhân trực tiếp của
nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất và trong đời sống. Cách thức mà khoa học
thâm nhập và thể hiện trong hiện thực ngày càng phong phú, đa dạng theo cấp
số nhân. Khoa học đã phát triển đến mức độ mà chỉ vài chục năm trước con
người cũng khó tưởng tượng ra.
1.2. Quan hệ sản xuất
Trong hệ thống các khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, khái niệm
lực lượng sản xuất biểu thị mặt thứ nhất của mối quan hệ “song trùng” của
bản thân sự sản xuất xã hội - quan hệ của con người với tự nhiên; còn khái
niệm quan hệ sản xuất biểu thị mặt thứ hai của quan hệ đó - quan hệ của con
người với con người trong sản xuất. Sở dĩ quá trình sản xuất xã hội có thể
diễn ra bình thường, chính là vì trong sự sản xuất đó, mối quan hệ giữa con
người với con người tồn tại thống nhất với mối quan hệ giữa con người với
giới tự nhiên. Trong sản xuất, mối quan hệ giữa con người với tự nhiên thể

hiện thành những trình độ khác nhau của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, mối
quan hệ đó được xây dựng và thông qua những quan hệ khác nhau giữa người
với người, tức là những quan hệ sản xuất. Trong tác phẩm Lao động làm thuê
và tư bản, C. Mác viết: “Trong sản xuất, người ta không chỉ quan hệ với giới
tự nhiên. Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo
5


một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn
sản xuất được người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với
nhau; và quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất”.
Như vậy, trong sự sản xuất ra đời sống xã hội của mình, con người ta, dù
muốn hay khơng cũng buộc phải duy trì và thực hiện những quan hệ nhất định
với nhau. Những quan hệ này mang tính tất yếu và khơng phụ thuộc vào ý
muốn của ai cả. Đó chính là những quan hệ sản xuất. Tất nhiên, quan hệ sản
xuất là do con người tạo ra, song nó tuân theo những quy luật tất yếu, khách
quan sự vận động của đời sống xã hội.
Ví dụ: Trong q trình làm việc, nếu mỗi người chỉ làm việc một cách
tách biệt, khơng có sự phối hợp với nhau, tức là không tồn tại mối quan hệ
giữa những con người với nhau, thì tập thể đó khơng thể làm việc hiệu quả.
Có thể khái quát lại như sau: Quan hệ sản xuất là khái niệm dùng để
chỉ quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất và trao đổi vật chất,
thể hiện tập trung ở quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong
tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ trao đổi hoạt động với nhau và quan hệ
trong phân phối sản phẩm lao động.
Ba mặt quan hệ đó trong quá trình sản xuất xã hội ln gắn bó với nhau,
tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động
không ngừng của lực lượng sản xuất. Mỗi mặt quan hệ của hệ thống quan hệ
sản xuất có vai trị và ý nghĩa riêng biệt, xác định, khi nó tác động tới nền sản
xuất xã hội nói riêng và tới tồn bộ tiến trình lịch sử nói chung. Trong hệ

thống các quan hệ sản xuất của mỗi nền kinh tế - xã hội xác định, quan hệ sở
hữu về tư liệu sản xuất ln ln có vai trò quyết định đối với tất cả các quan
hệ xã hội khác. Tính chất của quan hệ sản xuất trước hết được quy định bởi
quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất. Nó biểu hiện thành chế độ sở hữu đặc trưng cơ bản của phương thức sản xuất. Một cách chung chất, có thể
hiểu quan hệ sở hữu là quan hệ giữa các tập đoàn người trong việc chiếm hữu
các tư liệu sản xuất.
6


Ví dụ: Quan hệ giữa địa chủ sở hữu đất với tá điền khơng sở hữu đất là
quan hệ sở hữu.
Chính các mối quan hệ sở hữu này đã quy định địa vị của từng tập đoàn
người trong hệ thống sản xuất xã hội. Đến lượt mình, địa vị của từng tập đồn
người trong hệ thống sản xuất lại quy định cách thức mà các tập đoàn trao đổi
hoạt động cho nhau, cách thức mà các tập đồn tổ chức quản lý trong q
trình sản xuất. Cuối cùng, chính quan hệ sở hữu là cái quyết định phương thức
phân phối sản phẩm cho các tập đoàn người theo địa vị của họ đối với hệ
thống sản xuất xã hội.
Trong các hình thái kinh tế - xã hội mà loài người đã từng trải qua, lịch
sử đã chứng kiến sự tồn tại của hai loại hình thức sở hữu cơ bản đối với tư
liệu sản xuất: sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng. Sở hữu cơng cộng là loại
hình mà trong đó tư liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên của mỗi cộng đồng.
Nhờ cơ sở đó nên về mặt nguyên tắc, các thành viên của mỗi cộng đồng bình
đẳng với nhau trong tổ chức lao động và trong phân phối sản phẩm. Do tư liệu
sản xuất là tài sản chung của cả cộng đống nên các quan hệ xã hội trong sản
xuất vật chất và trong đời sống xã hội nói chung, trở thành quan hệ hợp tác,
tương trợ giúp đỡ lẫn nhau. Ngược lại, trong các chế độ tư hữu, do tư liệu chỉ
nằm trong tay một số ít người nên của cải xã hội không thuộc về số đông mà
thuộc về số ít người đó. Các quan hệ xã hội do vậy trở nên bất bình đẳng:
quan hệ thống trị và bị trị. Đối kháng xã hội có khả năng trở thành đối kháng

gay gắt. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê nin đã chỉ rõ trong các chế
độ sở hữu tư nhân của các xã hội điển hình trong lịch sử (chế độ chiếm hữu
nơ lệ, chế độ phong kiến và chế độ tư bản chủ nghĩa) thì chế độ sở hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa là đỉnh cao của loại sở hữu này.
C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã chứng minh rằng chế độ tư bản chủ nghĩa
khơng phải là hình thức sở hữu cuối cùng trong lịch sử xã hội loài người. Chủ
nghĩa xã hội dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, dù sớm hay muộn
cũng sẽ đóng vai trò phủ định đối với chế độ tư hữu.
7


Trong hệ thống các quan hệ sản xuất, các quan hệ về mặt tổ chức, quản
lý sản xuất là các quan hệ có vai trị quyết định một cách trực tiếp, quy mô,
tốc độ, hiệu quả của nền sản xuất; có khả năng đẩy nhanh hoặc kìm hãm sự
phát triển của nền sản xuất xã hội. Các quan hệ về mặt tổ chức và quản lý sản
xuất ln có xu hướng thích ứng với kiểu quan hệ sở hữu thống trị của mỗi
nền sản xuất cụ thể. Do vậy, việc sử dụng hợp lý các loại quan hệ này sẽ cho
phép toàn bộ hệ thống sản xuất vươn tới tối ưu. Ngược lại, các quan hệ tổ
chức và quản lý có thể làm biến dạng quan hệ sở hữu, ảnh hưởng tiêu cực đến
phát triển kinh tế - xã hội.
Trong hệ thống các quan hệ sản xuất, các quan hệ về mặt phân phối sản
phẩm lao động cũng là những nhân tố có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự vận
động của toàn bộ nền kinh tế - xã hội. Mặc dù phục thuộc vào các quan hệ sở
hữu và vào trình độ tổ chức quản lý sản xuất, song do có khả năng kích thích
trực tiếp vào lợi ích của con người, nên các quan hệ phân phối là chất xúc tác
của các quá trình kinh tế - xã hội. Quan hệ phân phối có thể thúc đẩy tốc độ
và nhịp điệu của sự sản xuất, làm năng động toàn bộ đời sống kinh tế xã hội.
Ngược lại, các quan hệ này có khả năng kìm hãm sản xuất, kìm hãm sự phát
triển của xã hội.
2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực

lượng sản xuất
2.1. Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đôi với quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất là thành tố động nhất, cách mạng nhất, là nội
dung của phương thức sản xuất. Còn quan hệ sản xuất là thành tố tương đối
ổn định, là hình thức xã hội của phương thức sản xuất. Trong mối quan hệ đó,
nội dung quyết định hình thức, tức là lực lượng sản xuất quyết định quan hệ
sản xuất. Khuynh hướng của sản xuất xã hội là không ngừng biến đổi và ngày
càng tiến bộ hơn. Xét đến cùng, sự biến đổi đó bao giờ cũng bắt đầu bằng sự
biến đổi của lực lượng sản xuất, trước hết là cơng cụ lao động. Do vậy, lực
lượng sản xuất có vai trò quyết định đối với phương thức sản xuất, buộc quan
8


hệ sản xuất phải hình thành, biến đổi và phát triển phù hợp với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện ở
một số điểm sau: “Trình độ của cơng cụ lao động; Trình độ tổ chức, phân
cơng lao động xã hội; Trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất; Kinh nghiệm
và kỹ năng lao động của con người”. Rõ ràng cả ba mặt của quan hệ sản
xuất phải phụ thuộc và phù hợp với các trình độ nêu trên để đảm bảo phương
thức sản xuất được vận hành hiệu quả.
Khi công cụ lao động chỉ ở trình độ thủ cơng, lực lượng sản xuất chủ yếu
mang tính cá nhân. Cịn khi sản xuất đạt tới trình độ cơ khi hóa, tự động hóa,
hoặc “internet hóa” như hiện nay, lực lượng sản xuất đòi hỏi sự hợp tác xã hội
mang tính chất rộng rãi trên cơ sở chun mơn hóa, thậm chí là sự hợp tác
mang tính tồn cầu. Trên thực tế, tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất
không tách biệt nhau. Như thế, quan hệ sản xuất luôn được lực lượng sản xuất
thúc đẩy đến trạng thái phù hợp với lực lượng sản xuất. Đó là trạng thái mà
trong đó quan hệ sản xuất là hình thức phát triển tất yếu của lực lượng sản
xuất. Trong trạng thái ấy, cả ba mặt của quan hệ sản xuất thích ứng với tính
chất, trình độ của lực lượng sản xuất, tạo điều kiện tối ưu cho việc sử dụng,

kết hợp giữa lao động và tư liệu sản xuất. Khi đó, lực lượng sản xuất sẽ có
điều kiện để phát triển hết khả năng của nó. Tuy nhiên, trạng thái phù hợp
giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất sẽ không đứng yên một chỗ mà
sẽ dần biến đổi đến trạng thái mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng
sản xuất. Sở dĩ như vậy bởi khi tới một giai đoạn nào đó, lực lượng sản
xuất sẽ phát triển lên một trình độ mới với tính chất xã hội hóa cao hơn.
Chẳng hạn, khi người lao động không sử dụng các công cụ thô sơ, năng suất
kém mà chuyển sang công cụ máy móc, năng suất cao hơn để sản xuất. Khi
đó, tình trạng phù hợp sẽ bị phá vỡ. Mâu thuẫn sẽ ngày càng gay gắt và đến
một lúc nào đó, quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích” trói buộc khiến lực
lượng sản xuất khơng thể phát triển hơn. Vì thế, phải thay quan hệ sản xuất
cũ, đã lỗi thời bằng một quan hệ sản xuất mới, tiến bộ hơn. Chỉ có như vậy thì
9


lực lượng sản xuất mới được “cởi trói” để phát triển lên những trình độ cao
hơn. Việc xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế nó bằng quan hệ sản xuất mới
có nghĩa là ở đó diễn ra sự diệt vong của phương thức sản xuất lỗi thời, kéo
theo sự ra đời của một phương thức sản xuất mới. Đó là thời đại của “cách
mạng xã hội”.
2.2. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định: Quan hệ sản xuất bao giờ cũng có
tính độc lập tương đối và sẽ tác động trở lại lực lượng sản xuất. Quan hệ sản
xuất quy định mục đích xã hội của sản xuất, ảnh hưởng đến thái độ lao động
của công nhân, nông dân, việc hợp tác và phân cơng lao động, kích thích hoặc
hạn chế hoạt động cải tiến công cụ, ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản
xuất. Bằng nhiều cách như vậy, quan hệ sản xuất có nhiều ảnh hưởng lên lực
lượng sản xuất và phương thức sản xuất. Nếu được vận dụng khoa học, phù
hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất sẽ tạo
dư địa rộng lớn để lực lượng sản xuất phát triển. Khi đó, quan hệ sản xuất là

động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển hết khả năng của nó. Nếu đã
lỗi thời, khơng cịn phù hợp với lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất sẽ kìm
kẹp, cản trở lực lượng sản xuất phát triển. Kéo theo đó, hiệu năng sản xuất
của nền kinh tế sẽ suy giảm, xuất hiện ngày càng nhiều các hiện tượng bất
công trong xã hội.
Quan hệ sản xuất lạc hậu hơn hoặc tiến bộ hơn một cách giả tạo cũng sẽ
kìm hãm sự phát tiển của lực lượng sản xuất. Khi mâu thuẫn giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất đã bộc lộ gay gắt, đòi hỏi phải giải quyết nhưng
con người không phát hiện được; hoặc khi mâu thuẫn đã được phát hiện mà
không được giải quyết hoặc giải quyết một cách sai lầm, chủ quan,… thì tác
động kìm hãm của quan hệ sản xuất sẽ trở thành nhân tố phá hoại đối với lực
lượng sản xuất.

10


Chương 2: Ý nghĩa của vấn đề biện chứng giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất đối với cuộc sống và việc học tập của sinh viên hiện nay
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai yếu tố của phương thức
sản xuất, trong đó lực lượng sản xuất là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến
quan hệ sản xuất, quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng
sản xuất. Vì vậy mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất có ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong đời sống xã hội và việc học tập
của sinh viên hiện nay. Nhà nước cần phải biết tận dụng, phát huy nguồn năng
lực trẻ tìm năng hiện nay. Bình thường hố quan hệ sản xuất, có cách nhìn
đúng đắn giữa người làm th với ơng chủ của mình. Đây là một yếu tố quan
trọng ảnh hưởng đến chất lượng của sản phẩm làm ra. Quan hệ sản xuất tốt
người lao động được hưởng mọi quyền lợi họ sẽ tích cực làm việc từ đó năng
suất và sản phẩm không ngừng tăng. Chẳng hạn, nếu như ông chủ trả mức
lương hợp lý hoặc cao hơn cho người lao động sẽ kích thích họ làm việc hăng

hái hơn vì thế sẽ tăng năng suất, góp phần tăng hiệu quả kinh doanh. Cịn đối
với các sinh viên, phải có sự tham gia của các cá nhân thành thạo về kiến thức
lẫn những kỹ năng năng ứng biến xử lí tình huống hợp tác với nhau để tạo ra
một bài thuyết trình, một diễn đàn về học thuật. Sinh viên muốn làm một việc
gì đó thành cơng cần phải đề ra chiến lược rõ ràng, chi tiết từng công việc,
hơn nữa cần phải có sự phối hợp với nhau trong một nhóm, mỗi người một
việc khơng ít thì nhiều như vậy mục tiêu đề ra sẽ hoàn thành mỹ mãn.

11


KẾT LUẬN
Xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi phát triển , sự
biến đổi phát triển đó bao giờ cũng bắt đầu sự biến đổi phát triển của lực
lượng sản xuất. Trước hết là công cụ lao động, công cụ lao động phát triển
dẫn đến mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất hiện có, địi hỏi khách quan
phải xố bỏ quan hệ sản xuất cũ thay thế bằng quan hệ sản xuất mới. Quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng là
quy luật chung phổ biến đối với sự phát triển của xã hội, chính quy luật này
đã đưa xã hội lồi người trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội: cơng xã nguyên
thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, chủ nghĩa tư bản và xã hội chủ nghĩa. Nó
chi phối tồn bộ tiến trình phát triển của lịch sử. Trong đó, lực lượng sản xuất
là nội dung, là quá trình sản xuất. Quan hệ sản xuất là hình thức của quá trình
sản xuất, hình thức của sản xuất bao giờ cũng ổn định hơn. Song sự ổn định
đó chỉ có tính chất tạm thời sớm muộn nó cũng thay đổi cho phù hợp. Quan
hệ sản xuất ra đời từ lực lượng sản xuất, nhưng khi ra đời nó có vai trị tác
động trở lại rất tích cực theo hai khuynh hướng. Nếu quan hệ sản xuất phù
hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, nó thúc đẩy sản xuất phát
triển nhanh. Nếu ngược lại nó sẽ kìm hãm sự phát triển của sản xuất. Khi ra
đời quan hệ sản xuất quy định mục đích tính chất, khuynh hướng phát triển

của sản xuất, quy định hệ thống quản lí sản xuất, quản lí phân phối và quy
định phân phối ít hay nhiều mà người lao động được hưởng .

12


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] GS.TS Phạm Văn Đức (chủ biên) (2019), GIÁO TRÌNH TRIẾT HỌC
MÁC – LÊNIN, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[2] />
nghia-mac-lenin/quy-luat-quan-he-san-xuat-phu-hop-voi-trinh-do-phat-triencua-luc-luong-san-xuat-va-su-van-dung-quy-luat-nay-o-viet-nam-hien-nay/
[truy cập ngày 7/7/2021].
[3] />
lenin-ve-moi-quan-he-giua-luc-luong-san-xuat-va-quan-he-san-xuat--phan1.html?fbclid=IwAR3cLjrJl0eI2IzpQOVaUhPJnbC3nNRZuAhQga6Bnd9uLuiuk6bK0B3-Hc [ truy cập
ngày 8/7/2021].



×