Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

10 van cau hoi hoa hoc Phan 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (439.28 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Mười vạn câu hỏi vì sao Hóa học, phần 9</b>



<b>19. Phát hiện thuốc nổ và ma túy từ… vân tay</b>


Các nhà khoa học Mỹ khẳng định cảnh sát có thể phát hiện


dấu vết của heroin, cocaine, cần sa và thậm chí thuốc nổ


trên một dấu vân tay.


Một nhóm chuyên gia tại đại học Purdue, West Lafayette,


bang Indiana (Mỹ) đã sử dụng một kỹ thuật có tên DESI


(desorption electrospray ionization), theo đó người ta phun


một hợp chất hóa học hòa tan lên bề mặt dấu vân tay rồi


phân tích các giọt dung dịch nằm rải rác trên dấu vân bằng


phương pháp quang phổ học.


Theo giáo sư Graham Cooks, trưởng nhóm nghiên cứu, kỹ


thuật này cung cấp “một hình ảnh về mặt hóa chất” của vân


tay với độ phân giải cao hơn những kỹ thuật khác, đồng


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

A: Hình ảnh một dấu vân tay có cocaine để lại trên kính. B:


Hình ảnh (A) sau khi phân tích bằng kỹ thuật DESI trên



màn hình máy tính. Cocaine được thể hiện bằng cách


chấm đỏ.C: Một ngón tay tẩm mực rồi đè lên giấy.


D: Hình ảnh của ngón tay (C) trên màn hình máy tính nhờ


kỹ thuật DESI.


“Những hợp chất phân tử trên vân tay của một người có thể


cho chúng ta biết những chất mà chủ của nó vừa mới tiếp


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Theo cách này, các nhà nghiên cứu có thể phát hiện mọi


dấu vết tinh vi nhất của các hợp chất – được thể hiện bởi


các chấm trên bản in – trên vân tay. Nó có thể phát hiện


một phần tỷ gram các chất ma túy và các hợp chất từ thuốc


nổ. Kỹ thuật DESI cũng rất hữu ích trong việc nhận dạng


các chất chuyển hóa và nhiều hợp chất khác từ mồ hơi mà


ngón tay tiết ra. Sự tồn tại của những hợp chất như vậy có


thể giúp các nhà khoa học biết những quá trình đang xảy ra
bên trong cơ thể.



Hiện nay, nhóm nghiên cứu cũng đang tiến hành thử


nghiệm để xem liệu DESI có thể thay thế các phương pháp


thử máu và nước tiểu dành cho vận động viên hay khơng.


<b>20. Giải Nobel hóa học 2008</b>


Ngày 8.10, Học viện Hàn lâm Thụy Điển thông báo trao


giải Nobel hoá học 2008 cho nhà khoa học Nhật Bản
Osamu Shimomura và hai đồng nghiệp người Mỹ Martin


Chalfie và Roger Tsien nhờ những nghiên cứu và phát triển


protein huỳnh quang xanh (GFP) vốn lần đầu tiên được


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Giải Nobel hố học 2008 đã tơn vinh sự phát hiện khởi đầu


về GFP và hàng loạt các phát triển quan trọng dẫn đến việc


sử dụng nó như một cơng cụ thí nghiệm trong sinh học.


“GFP đã trở thành một trong những công cụ quan trọng


nhất được sử dụng trong ngành sinh học đương đại. Với sự


trợ giúp của GFP, các nhà nghiên cứu đã phát triển các


phương pháp để xem xét những q trình mà trước khơng



thấy được, như sự phát triển của các tế bào thần kinh trong


não hoặc cách thức lan truyền của tế bào ung thư” – thông


cáo của Viện Hàn Lâm Thụy Điển cho hay.


Nhà khoa học Shimomura đã góp cơng đầu tiên khi tách


được GFP từ một con sứa bắt ở ngồi khơi phía tây Bắc


Mỹ, và phát hiện ra nó phát huỳnh quang xanh dưới ánh


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<b>Nhà khoa học Nhật Bản Osamu Shimomura và loài sứa </b>
<b>Aequorea</b>


Đến thập niên 1990, Chalfie đã chứng minh giá trị của GFP
như một chất phát sinh dạ quang, trong lúc nhà khoa học
Tsien đóng góp kiến thức mở rộng sự hiểu biết chung về


cách GFP phát huỳnh quang.


<b>Nhà hóa học người Mĩ Martin Chalfie và Roger Tsien </b>


Nghiên cứu của họ đã giúp các nhà khoa học triển khai một


số nghiên cứu sinh học khác tại cùng thời điểm. Các nhà


nghiên cứu có thể sử dụng GFP để lần theo dấu vết những



tế bào thần kinh phá huỷ do bệnh alzheimer, hoặc xem cách


tế bào beta sản sinh insulin được tạo thành như thế nào


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Trong những năm gần đây, những nhà khoa học đoạt giải


Nobel hoá học thường đến từ Mỹ và Nhật, trong đó Nhật


Bản đã có giải thưởng danh giá này những năm 2000 –


2001 – 2002. Còn các nhà khoa học Mỹ chưa thiếu vắng


lần nào trong danh sách này suốt từ năm 1992-2006.


<b>21. Một ô trống trong bảng tuần hồn đã có chủ</b>


Hiệp hội Hố học Cơ bản và Ứng dụng quốc tế (IUPAC) đã


chính thức công nhận sự ra đời của nguyên tố 112 trong


công văn gửi tới nhóm các nhà khoa học do giáo sư Sigurd


Hofmann lãnh đạo, đồng thời đề nghị họ nhanh chóng đặt


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<b>Vị trí của ngun tố 112 trong bảng tuần hoàn nguyên </b>
<b>tố</b>


Khác với đa số các nguyên tố nhân tạo trước đó thường


được tạo thành tại các máy gia tốc nổi tiếng thế giới của



Mỹ và Nga, gần đây, một loạt nguyên tố mới được phát


hiện ở GSI (Trung tâm nghiên cứu ion nặng), thành phố
Darmstadt, CHLB Đức. Đây là trung tâm thứ ba của thế


giới có máy gia tốc hạt nhân cực mạnh và đang vươn lên


ngang hàng với hai bậc “đàn anh” có tuổi đời cao hơn


nhiều.


“Chú bé” này sẽ là thành viên nặng nhất trong bảng tuần


hồn được chính thức cơng nhận, nặng hơn nguyên tố đứng
đầu bảng là hidro đến 277 lần. Khoảng 6 tháng sau, IUPAC


sẽ ra quyết định thông qua đề nghị đặt tên của các nhà khoa
học Đức và nguyên tố mới 112 sẽ có tên chính thức.


Giáo sư Sigurd Hofmann phát biểu: “Chúng tôi rất vui


mừng, đây là nguyên tố thứ 6 được công nhận phát minh tại


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×