Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Nhận thức của giáo viên về biến đổi khí hậu và cách thức ứng phó: Thực trạng và những yếu tố ảnh hưởng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (598.56 KB, 12 trang )

HNUE JOURNAL OF SCIENCE
Educational Sciences, 2021, Volume 66, Issue 4AB, pp. 112-123
This paper is available online at

DOI: 10.18173/2354-1075.2021-0066

NHẬN THỨC CỦA GIÁO VIÊN VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ CÁCH THỨC ỨNG PHÓ:
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG

Nguyễn Công Khanh, Phan Thanh Long, Nguyễn Thị Cẩm Hường,
Bùi Thế Hợp, Nguyễn Thị Thắm và Trần Thị Thiệp
Khoa Giáo dục Đặc biệt, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Trong bài viết này, các tác giả trình bày kết quả khảo sát nhận thức của giáo viên
dạy hòa nhập, hội nhập và chuyên biệt (N = 3221) về biến đổi khí hậu và cách thức ứng phó
với biến đổi khí hậu, tại các cơ sở giáo dục của 6 tỉnh/ thành phố của Việt Nam. Kết quả
khảo sát cho thấy, đa số giáo viên được khảo sát đã có nhận thức đúng về biến đổi khí hậu
và cách thức ứng phó với biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận đáng kể nhận
thức chưa đúng. Nghiên cứu này khái quát bức tranh thực trạng nhận thức thái độ của giáo
viên về biến đổi khí hậu, đồng thời chỉ ra một số yếu tố có ảnh hưởng đến nhận thức của
giáo viên. Kết quả khảo sát này cung cấp những thông tin đáng tin cậy, rất hữu ích cho việc
xây dựng chính sách, hỗ trợ việc xây dựng chương trình giáo dục, tập huấn về biến đổi khí
hậu cho giáo viên viên trong tương lai. Nghiên cứu cũng đề cập đến một số hạn chế và định
hướng nghiên cứu tiếp theo.
Từ khóa: Nhận thức về biến đổi khí hậu, ứng phó với biến đổi khí hậu, giáo viên dạy hòa
nhập/ hội nhập/ chuyên biệt.

1. Mở đầu
Việt Nam là quốc gia xếp thứ sáu phải chịu ảnh hưởng nặng nề do biến đổi khí hậu
(BĐKH). BĐKH ở Việt Nam đang tác động lên mọi khía cạnh, lĩnh vực của cuộc sống và sự
sinh tồn như tài nguyên, an ninh môi trường, an ninh quốc gia, đời sống kinh tế, xã hội (trong đó
có lĩnh vực giáo dục), vấn đề sức khỏe, chất lượng cuộc sống [1].


BĐKH với đặc trưng là sự ấm lên toàn cầu đi cùng các sự kiện thời tiết cực đoan như sóng
nhiệt, sóng lạnh, mưa bão, lũ lụt và hạn hán xảy ra với mức độ nghiêm trọng hơn và tần suất cao
hơn [2]. Do biến đổi khí hậu, các điều kiện thời tiết bất lợi dẫn đến việc nồng độ bụi nguy hại
cho sức khỏe ngày càng gia tăng, đồng thời có xu hướng duy trì lâu dài, phát tán rộng, ơ nhiễm
khơng khí do đó ngày càng trở nên nghiêm trọng [3]. Thay đổi thời tiết, nhiệt độ tăng, nhiều
thảm họa thiên nhiên trực tiếp gây ra cảm nhiệt, đuối nước, bệnh tiêu hóa, sang chấn tâm lí [4].
Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới đang có nhiều nỗ lực để hạn chế,
giảm thiểu BĐKH và những tác động của nó tới con người nói chung, trẻ em nói riêng, trong đó
có trẻ em khuyết tật. Chương trình hành động quốc gia về phát triển bền vững thực hiện 17 mục
tiêu của Liên hợp quốc đã nhấn mạnh tới mục tiêu số 13 về Hành động ứng phó với biến đổi khí
hậu kết hợp với nâng cao chất lượng giáo dục (mục tiêu 4) và thực hiện đồng bộ các mục tiêu
khác [5]. Trong nhà trường, các chương trình dạy và học về ứng phó với biến đổi khí hậu của
Bộ GD&ĐT, tổ chức PLAN, AusAID, Live&Learn [6], Chương trình hướng dẫn về phong cách
Ngày nhận bài: 22/7/2021. Ngày sửa bài: 20/8/2021. Ngày nhận đăng: 2/9/2021.
Tác giả liên hệ: Nguyễn Công Khanh. Địa chỉ e-mail:

112


Nhận thức của giáo viên về biến đổi khí hậu và cách thức ứng phó: Thực trạng và những yếu tố ảnh hưởng

sống và biến đổi khí hậu của UNESCO và UNEP [2],... đã và đang được thực hiện.
Đặc biệt UNICEF đã và đang rất nỗ lực giúp đỡ các cơ quan chính phủ Việt Nam tăng
cường khả năng chống chọi và ứng phó với với thiên tai liên quan đến biến đổi khí hậu, tập
trung vào việc giảm thiểu các tác động và sự tổn thương ở trẻ em. Nhiều chương trình giảm
thiểu rủi ro thiên tai, giúp trẻ em sẵn sàng ứng phó đang được tiến hành [1]. Trẻ em là đối tượng
bị dễ bị tác động nghiêm trọng bởi những thay đổi của xã hội, đặc biệt trong bối cảnh BĐKH.
Theo UNICEF, trẻ em bị ảnh hưởng đặc biệt bởi thảm họa thiên nhiên. Nhiều báo cáo và nghiên
cứu cho thấy trẻ phải chịu đựng đuối nước do lũ lụt, thiếu nước sạch do hạn hán, bị bệnh đường
tiêu hóa và sang chấn tâm lí sau các thảm họa thiên nhiên [1].

Đối với giáo dục của trẻ em, BĐKH đang gây ra các tác động rộng lớn cả trực tiếp và gián
tiếp trên nhiều phương diện [7]. Các tác động trực tiếp bao gồm gây ra thương tích, thương tật,
ngăn cản cơ hội tới trường, áp lực tâm lí cho GV và HS, phá hủy cơ sở vật chất của nhà trường.
Đồng thời, BĐKH, một cách gián tiếp cũng khiến các hoạt động giáo dục, dạy học trong nhà
trường, thời gian học tập của trẻ em bị giảm sút, tác động đến kinh tế của gia đình trẻ khiến trẻ
giảm cơ hội đến trường [7]. Trẻ khuyết tật (KT) vốn là một trong số các nhóm trẻ yếu thế nhất
do sự rối loạn trong chức năng cơ thể, dẫn tới sự hạn chế trong hoạt động và tham gia. Trong
khi giáo dục trẻ khuyết tật hướng tới tăng cường sự hoạt động và tham gia cho các em, thì
BĐKH lại trở thành yếu tố khách quan cản trở việc tạo lập môi trường này. Không những thế,
các hiện tượng thời tiết cực đoan và ô nhiễm không khí cũng tác động khơng nhỏ tới sức khỏe
và trạng thái tâm lí nhất là khi các trẻ khuyết tật có vấn đề về giác quan, các em càng dễ bị tác
động tới cảm xúc, hành vi. Tuy vậy, đến nay, những chương trình hành động, những báo cáo và
kết quả nghiên cứu tập trung khảo sát thực trạng nhận thức, tác động, ảnh hưởng của BĐKH của
GV tới trẻ em KT và giáo dục trẻ em KT cùng các sáng kiến để trẻ em KT và gia đình trẻ em
KT ứng phó với tác động của BĐKH cịn nhiều hạn chế.
Từ đầu năm 2021, nhóm nghiên cứu của khoa GDĐB, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
phối hợp với tổ chức UNICEF Việt Nam, tiến hành nghiên cứu khảo sát đánh giá thực trạng và
sáng kiến giảm thiểu tác động của BĐKH và ONKK tới trẻ em KT và giáo dục trẻ khuyết tật.
Trong bài báo này, nhóm nghiên cứu chỉ tập trung trình bày kết quả khảo sát nhận thức thái độ
của GV dạy hòa nhập, hội nhập và chuyên biệt về BĐKH và cách ứng phó với BĐKH nhằm
khái quát bức tranh thực trạng và một số yếu tố ảnh hưởng.

2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Mẫu khảo sát thực trạng
Mẫu khảo sát thực trạng nhận thức về BĐKH và cách thức ứng phó với BĐKH của GV dạy
hòa nhập, hội nhập và chuyên biệt, gồm 3221 GV của 6 tỉnh: Lào Cai, Kon Tum, An Giang, Hà
Nội, Quảng Bình, TP. Hồ Chí Minh. Sự phân bố mẫu khảo sát được trình bày cụ thể ở Bảng 1.
Bảng 1. Mẫu khảo sát thực trạng
Khu vực
Mẫu

Giới tính
Nhóm tuổi
(tỉnh/thành phố)
(N)
Nam
Nữ
51-60
41-50
36-40 31--35 24-30
1. Lào Cai
1494
235
1256
24
280
322
473
395
2. Kon Tum
789
75
713
50
297
143
140
159
3. An Giang
848
323

524
115
247
220
143
123
4. Hà Nội
33
12
21
10
5
5
6
7
5. Quảng Bình
25
4
21
3
8
3
9
2
6. TP. Hồ Chí Minh
32
5
47
9
10

1
7
5
Tổng
3221
654
2562
211
847
694
778
691
113


Nguyễn C. Khanh, Phan T. Long, Nguyễn T.C. Hường, Bùi T. Hợp, Nguyễn T. Thắm và Trần T. Thiệp

Kết quả ở Bảng 1 cho thấy có 654/3216 (chiếm 20,34%) là GV nam và 2562/3216 (chiếm
79,66%) là GV nữ. Tỉ lệ GV sinh 61-70 là 211/3221 (chiếm 6,55%), GV sinh 71-80 là
847/3221 (chiếm 26,30%), GV sinh 81-85 là 694/3221 (chiếm 21,55%), GV sinh 86-90 là
778/3221 (chiếm 24,15%), GV sinh 91-97 là 691/3221 (chiếm 21,45%).

2.2 Nội dung và công cụ khảo sát
* Mô tả nội dung:
Nội dung nghiên cứu khảo sát thực trạng nhận thức của GV dạy Hòa nhập, hội nhập và
chuyên biệt về BĐKH và cách thức ứng phó với BĐKH cũng như sự ảnh hưởng của BĐKH tới
trẻ em KT và giáo dục trẻ em KT được tập trung vào các nội dung cụ thể sau:
(1) Nhận thức của giáo viên dạy hòa nhập, hội nhập và chuyên biệt về quan niệm, cách thức
ứng ứng phó với BĐKH;
(2) Thái độ của giáo viên dạy hòa nhập, hội nhập và chuyên biệt về ảnh hưởng của BĐKH

đối với GD trẻ KT;
(3) Mức độ tác động, ảnh hưởng xấu của BĐKH và ONKK đến các nhóm trẻ em KT.
* Mơ tả công cụ:
Thang đo nhận thức về BĐKH và cách thức ứng phó với BĐKH, được thiết kế cho GV, sử
dụng trong nghiên cứu này, gồm 3 tiểu thang đo với 25 mục (item). Mỗi item được đánh giá theo
kiểu thang Likert - 5 mức độ (1 = Hồn tồn khơng đúng; 2= Cơ bản không đúng; 3 = Đúng một
nửa/một phần; 4 = Cơ bản đúng; 5 = Hoàn toàn đúng/rất đúng). Ngồi ra cịn có 1 câu hỏi về tác
động của BĐKH (hiện tượng thời tiết cực đoan, sóng nhiệt, sóng lạnh… bão lụt thường xuyên
hơn,...) đến các nhóm trẻ KT và khơng KT, xem nhóm nào bộc lộ nhiều vấn đề hơn trước đây
(chọn đánh dấu X vào ô tương ứng: từ 1 – ít ảnh hưởng nhất… đến 5 – nhiều ảnh hưởng nhất).
* Cách đánh giá:
Tính điểm của các tiểu thang đo/thang đo nhận thức về BĐKH bằng tổng điểm của các
items. Những GV có điểm số ≤ điểm trung bình của mẫu khảo sát, từ 1 đến trên 1 độ lệch
chuẩn (SD) được xem là những GV có điểm nhận thức thấp (yếu). Những HS có điểm số ≥
điểm trung bình của mẫu khảo sát, từ 1 độ lệch chuẩn (SD) trở lên được xem là những GV
có điểm nhận thức cao (tốt), số GV cịn lại có điểm nhận thức ở mức trung bình (bình thường).
Quy ước này dựa trên sự khác biệt điểm trung bình (X) 1 độ lệch chuẩn (± 1SD) giữa các
nhóm, có ý nghĩa về mặt thống kê [8].
* Đánh giá độ tin cậy:
Để đánh giá độ tin cậy của thang đo nhận thức về BĐKH và cách thức ứng phó với BĐKH
của GV, chúng tơi sử dụng mơ hình tương quan Alpha của Cronbach (Cronbach’s Coefficient
alpha). Kết quả phân tích ở Bảng 2 cho thấy, độ tin cậy tính theo hệ số Cronbach Alpha trên
mẫu 3221 GV của 2 tiểu thang đo Nhận thức của GV về BĐKH và Nhận thức của GV về cách
ứng phó BĐKH đều ở mức cao (từ 0,90 đến 0,96).
Bảng 2. Độ tin cậy của các tiểu thang đo và toàn bộ phép đo (Phiếu khảo sát GV)
Các tiểu thang đo/ thang đo
Mẫu GV
Hệ số tin cậy
(N)
Alpha

Tiểu thang đo 1 (Nhận thức của GV về BĐKH)
Tiểu thang đo 2 (Nhận thức của GV về cách ứng phó BĐKH)
Tiểu thang đo 5a (Thái độ của GV về BĐKH)
Thang đo (phép đo tổng)

3221
3221
3221
3221

2.3. Kết quả khảo sát thực trạng nhận thức về BĐKH của giáo viên
2.3.1. Nhận thức về BĐKH của GV
114

0.94
0.96
0.90
0.97


Nhận thức của giáo viên về biến đổi khí hậu và cách thức ứng phó: Thực trạng và những yếu tố ảnh hưởng

GV có quan niệm như thế nào về BĐKH? Kết quả khảo sát các quan niệm của GV về biến
đổi khí hậu (BĐKH) tại Bảng 3 cho thấy, tỉ lệ GV có những nhận thức đúng ở mức 4-5 (cơ bản
đúng, hoàn toàn đúng) chiếm 76,94%, nhưng chúng có biên độ dao động từ 67,6% - 84,4%. GV
có những nhận thức ở mức 3 (thi thoảng đúng) chiếm 13,63%, biên độ dao động từ 9,1% 19,3%; GV có những nhận thức chưa đúng ở mức 1-2 (hoàn toàn khơng đúng, hiếm khi đúng)
chiếm tỉ lệ thấp 9,42%, có biên độ dao động từ 6,5% - 14,1%. Như vậy vẫn cịn một bộ phận
đáng kể GV (trên 9%) có những nhận thức chưa đúng về BĐKH, thậm chí có tới trên 32,4% GV
nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ với hiện tượng lạnh bất thường cũng là hệ quả của BDKH.
Bảng 3. Nhận thức về BĐKH của giáo viên theo các mức độ

Mức độ (%)*
M
SD
Thứ
Các ý kiến/quan niệm
bậc
1
2
3
4
5
1.1. BĐKH là sự thay đổi
4,2
3,4
10,7
38,3
43,3
4,13
1,02
4
các thành phần của bầu khí
quyển tồn cầu trực tiếp
hoặc gián tiếp do hoạt động
của con người gây nên
1.2. BĐKH là sự thay đổi
4,7
7,2
19,3
43,4
25,4

3,78
1,05
8
có ý nghĩa thống kê của
trạng thái trung bình hoặc
sự biến đổi của khí hậu tồn
tại trong một thời gian dài
(thường là 10 năm hoặc
lâu hơn)
1.3. BĐKH là không thể
4,5
7,1
18,3
38,4
31,7
3,86
1,08
7
tránh khỏi do cách thức
hoạt động của xã hội hiện
đại
1.4. Tạo ra ấm lên toàn
3,9
4,9
12,3
33,3
45,6
4,12
1,05
5

cầu làm băng tan, nước
biển dâng
1.5. Tạo ra sóng nhiệt
4,0
5,7
14,5
38,9
36,9
3,99
1,05
6
(nhiệt độ tăng lên đột
ngột)
1.6. Tạo ra sóng lạnh
5,8
8,3
18,3
38,3
29,3
3,77
1,13
9
(nhiệt độ lạnh, giảm đột
ngột)
1.7. Gây mưa bão, lũ lụt
3,4
3,8
9,4
34,4
48,9

4,21
1,00
2
thất thường, khó dự báo
1.8. Gây hạn hán, hiện
3,5
3,8
10,8
37,1
44,8
4,16
1,00
3
tượng sa mạc hóa
1.9. Thiên tai và các hiện
3,4
3,1
9,1
33,2
51,2
4,26
0,99
1
tượng thời tiết cực đoan ở
Việt Nam gần đây (bão, lũ
lụt, hạn hán, xâm nhập
mặn, triều cường…) là do
BĐKH
Trung bình
4,16

5,26
13,63
37,26
39,68
4.03
1,04
(*Mức độ: (1 = Hồn tồn khơng đúng; 2= Cơ bản không đúng;
3 = Đúng một nửa/một phần; 4 = Cơ bản đúng; 5 = Hoàn toàn đúng/rất đúng).
115


Nguyễn C. Khanh, Phan T. Long, Nguyễn T.C. Hường, Bùi T. Hợp, Nguyễn T. Thắm và Trần T. Thiệp

Nhận thức của GV về BĐKH có xu hướng hiểu theo cách hiểu phổ thơng mà ít hiểu theo
cách của các nhà khoa học. GV thường chú ý đến các hiện tượng cụ thể đang xảy ra xung
quanh, trong cuộc sống sinh hoạt thường ngày, có thể cảm nhận ngay trong đời sống thường
ngày (xếp thứ 1) như GV chú ý nhiều đến sóng nhiệt, hiện tượng nóng hơn là chú ý đến sóng
lạnh, hiện tượng lạnh.
2.3.2. Nhận thức về cách thức ứng phó BĐKH của GV
GV có quan niệm như thế nào về cách thức ứng phó với BĐKH? Số liệu khảo sát GV về
ứng phó với BĐKH trình bày tại Bảng 4 cho thấy, tỉ lệ GV có nhận thức đúng ở mức 4-5 (cơ bản
đúng, hoàn toàn đúng) chiếm 80,21%, các quan niệm cụ thể có biên độ dao động từ 71,0% 84,3%. GV có nhận thức ở mức 3 (thi thoảng đúng) chiếm 12,10%, có biên độ dao động từ 9,8% 17,8%; GV có những nhận thức chưa đúng ở mức 1-2 (hồn tồn khơng đúng, hiếm khi đúng)
chiếm tỉ lệ thấp 7,29%, có biên độ dao động từ 5,7% - 11,2%. Như vậy vẫn còn một bộ phận đáng
kể GV (trên 7%) có những nhận thức chưa đúng về cách thức ứng phó với BĐKH, thậm chí có tới
trên 29% GV chưa nhận thức được “Thích ứng là sự chấp nhận rằng khơng thể tránh hồn tồn
các ảnh hưởng tiêu cực của BĐKH do quán tính của các hệ thống khí quyển và đại dương”.
Kết quả phân tích số liệu cho thấy GV dường như chú trọng nhiều hơn tới yếu tố giảm nhẹ,
chú trọng tới việc giảm nhẹ trước, sau đó là thích ứng. GV chú trọng tới kĩ năng giảm nhẹ nhiều
hơn là kĩ năng thích ứng (2 trong số các kĩ năng thích ứng xếp thứ 7 và 8 trong số 9 kĩ năng).
Điều này phù hợp với thực tế.

Kĩ năng giảm nhẹ (ngăn ngừa) (ý 3.4, 3.6, 3.7, 3.8, 3.9, 3.10): GV chú ý tới sử dụng năng
lực mới, năng lượng tái tạo nhiều nhất, rồi tới biện pháp trồng cây xanh, sau đó mới tới các biện
pháp của cá nhân để giảm khí nhà kính (như đi bộ, đi xe đạp), sử dụng hiệu quả năng lượng
(đèn điện công nghệ mới, tiết kiệm điện). Có xu hướng nghĩ tới thay thế năng lượng hơn là sử
dụng năng lượng hiệu quả (thói quen tận dụng cái cũ và xu hướng ưa chuộng cái mới)? Tuyên
truyền như thế nào?
Kĩ năng thích ứng (điều chỉnh để thích nghi và tăng cường khả năng chống chịu, khai thác
các mặt thuận lợi) (ý 3.5, 3.11, 3.12): GV chú trọng tới việc truyền thơng trước tiên, sau đó mới
chú ý tới các hành vi cụ thể. Trong khi đó, việc BDKH là khơng thể tránh khỏi, do đó bản thân
con người cũng phải có kĩ năng thích ứng cùng với kĩ năng giảm nhẹ. Quan niệm đồng bộ: thay
đổi ý thức, dẫn tới thay đổi hành vi. Nhận thức về tầm quan trọng của kĩ năng thích ứng cần được
chú trọng hơn trong tương lai. Điều này cho thấy nên đẩy mạnh hơn các hoạt động tuyên truyền và
có chính sách cụ thể của nhà nước cần nhấn mạnh về hoạt động tuyên truyền về vấn đề BDKH.
Bảng 4. Nhận thức của GV về ứng phó với BĐKH
M
SD
Thứ
Mức độ (%)*
Các ý kiến/quan niệm
bậc
2
3
4
5
1
3.1. Ứng phó với BĐKH là tìm
4,1
4,5
15,9
40,5

35,1
3,98
1,03
11
cách giảm nhẹ và thích ứng
3.2. Giảm nhẹ là ngăn chặn
2,6
4,1
12,6
39,4
41,4
4,13
0,96
9
sự nóng lên tồn cầu thơng
qua việc giảm phát thải khí
nhà kính
3.3. Thích ứng là sự chấp
nhận rằng khơng thể tránh
hồn tồn các ảnh hưởng
tiêu cực của BĐKH do qn
tính của các hệ thống khí
quyển và đại dương

116

4,6

6,6


17,8

39,2

31,8

3,87

1,08

12


Nhận thức của giáo viên về biến đổi khí hậu và cách thức ứng phó: Thực trạng và những yếu tố ảnh hưởng

3.4. Đưa ra các chính sách và
giải pháp nhằm hạn chế ảnh
hưởng tiêu cực của BĐKH

2,5

3,2

10,3

36,8

47,2

4,23


0,93

3

3.5. Điều chỉnh nhận thứchành vi để thích nghi và tăng
cường khả năng chống chịu
trước tác động tiêu cực và
khai thác những thuận lợi
của BĐKH

2,9

4,2

12,3

37,6

43,0

4,14

0,98

8

3.6. Nâng cao hiệu quả sử
dụng năng lượng (sử dụng
đèn compact, tắt điện khi

không sử dụng…)

3,3

3,5

11,2

35,1

46,8

4,19

0,99

5

3.7. Tăng cường sử dụng
năng lượng mới, năng lượng
tái tạo (năng lượng gió, mặt
trời…)

2,6

3,2

9,8

34,3


50,0

4,26

0,95

1

3.8. Kiểm sốt và giảm khí
nhà kính (đi bộ, xe đạp hoặc
xe buýt)

2,7

3,4

12,1

36,4

45,3

4,18

0,96

6

3.9. Tăng cường chứa và hấp

thụ khí nhà kính (trồng cây
xanh,…)

2,9

3,6

10,2

33,5

49,7

4,23

0,98

3

3.10. Tăng cường thu hồi khí
nhà kính từ các mỏ khai thác
than, dầu khí, bãi rác thải

3,1

5,0

14,0

37,8


40,1

4,07

1,01

10

3.11. Tăng cường đi bộ, xe
đạp hoặc xe buýt

2,9

4,3

13,1

36,2

43,4

4,13

0,99

8

3.12. Tăng cường truyền thông
về nội dung giáo dục BĐKH

(dạy bơi, ăn nhiều rau xanh,
thể dục, thể thao,…)

3,9

3,7

10,5

32,5

49,4

4,20

1,03

4

Trung bình

3,18

4,11

12,10

36,61

43,60


4.13

0,99

(*Mức độ: (1 = Hồn tồn khơng đúng; 2= Cơ bản không đúng;
3 = Đúng một nửa/một phần; 4 = Cơ bản đúng; 5 = Hoàn toàn đúng/rất đúng).
2.3.3. Kết quả đánh giá thái độ của GV về BĐKH
GV có thái độ như thế nào về ảnh hưởng của BĐKH đối với giáo dục trẻ KT ở Việt Nam?
Kết quả đánh giá phân tích các biểu hiện của thái độ đối với tác động, ảnh hưởng của BĐKH
đến giáo dục trẻ em KT được báo cáo trong Bảng 5 cho thấy tỉ lệ GV có thái độ đúng (quan tâm,
lo ngại…) ở mức 4-5 (đồng ý, rất đồng ý) chiếm 80,65%, các biểu hiện thái độ cụ thể có biên độ
dao động từ 73,4% - 85,1%. GV có nhận thức ở mức 3 (thi thoảng đồng ý) chiếm 12,98%, có
biên độ dao động từ 10% - 17,7%; GV có thái độ chưa đúng ở mức 1-2 (hồn tồn khơng đồng
ý, hiếm khi đồng ý) chiếm tỉ lệ thấp 6,38%, có biên độ dao động từ 4,9% - 8,9%. Như vậy vẫn
còn một bộ phận GV (trên 6%) có thái dộ chưa đúng về cách thức ứng phó với BĐKH. Tuy
nhiên trong tiểu thang đo này có mục 5.5 “Tơi có xu hướng coi thơng tin về BĐKK là khơng
hoặc ít liên quan đến tơi”, được thiết kế “nghịch” (dạng phủ định) so với 4 mục khác để kiểm
117


Nguyễn C. Khanh, Phan T. Long, Nguyễn T.C. Hường, Bùi T. Hợp, Nguyễn T. Thắm và Trần T. Thiệp

tra tính nhất quán/kiên định của người trả lời. Rất ngạc nhiên khi có tới gần 50% GV được khảo
sát đồng ý và rất đồng ý với mục này. Sự mâu thuẫn này nếu khơng do lỗi đọc hiểu, thì sẽ là
điều rất đáng quan ngại.
Bảng 5. Thái độ của GV về ảnh hưởng của BĐKH và ONKK đối với GD trẻ em KT
Mức độ (%)*
M
SD Thứ

Các ý kiến/ các biểu hiện thái độ
bậc
1
2
3
4
5
5.1. Tôi lo ngại rằng trẻ em khuyết
3,7
5,2
17,7 43,4 30,0 3,91 1,01
4
tật (KT) là nhóm yếu thế chịu nhiều
ảnh hưởng tiêu cực của BĐKH.
5.2. Tôi ngày càng quan tâm hơn
2,2
3,7
12,0 45,6 36,4 4,10 0,91
3
đến ảnh hưởng của BĐKH đối với
giáo dục trẻ em KT
5.3. Việc dạy trẻ KT các kĩ năng
2,3
2,6
10,0 39,6 45,5 4,23 0,90
1
ứng phó BĐKH là thực sự cần thiết
và quan trọng
5.7. BĐKH là một thực tế đang xảy
2,9

2,9
12,2 43,4 38,7 4,12 0,93
2
ra ở Việt Nam khiến tơi quan ngại
Trung bình
2,78 3,60 12,98 43,0 37,65 4,09 0,94
5.5. Tơi có xu hướng coi thơng tin
20,1 16,3 13,6 29,0 20,9 3,14 1,44
về BĐKH là khơng hoặc ít liên
quan đến tôi
*Mức độ: 1 = Rất không đồng ý; 2= Không đồng ý; 3 = Đồng ý một nửa/một phần;
4 = Đồng ý; 5 = Rất đồng ý.
2.3.4. Thực trạng nhận thức, thái độ của GV về BĐKH và cách thức ứng phó BĐKH
Từ kết quả xử lí phân tích số liệu khảo sát định lượng, dựa trên điểm số GV tự đánh giá
theo 5 mức độ, Bảng 6 khái quát bức tranh thực trạng nhận thức thái độ của GV về BĐKH
thành 3 nhóm điểm: thấp, trung bình, cao (cách tính điểm để phân loại đã nói đến ở phần trên).
Bảng 6. Phân loại theo điểm số nhận thức của GV về BĐKH và cách thức ứng phó với BĐKH
Nhóm
Nhóm
Lĩnh
Các tiểu thang đo
Điểm
Độ
Nhóm điểm
điểm
điểm
vực
(N = 3221)
TB
lệch

trung bình
thấp
cao
Tiểu thang đo 1 (nhận thức về
≤ 29
30-43
≥ 44
36,28 7,63
BĐKH của GV)
16,1%
65,9%
18,0%
≤ 40
41-59
≥ 60
Nhận Tiểu thang đo 2 (nhận thức về cách
49,60 9,91
14,7%
68,8%
16,5%
thức, thức ứng phó BĐKH của GV)
thái Tiểu thang đo 5a (Thái độ của GV về
≤ 13
14-19
≥ 20
16,37 3,28
độ
BĐKH)
15,5%
62,9%

21,6%
102,2 19,1
≤ 83
84-120
≥ 121
Thang đo (phép đo tổng)
4
1
13,5%
70,1%
16,4%
Kết quả đánh giá thực trạng phân thành 3 nhóm trình bày ở Bảng 6 cho thấy, có khoảng
13,5% GV có điểm trên thang đo đánh giá nhận thức thái độ đối với BĐKH ở mức thấp – tức là
có sự thiếu hụt đáng kể trong nhận thức thái đơ về BĐKH. Trong khi đó, có khoảng 16,4% GV
có điểm đánh nhận thức thái đơ về BĐKH ở mức cao– tức là có sự hiểu biết đầy đủ về BĐKH.
Khoảng 70% số GV được khảo sát có điểm đánh giá nhận thức thái độ về BĐKH ở mức trung
bình – nhóm này thể hiên nhận thức thái độ vẫn chưa thật đầy đủ về BĐKH.

2.4. Kết quả đánh giá của GV về mức độ ảnh hưởng của BĐKH đến từng nhóm trẻ em KT
GV đánh giá như thế nào về mức độ ảnh hưởng xấu của BĐKH đến từng nhóm trẻ em KT
và khơng KT? Kết quả đánh giá phân tích được báo cáo trong Bảng 7 cho thấy tất cả các nhóm
118


Nhận thức của giáo viên về biến đổi khí hậu và cách thức ứng phó: Thực trạng và những yếu tố ảnh hưởng

trẻ em KT và không KT đều chịu ảnh hưởng của BDKH. Tuy nhiên so với nhóm trẻ em KT,
nhóm trẻ em khơng KT chịu ảnh hưởng ít hơn. Mức độ ảnh hưởng của BDKH lên các nhóm trẻ
có nhu cầu đặc biệt là khác nhau. Tỉ lệ trẻ KT chịu ảnh hưởng ở mức 4 và 5 (nhiều, nhiều nhất)
chiếm từ 58,4% đến 70%.

Nhóm trẻ ốm yếu, bệnh mãn tính chịu ảnh hưởng nhiều nhất (xếp thứ 1), sau đó là nhóm
trẻ khuyết tật vận động (xếp thứ 2). Tình trạng sức khỏe của các em dễ chịu những tác động trực
tiếp từ BĐKH. Do BĐKH biểu hiện qua các hiện tượng lũ lụt, mưa bão, thiên tai, sóng nhiệt,
sóng lạnh, nên nhóm trẻ có khiếm khuyết, hạn chế về chức năng nào đó của cơ thể dễ bị tác
động nhất (tác động trực tiếp) vì trẻ khó di chuyển, khó chống đỡ nhất.
Nhóm trẻ tiếp theo chịu nhiều ảnh hưởng từ BĐKH là nhóm trẻ KT về chức năng nhận
thức, cảm xúc, hành vi: khuyết tật trí tuệ, tăng động giảm chú ý, khuyết tật học tập (xếp thứ 4,
5), nhóm tiếp theo là nhóm trẻ rối loạn phổ tự kỉ và khiếm thị (xếp thứ 6, 7), cuối cùng là nhóm
trẻ khiếm thính và khuyết tật ngôn ngữ (xếp thứ 8, 9).
Bảng 7. Mức độ bị ảnh hưởng ở các nhóm trẻ do tác động xấu của BĐKH
Mức độ (%)
Thứ
M
SD
bậc
2
3
4
5
1
9.1. Không khuyết tật
6,4 17,1 27,3 31,4 17,9 3,37 1,15
10
9.2. Khiếm thính
3,6 10,9 27,1 35,3 23,1 3,63 1,06
8
9.3. Khiếm thị
3,9 10,2 25,0 36,0 25,0 3,68 1,07
7
9.4. Khuyết tật trí tuệ

3,7
8,8 24,4 35,3 27,8 3,75 1,07
4
9.5. Khuyết tật ngôn ngữ
4,1 11,6 26,0 35,9 22,4 3,61 1,08
9
9.6. Rối loạn phổ tự kỉ
4,0
9,4 24,2 35,8 26,6 3,72 1,08
6
9.7. Tăng động giảm chú ý
3,7
8,8 23,8 35,9 27,7 3,75 1,07
4
9.8. Khuyết tật học tập (khó khăn về học)
3,6
8,9 24,1 37,0 26,4 3,74 1,06
5
9.8. Trẻ ốm yếu, bệnh mãn tính
2,8
6,2 21,0 37,5 32,5 3,91 1,01
1
9.10. Khuyết tật vận động
3,5
8,4 23,4 36,5 28,0 3,77 1,06
2
*Mức độ: từ 1 = ít chịu ảnh hưởng nhất… đến 5 = chịu nhiều ảnh hưởng nhất.
Các nhóm trẻ

2.5. Một sô yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức của GV về BĐKH

Để tìm hiểu xem liệu có những yếu tố ảnh hưởng nào, có thể tạo ra sự khác biệt về điểm số
trung bình trên thang đo nhận thức thái độ của GV về BĐKH tại Việt Nam, nghiên cứu này sử
dụng kiểm định ANOVA và T-test. Các yếu tố ảnh hưởng được xác định trong nghiên cứu này,
gồm: nhóm tuổi, nhiệm vụ chun mơn giảng dạy, khu vực cơng tác của GV, tập huấn và giới
tính như các phân tích dưới đây.
2.5.1. Yếu tố nhóm tuổi
Để tìm hiểu liệu có sự khác biệt về điểm số nhận thức thái độ của GV đối với BĐKH theo
nhóm tuổi, kiểm đinh ANOVA được áp dụng để so sánh điểm trung bình trên phép đo tổng. Kết
quả được thể hiện trong Bảng 8 dưới đây.
Kết quả tại Bảng 8 cho thấy, có sự khác biệt đáng kể về điểm số trung bình của ít nhất một
nhóm so với 4 nhóm cịn lại (P < .05). Nhóm 5 gồm những GV có tuổi đời trẻ nhất (24-30 tuổi)
có điểm trung bình thấp nhất, khác biệt đáng kể với các nhóm khác trong mẫu khảo sát. Điểu
này ủng hộ giả thiết rằng nhóm tuổi có thể là một yếu tố ảnh hưởng đáng kể đến điểm số nhận
thức thái độ của GV đối với BĐKH. Yếu tố nhóm tuổi ẩn chứa trong nó yếu tố thâm niên hay
kinh nghiệm nghề nghiệp. Nhóm 1 gồm những GV có tuổi đời cao nhất (51-60 tuổi) cũng là
nhóm có thâm niên và kinh nghiệm giảng dạy nhiệu nhất là nhóm có điểm trung bình cao nhất.
Điều Điều này phù hợp với thực tế giảng dạy trẻ KT.
119


Nguyễn C. Khanh, Phan T. Long, Nguyễn T.C. Hường, Bùi T. Hợp, Nguyễn T. Thắm và Trần T. Thiệp

Bảng 8. So sánh sự khác biệt điểm trung bình về nhận thức thái độ của GV
về BĐKH theo nhóm tuổi
Nhận thức thái độ của GV về BĐKH
Mẫu
Nhóm tuổi
(N)
Điểm trung bình Độ lệch chuẩn Mức độ khác biệt (Sig)
Nhóm 1 (51-60)

211
104,45
17,54
Nhóm 2 (41-50)
847
103,70
16,97
Nhóm 3 (36-40)
694
103,27
18,88
.000
Nhóm 4 (31-35)
778
101,52
19,59
Nhóm 5 (24-30)
691
99,55
21,31
Tổng
3221
102,24
19,11
2.5.2 Yếu tố chuyên mơn giảng dạy
Để tìm hiểu liệu có sự khác biệt về điểm số nhận thức thái độ của GV đối với BĐKH theo
chuyên môn giảng dạy, kiểm định ANOVA được áp dụng để so sánh điểm trung bình của thang
đo tổng. Kết quả được thể hiện trong Bảng 9 dưới đây.
Bảng 9. So sánh sự khác biệt điểm trung bình về nhận thức thái độ của GV về BĐKH
theo chuyên môn giảng dạy

Nhận thức thái độ của GV về BĐKH

Ảnh hưởng của yếu tố
chun mơn

Mẫu
(N)

Điểm trung bình

Độ lệch chuẩn

GV dạy hòa nhập

1655

102,20

18,81

GV dạy hội nhập

1056

101,48

20,46

GV dạy chuyên biệt


510

103,95

17,01

3221

102,24

19,11

Tổng

Mức độ khác biệt (Sig)
.056

Kết quả kiểm định ANOVA tại Bảng 9 cho thấy, khơng có sự khác biệt có ý nghĩa về điểm
số trung bình của một nhóm so với hai nhóm khác do p > .05 (P = .056). Tuy nhiên khi so sánh
phân tích theo từng cặp thì điểm số trung bình của nhóm GV dạy chun biệt cao hơn đáng kể
so với điểm số trung bình của nhóm GV dạy hội nhập (P = .017). Điều này phù hợp với thực tế
do nhóm GV dạy lớp chuyên biệt có nhiều kinh nghiệm làm việc với các trẻ KT, hiểu rõ hơn
tính dễ bị thương tổn của trẻ em KT do tác động của BĐKH.
2.5.2 Yếu tố khu vực/địa bàn cơng tác
Để tìm hiểu liệu có sự khác biệt về điểm số nhận thức thái độ của GV đối với BĐKH theo
khu vực/địa bàn công tác, kiểm định ANOVA được áp dụng để so sánh điểm trung bình của
thang đo tổng. Kết quả được thể hiện trong Bảng 10 dưới đây.
Bảng 10. So sánh sự khác biệt điểm trung bình về nhận thức thái độ của GV
về BĐKH theo địa bàn công tác
Nhận thức thái độ của GV về BĐKH

Ảnh hưởng của yếu tố
Mẫu
Mức độ khác biệt
khu vực/địa bàn công tác
(N)
Điểm trung bình Độ lệch chuẩn
(Sig)
1. Lào Cai
1494
99,21
21,43
2. Kon Tum
789
104,42
15,98
.000
3. An Giang
848
105,30
16,75
Tổng
3131
102,17
19,17
120


Nhận thức của giáo viên về biến đổi khí hậu và cách thức ứng phó: Thực trạng và những yếu tố ảnh hưởng

Kết quả kiểm định ANOVA tại Bảng 10 cho thấy, có sự khác biệt có ý nghĩa về điểm số

trung bình của một nhóm so với hai nhóm cịn lại do p < .05 (P = .000). Nhóm GV của Lào Cai có
điểm trung bình thấp hơn đáng kể so với điểm số trung bình của 2 nhóm GV cịn lại. Nhóm GV
của An Giang có điểm trung bình cao nhất. Điều này dường như cũng phù hợp với thực tế do địa
bàn của tỉnh An Giang trong thời gian 5 năm gần đây chịu nhiều tổn thất do tác động của BĐKH.
2.4.3 Yếu tố tập huấn
Để đánh giá sự khác biệt về nhận thức thái độ của GV về BĐKH theo tình trạng chưa được
tập huấn và đã từng được tập huấn giữa hai nhóm GV, chúng tôi sử dụng kiểm định T-Test để
so sánh điểm trung bình trên thang đo (tổng) về BĐKH của 2 nhóm GV này. Kết quả được thể
hiện trong Bảng 11 dưới đây.
Bảng 11. So sánh sự khác biệt điểm trung bình nhận thức thái độ của GV về BĐKH
theo tình trạng chưa tập huấn/ đã được tập huấn
Nhận thức, thái độ của GV về BĐKH
Ảnh hưởng của yếu tố
Mẫu
Mức độ khác biệt
giới tính
(N)
Điểm trung bình Độ lệch chuẩn
(Sig)
GV chưa được tập huấn
2148
101.27
19.45
.000
GV đã được tập huấn
1073
104.19
18.26
Tổng
3221

102,24
19,11
2.4.3 Yếu tố giới tính
Để đánh giá sự khác biệt về nhận thức thái độ của GV về BĐKH theo theo giới tính giữa
hai nhóm GV nam và GV nữ, chúng tôi sử dụng kiểm định T-Test để so sánh điểm trung bình
trên thang đo nhận thức thái độ (tổng) về BĐKH của 2 nhóm GV này. Kết quả được thể hiện
trong Bảng 12 dưới đây.
Bảng 12. So sánh sự khác biệt điểm trung bình nhận thức của GV về BĐKH theo giới tính
Nhận thức, thái độ của GV về BĐKH
Ảnh hưởng của yếu tố
Mẫu
Mức độ khác biệt
giới tính
(N)
Điểm trung bình Độ lệch chuẩn
(Sig)

GV (nữ)
Tổng

654

103,40

18,36

2562
3216

101,94

102,23

19,30
19,12

.081

Kết quả phân tích T-Test ở Bảng 12 cho thấy, khơng có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về
điểm trung bình trên thang đo nhận thức về BĐKH giữa hai nhóm GV nam và nữ (P = .081).
Như vậy, dường như yếu tố giới tính chưa có ảnh hưởng đáng kể đến nhận thức của GV về
BĐKH trong nghiên cứu này.

3. Kết luận
Kết quả khảo sát thực trạng nhận thức thái độ của GV về BĐKH cho thấy, đa số GV tự
đánh giá có nhận thức đúng ở mức 4-5 (cơ bản đúng, hồn tồn đúng) và có thái độ phù hợp
(quan tâm, lo ngại…) ở mức 4-5 (đồng ý, rất đồng ý). Tuy nhiên khi tổng hợp khái quát hóa bức
tranh thực trạng nhận thức thái độ của GV về BĐKH thành 3 nhóm điểm: thấp, trung bình, cao
thì đa số GV được khảo sát có điểm tự đánh giá nhận thức thái độ về BĐKH chỉ ở mức trung
bình – tức là thể hiện nhận thức thái độ vẫn chưa thật đầy đủ về BĐKH. Đặc biệt vẫn cịn một
bộ đáng kể GV (gần 14%) có điểm trên thang đo đánh giá nhận thức thái độ đối với BĐKH ở
121


Nguyễn C. Khanh, Phan T. Long, Nguyễn T.C. Hường, Bùi T. Hợp, Nguyễn T. Thắm và Trần T. Thiệp

mức thấp – tức là có nhiều biểu hiện trong nhận thức không đúng, thái độ không phù hợp về
BĐKH. Đây là những điểm yếu, đòi hỏi các cơ sở giáo dục, các cơ quan quản lí giáo dục đặc
biệt lưu ý, tìm cách khắc phục. Chỉ có gần 17% GV có điểm đánh nhận thức thái đô về BĐKH ở
mức cao– tức là có sự hiểu biết đầy đủ, thái độ thích hợp về BĐKH.
BDKH ảnh hưởng xấu đến tất cả các nhóm trẻ em KT và khơng KT nhưng ở mức độ khác

nhau. Đa số trẻ em KT chịu ảnh hưởng xấu ở mức cao nhất (mức 4 và 5). Nhóm trẻ ốm yếu,
bệnh mãn tính và nhóm trẻ khuyết tật vận động chịu ảnh hưởng nhiều nhất (xếp thứ 1, 2), trong
khi nhóm trẻ khiếm thính và khuyết tật ngôn ngữ (xếp thứ 8, 9). Kết quả nghiên cứu cho thấy
các nhóm yếu tố có ảnh hưởng đáng kể (có sự khác biệt đáng kể về điểm số trung bình) đến
nhận thức thái độ của GV về BĐKH gồm: nhóm tuổi, địa bàn cơng tác, được tập huấn, trong khi
yếu tố giới tính của GV lại khơng có ảnh hưởng đáng kể. Trong nghiên cứu này yếu tố nhiệm vụ
chuyên môn giảng dạy ảnh hưởng chưa rõ ràng cần có những nghiên cứu thêm, phân tích sâu hơn.
Tóm lại nghiên cứu khảo sát này cung cấp những thông tin đáng tin cậy, rất hữu ích, có giá
trị khoa học để các cơ sở giáo dục, các cơ quan quản lí giáo dục, các tổ chức quốc tế về giáo dục
có những dữ liệu q, hiếm cập nhật với mẫu khảo sát lớn, cơng cụ khảo sát đáp ứng tính chuẩn,
có thể sử dụng cho việc lập kế hoạch phát triển các chương trình hỗ trợ giáo dục, nâng cao nhận
thức, thái độ của GV về BĐKH và ứng phó với BĐKH cho GV trong tương lai.
Kết quả nghiên cứu này có một số hạn chế như mẫu khảo sát GV trả lời offline nhỏ do
đúng thời điểm tổ chức đi khảo sát thực tế tại các tỉnh/thành phố Hà Nội, Hồ Chí Minh, Quảng
Bình lại đang ở cao điểm giãn cách xã hội do dịch Covis-19 lây lan mạnh, nên phải dừng lại.
Một số lượng đáng kể GV khi trả lời online có xu hướng tự đánh giá một số biểu hiện nhận
thức, thái độ ở mức cao nhất. Tỉ lệ GV tự đánh giá tất cả 25 mục (item) của thang đo ở mức 5
chiếm 6,3%. Điều này có thể dẫn đến làm gia tăng độ tin cậy trong của các tiểu thang đo/thang
đo hơn thực tế. Các kĩ thuật xử lí, phân tích dữ liệu (data) sâu hơn cần được tiếp tục áp dụng
như có thể tạm thời loại bỏ những trường hợp trả lời cực đoan. Cần khảo sát thêm một số lượng
mẫu đáng kể offline để có sự so sánh để gia tăng giá trị khoa học của các dữ liệu nghiên cứu.
*Ghi chú: Bài viết này là một phần kết quả nghiên cứu khảo sát Thực trạng và sáng kiến
giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu – ơ nhiễm khơng khí tới trẻ em khuyết tật và giáo dục
do Khoa Giáo dục Đặc biệt, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội thực hiện trong sự phối hợp với
Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc tại Việt Nam (UNICEF Việt Nam).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Trang web chuyên trang: Trẻ em và biến đổi khí hậu của UNICEF:
truy cập ngày 25/6/2021.
[2] UNESCO & UNEP, 2011. Youth Xchange – Sách hướng dẫn về Phong cách sống và Biến
đổi khí hậu. ISBN: 978-92-807-3363-1. (Bản dịch của Trung tâm Phát triển sáng kiến

Cộng đồng và Môi trường C&E)
[3] Tổng cục Mơi trường, 2019. Ơ nhiễm bụi PM tại một số thành phố ở Việt Nam – Biến động
theo không gian, thời gian của PM10 và PM2.5. (Trang web: truy cập ngày 25/6/2021).
[4] Nguyễn Công Khanh, 2020. Biến đổi khí hậu tồn cầu với sức khỏe trẻ em, Hội nhi khoa
Việt Nam. Trang web: truy cập ngày 21/6/2021.
[5] United Nations General Assembly, 2015. The 2030 Agenda – The Sustainable
Development Goals (Available at: />122


Nhận thức của giáo viên về biến đổi khí hậu và cách thức ứng phó: Thực trạng và những yếu tố ảnh hưởng

[6] Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trung tâm Sống và Học tập vì Mơi trường và Cộng đồng
(Live&Learn), Tổ chức Plan tại Việt Nam, Cơ quan Phát triển Quốc tế Australia
(AusAID), 2012. Tài liệu hướng dẫn dạy và học về ứng phó với biến đổi khí hậu.
[7] UNICEF, 2019. It is getting hot – Call for education systems to respond to the climate
crisis - Perspectives from East Asia and the Pacific. UNICEF East Asia and Pacific
Regional Office.
[8] Nguyễn Công Khanh và Đỗ Thị Hướng, 2019. Năng lực lựa chọn và xây dựng công cụ
đánh giá: thực trạng và những vấn đề của GV tiểu học. Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm
Hà Nội, 2019, Vol. 64, Iss. 1.
ABSTRACT
Teachers’ awareness of climate change and how to respond:
current status and influencing factors

Nguyen Cong Khanh, Phan Thanh Long, Nguyen Thi Cam Hưong,
Bui The Hop, Nguyen Thi Tham và Tran Thi Thiep
Faculty of Special Education, Hanoi National University of Education
In this article, the authors present the results of a survey on perceptions of inclusive,
integrated and specialized teachers (N = 3221) about climate change and how to respond to
climate change, at educational institutions of 6 provinces/cities of Vietnam. The survey results

showed that the majority of teachers surveyed had the correct awareness of climate change and
how to respond to climate change. However, there is still a significant portion of
misconceptions. This study generalizes the current status picture of teachers' perceptions of
climate change, and at the same time points out a number of factors that affect teachers'
perceptions. The results of this survey provide reliable information, which is very useful for
policy development, supporting the development of educational programs and training on
climate change for teachers in the future. The study also mentions some limitations and
directions for further research.
Keywords: Awareness of climate change, how to respond to climate change, inclusive,
integration and specialization teachers.

123



×