Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Giáo dục biến đổi khí hậu cho trẻ khuyết tật hướng tới phát triển bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (429.85 KB, 11 trang )

HNUE JOURNAL OF SCIENCE
Educational Sciences, 2021, Volume 66, Issue 4AB, pp. 180-190
This paper is available online at

DOI: 10.18173/2354-1075.2021-0072

GIÁO DỤC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU CHO TRẺ KHUYẾT TẬT
HƯỚNG TỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

Hoàng Thị Nga
Khoa Giáo dục Đặc biệt, Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh
Tóm tắt. Bài báo trình bày mối quan hệ tác động qua lại giữa biến đổi khí hậu và phát triển
bền vững, qua đó chỉ rõ tầm quan trọng của giáo dục biến đổi khí hậu cho trẻ em bao gồm
trẻ khuyết tật đối với sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia nói riêng và tồn cầu. Đồng
thời, thơng qua việc nghiên cứu định hướng giáo dục biến đổi khí hậu cho trẻ em nói chung
và đặc điểm, khả năng, nhu cầu đặc biệt của trẻ khuyết tật, bài báo đề xuất những định
hướng điều chỉnh cơ bản trong giáo dục biến đổi khí hậu cho trẻ khuyết tật.
Từ khóa: Biến đổi khí hậu, phát triển bền vững, giáo dục biến đổi khí hậu, trẻ khuyết tật.

1. Mở đầu
Thuật ngữ phát triển bền vững được sử dụng lần đầu tiên vào thập niên 80 của thế kỉ XX
trong chiến lược bảo tồn thế giới do Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên
Quốc tế, Quỹ Động vật Hoang dã Thế giới và Chương trình Mơi trường Liên Hiệp quốc đề xuất
với hỗ trợ của Tổ chức Văn hóa Giáo dục và Nhi đồng Liên Hiệp quốc và Tổ chức Lương thực
Thế giới (Food and Argriculture Organization – FAO) [1]. Từ đó đến nay, nhiều nghiên cứu về
phát triển bền vững đã được thực hiện nhằm làm rõ nhiều vấn đề liên quan đến phát triển bền
vững, trong đó, biến đổi khí hậu được cho là vấn đề chính, có mối liên hệ tồn diện, bao trùm
đến phát triển bền vững [2, 3, 4, 5, 6, 7, 8]. Tất cả các nghiên cứu đều nhấn mạnh quan hệ qua
lại giữa biến đổi khí hậu và phát triển bền vững, từ đó kêu gọi tất cả các nước trên thế giới đặt
tầm quan trọng của hai vấn đề này ngang bằng nhau và cảnh báo trước những hậu quả của việc
mất cân bằng hoặc thiếu coi trọng biến đổi khí hậu trong quá trình phát triển. Các nhà khoa học


cũng cho rằng, để vấn đề biến đổi khí hậu khơng bị tuột ra khỏi sự chú ý cần thiết, mỗi quốc gia
cần lồng ghép các biện pháp giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu vào các chiến lược
quốc gia về phát triển bền vững.
Trên nền tảng hiểu biết sâu sắc về mối quan hệ giữa biến đổi khí hậu và phát triển bền
vững, các nhà khoa học cũng đã chỉ ra tầm quan trọng của giáo dục biến đổi khí hậu và khẳng
định: “Giáo dục cũng quan trọng giống như sức khỏe, dân số có được giáo dục tốt mới được
trang bị tốt hơn để nhận thấy rõ những mối đe dọa tạo ra bởi biến đổi khí hậu và có những chuẩn
bị cần thiết [9]. Trẻ em được cho là nhóm dân số chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ biến đổi khí hậu,
do đó, giáo dục biến đổi khí hậu cần phải là một phần của giáo dục chính khóa trong nhà trường
nhằm chuẩn bị cho các thế hệ tương lai tinh thần trách nhiệm của một người cơng dân trong xã
hội tồn cầu, có năng lực ứng phó với biến đối khí hậu và một lối sống bền vững [10, 11].
Tại Việt Nam, giáo dục thích ứng với biến đổi khí hậu cũng được quan tâm từ lâu. Gần đây
nhất, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra quyết định số 329/QĐ-BGDĐT phê duyệt Đề án “Thông tin,
Ngày nhận bài: 22/7/2021. Ngày sửa bài: 20/8/2021. Ngày nhận đăng: 2/9/2021.
Tác giả liên hệ: Hoàng Thị Nga. Địa chỉ e-mail:

180


Giáo dục biến đổi khí hậu cho trẻ khuyết tật hướng tới phát triển bền vững

tuyên truyền về ứng phó với biến đổi khí hậu và phịng, chống thiên tai trong trường học giai
đoạn 2013 - 2020” nhằm nâng cao ý thức và hình thành kĩ năng ứng phó với biến đổi khí hậu
của các lực lượng tham gia giáo dục ở nhà trường, bao gồm cả người học [12]. Tuy nhiên, nhiều
nhà khoa học cho rằng, muốn hình thành lối sống bền vững và năng lực ứng phó với biến đổi
khí hậu cho các thế hệ người dân tại Việt Nam, quốc gia đứng thứ năm trên thế giới hứng chịu rủi
ro bởi biến đổi khí hậu [13] cần phải thường xuyên giáo dục biến đổi khí hậu cho học sinh và xem
nội dung này như một nội dung bắt buộc của chương trình giáo dục ở mọi cấp học, bậc học [14].
Trẻ khuyết tật là đối tượng dễ bị tổn thương nhất trong các đối tượng dễ bị tổn thương bởi
biến đổi khí hậu nên cũng nhận được rất nhiều sự chú ý từ các nhà khoa học. Nhiều nghiên cứu

chỉ ra rằng, người khuyết tật cần được tham gia vào quá trình ra quyết định liên quan tới các
chương trình ứng phó với biến đổi khí hậu và dẫn chứng sự thành cơng theo mơ hình này ở
nhiều nước như Banglades, Philiipine, Vietnam, Myanmar [15]. Hơn nữa, người khuyết tật
chiếm tỉ trọng đáng kể trong những cộng đồng nghèo nhất ở cả những nước có thu thập cao và
thấp, trong đó tới 80% sống ở những nước nghèo, thường chịu nhiều thảm họa hoặc phải chống
chụi với nhiều rủi ro [16]. Tình trạng dễ bị tổn thương bởi biến đổi khí hậu của người khuyết tật
trên tồn cầu, nhất là những nước phát triển có thể cản trở các mục tiêu phát triển bền vững của
mỗi quốc gia. Giáo dục biến đổi khí hậu được cho là nền tảng quan trọng để nâng cao khả năng
ứng phó của người khuyết tật lại ít được nhắc đến trong các nghiên cứu khoa học. Do đó, việc
khởi xướng, bàn luận và tiến hành nghiên cứu về vấn đề này là vô cùng cần thiết cả trên thế giới
và Việt Nam.

2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Khái niệm
2.1.1. Biến đổi khí hậu
Theo Riedy (2016), “biến đổi khí hậu” là sự thay đổi về khí hậu trung bình hoặc sự biến
đổi khí hậu xảy ra trong một thời gian dài. Sự thay đổi của khí hậu thể hiện trong sự thay đổi
của quỹ đạo trái đất, năng lượng tỏa ra của mặt trời, hoạt động của núi lửa, sự phân rải địa lí của
những mảng khối trên trái đất và những quá trình tự nhiên bên trong hoặc bên ngồi khác có thể
ảnh hưởng tới khí hậu. Cũng theo Riedy (2016), nguyên nhân của biến đổi khí hậu được cho là
do những thay đổi của tự nhiên hoặc hoạt động của con người [17].
Hội đồng quốc tế về Biến đổi Khí hậu (International Panel of Climate Change, IPCC,
2018) cho rằng biến đổi khí hậu liên quan đến sự thay đổi trạng thái khí hậu có thể được xác
định (ví dụ, bằng cách sử dụng các thử nghiệm thống kê) bằng những thay đổi về giá trị trung
bình và/ hoặc sự biến đổi của các đặc tính của nó và tồn tại trong một thời gian dài, thường là
nhiều thập kỉ hoặc lâu hơn. Biến đổi khí hậu có thể là do các quá trình tự nhiên bên trong hoặc
do tác động bên ngồi như điều chỉnh chu kì mặt trời, phun trào núi lửa và những cải tạo liên tục
của con người trong thành phần của khí quyển hoặc việc sử dụng đất [18].
Mặc dù cho đến nay, các nhà khoa học vẫn đang đi tìm cách định nghĩa chính xác nhất về
biến đổi khí hậu nhưng nhìn chung họ cơ bản thống nhất cách hiểu về biến đổi khí hậu và

nguyên nhân của biến đổi khí hậu. Có thể tóm lược cách hiểu này bàng cách diễn đạt như sau:
Biến đổi khí hậu là sự thay đổi trạng thái bình thường hoặc các đặc tính cơ bản của khí hậu liên
tục trong một thời gian dài. Nguyên nhân của sự biến đổi này được cho là do các quá trình biến
đổi tự nhiên từ bên trong hoặc các yếu tố bên ngoài bao gồm cả hoạt động của con người.
2.1.2. Phát triển bền vững
Thuật ngữ “phát triển bền vững” lần đầu tiên được nguyên Ủy Ban Môi trường và Phát
triển Thế giới (World Commission on Environment and Development) sau này là Brundland
định nghĩa một cách tương đối đầy đủ là “Sự phát triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà
181


Hồng Thị Nga

khơng làm tổn thương khả năng của các thế hệ tương lai trong việc thỏa mãn các nhu cầu của
chính họ”. Sau nhiều lần sửa đổi, cập nhật, định nghĩa “phát triển bền vững” được bổ sung, hoàn
thiện tại Hội nghị Thượng Đỉnh Trái Đất năm 2002 là “Q trình phát triển có sự kết hợp chặt
chẽ, hợp lí và hài hịa giữa ba mặt của sự phát triển. Đó là: phát triển kinh tế, cơng bằng xã hội
và bảo vệ môi trường” [19].
Định nghĩa này nêu rõ và nhấn mạnh: muốn có có sự phát triển bền vững, cần phải đề cao sự
kết hợp hài hòa, chặt chẽ của 03 trụ cột chính gồm kinh tế, xã hội và mơi trường trong q trình
quyết định mọi vấn đề liên quan đến sự phát triển của mỗi quốc gia cũng như trên tồn cầu.
Như vậy, có thể hiểu, phát triển bền vững là q trình phát triển ln được đặt trên nền
tảng của sự phát triển tổng thể các trụ cột kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường. Các quốc gia
hướng tới phát triển bền vững cần đặt ra và đạt được các chỉ tiêu bền vững về phát triển kinh tế,
đảm bảo công bằng xã hội và bảo vệ môi trường cùng một lúc.

2.2. Mối quan hệ giữa biến đổi khí hậu và phát triển bền vững

Căng thẳng biến
đổi khí hậu


Phản hồi

Năng lực
thích ứng

Các hệ thống tự
nhiên và con
người

Phản hồi

KT XH MT

Khơng căng
thẳng khí
hậu

Cưỡng bức
bức xạ

Phản hồi

Hệ
thống
khí hậu

Thích ứng

Biến đổi khí hậu có những tác động lan tỏa trong nhiều vấn đề khác nhau cần được giải

quyết liên quan tới phát triển bền vững. Cụ thể, biến đổi khí hậu sẽ ảnh hưởng đến việc đạt được
các mục tiêu phát triển bền vững liên quan đến thể chất và vật chất chẳng hạn như sự thịnh
vượng và phúc lợi, xóa đói giảm nghèo, việc làm, thức ăn, năng lượng, nguồn nước và sức khỏe.
Biến đổi khí hậu cũng cản trở những nỗ lực đạt được cơng bằng và bình đẳng trên tồn thế giới
vì nó làm tổn thương người nghèo nhiều nhất ở mỗi nước và giữa các nước, làm gia tăng sự bất
bình đẳng và cản trở xóa đói giảm nghèo. Các áp lực về tài nguyên do khí hậu gây ra bao gồm
cả nước, cây nông nghiệp hoặc các nguồn tài nguyên sinh vật khác - có thể làm trầm trọng thêm
sự cạnh tranh và xung đột, đe dọa hịa bình và hịa nhập của các xã hội, và phá hoại công bằng
xã hội. Các tác động và thảm họa liên quan đến biến đổi khí hậu cũng là những động lực chính
dẫn đến sự di dời của con người và khối lượng những cuộc di cư. Các thảm họa liên quan đến
khí hậu có thể làm tăng tính dễ bị tổn thương của phụ nữ và trẻ em gái trước bạo lực, ví dụ nếu
chúng gây ra sự thay đổi trong các mối quan hệ quyền lực gia đình, hoặc dẫn đến việc phụ nữ và
trẻ em gái bị tổn thương nhà ở. Khả năng tiếp cận khơng bình đẳng của phụ nữ đối với các
nguồn lực kinh tế cũng có thể làm tăng tính dễ bị tổn thương của họ trước tác động của khí hậu.
Trong đó người khuyết tật bất kể hồn cảnh nào ln là đối tượng dễ bị tổn thương nhất [20].
Biến đổi khí hậu
Phát triển bền vững

Phản hồi

Phản hồi

Hành động con người
gây khí thải nhà kinh

Giảm thiểu

Khí thải nhà
kính và các
viễn tưởng

quan ngại

Năng lực
giảm thiểu

Các con
đường phát
triển kinh tế
xã hội khác
nhau

Sơ đồ 1. Mối liên kết giữa biến đổi khí hậu và phát triển bền vững
182


Giáo dục biến đổi khí hậu cho trẻ khuyết tật hướng tới phát triển bền vững

Ngược lại, hiểu biến đổi khí hậu có thể ảnh hưởng tới hầu hết các khía cạnh của phát triển
bền vững sẽ tạo nhu cầu tất yếu trong việc tìm kiếm các phương cách hành động nhằm củng cố
hoặc ngăn cản tất cả những mục tiêu phát triển bền vững khác và ngược lại. Do đó hiểu biết đúng
đắn về vấn đề này là vơ cùng quan trọng nhằm nâng cao ý thức và hỗ trợ chính sách cho các hành
động về khí hậu và cho việc lập kế hoạch các chương trình thích ứng nhằm giảm thiểu ảnh hưởng
của biến đổi khí hậu và tối ưu hóa sự tiến triển của tất cả các mục tiêu phát triển bền vững [20]. Sơ
đồ 1 trên đây chỉ rõ mối quan hệ tương hỗ giữa biến đổi khí hậu và phát triển bền vững [5].
Qua sơ đồ này Munasinghe (2002) chỉ ra rằng, biến đổi khí hậu và phát triển bền vững
tương tác theo một chu trình động. Khả năng thích ứng làm giảm ảnh hưởng của căng thẳng khí
hậu lên con người và hệ thống tự nhiên trong khi khả năng giảm thiểu hạ thấp khí thải nhà kính
tiềm năng. Các con đường phát triển ảnh hưởng mạnh mẽ tới cả năng lực thích ứng và giảm
thiểu biến đổi khí hậu ở bất cứ nơi đâu. Bằng con đường này, các chiến lược thích ứng và giảm
thiểu được kết nối năng động với sự thay đổi trong hệ thống khí hậu và triển vọng cho sự thích

ứng của hệ sinh thái, sản xuất lương thực và sự phát triển kinh tế lâu dài. Do đó, ảnh hưởng của
biến đổi khí hậu là một phần trong câu hỏi lớn hơn, đó là bằng cách nào các hệ thống phụ môi
trường, kinh tế, xã hội phức tạp tương tác và định hình các triển vọng phát triển bền vững và
câu trả lời chính là sự đa liên kết. Phát triển kinh tế tác động vào sự cân bằng của hệ sinh thái và
ngược lại cũng chịu ảnh hưởng bởi trạng thái của hệ sinh thái. Sự nghèo đói vừa là kết quả vừa
là nguyên nhân của sự thối hóa mơi trường. Lối sống thiên về vật chất và năng lượng và mức
độ tiêu thụ cao không ngừng mà không tạo ra các nguồn tài nguyên mới cộng với sự gia tăng
dân số hầu như khơng thích hợp với các con đường phát triển bền vững. Tương tự, bất bình
đẳng kinh tế xã hội cực đoan trong các cộng đồng và giữa các quốc gia có thể làm suy yếu sự
gắn kết xã hội, yếu tố thúc đẩy sự bền vững và hiệu lực của các phản ứng chính sách. Đồng thời,
các quyết định chính sách kinh tế - xã hội và công nghệ được đưa ra cho những vấn đề khơng
liên quan đến khí hậu có ảnh hưởng quan trọng đối với chính sách khí hậu và tác động của biến
đổi khí hậu cũng như các vấn đề mơi trường. Thêm vào đó, các ngưỡng ảnh hưởng quan trọng
và mức độ dễ bị tổn thương trước các tác động của biến đổi khí hậu cũng có liên quan trực tiếp
đến các điều kiện kinh tế, xã hội và mơi trường cũng như năng lực thể chế [5].
Tóm lại, biến đổi khí hậu và phát triển bền vững có mối liên kết chặt chẽ và tác động lẫn
nhau. Thích ứng và giảm thiếu biến đổi khí hậu giúp duy trì trạng thái cân bằng của hệ sinh thái,
tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế, xây dựng công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.
Năng lực thích ứng và giảm thiểu biến đổi khí hậu kém gây ảnh hưởng tới triển vọng phát triển
kinh tế, bất ổn xã hội và hủy hoại môi trường. Ngược lại, các trụ cột kinh tế, xã hội, môi trường
bền vững tạo nền tảng tốt để duy trì trạng thái cân bằng của hệ sinh thái, giảm thiểu biến đổi khí
hậu và quay trở lại tác động tích cực tới sự phát triển bền vững.

2.3. Giáo dục biến đổi khí hậu cho trẻ em hướng tới phát triển bền vững
2.3.1. Tầm quan trọng của giáo dục biến đổi khí hậu cho trẻ em
Trẻ em là đối tượng dễ bị tổn thương nhất bởi biến đổi khí hậu [21]. Theo ước tính của Tổ
chức y tế Thế giới, một phần ba bệnh bùng phát ở trẻ em toàn cầu là do biến đổi các yếu tố về
khơng khí, nước, đất và thực phẩm; 34% trẻ em bị bệnh và 36% trẻ em dưới 14 tuổi bị chết trên
thế giới là do biến đổi các yếu tố môi trường [22]. Môi trường bị biến đổi do khí nhà kính làm ơ
nhiễm khơng khí, làm tiến triển các bệnh hơ hấp, hen, cháy nắng, u hắc sắc tố và suy giảm miễn

dịch. Thay đổi thời tiết, nhiệt độ tăng, nhiều thảm hoạ thiên nhiên, trực tiếp gây ra cảm nhiệt,
đuối nước, bệnh tiêu hố, sang chấn tâm thần. Thay đổi sinh thái có thể làm tăng tỉ lệ suy dinh
dưỡng, chậm tăng trưởng và phát triển, dị ứng, ung thư, dị tật, tăng các bệnh qua trung gian
truyền bệnh (sốt rét, dengue, viêm não, bệnh Lyme) và phát sinh bệnh nhiễm khuẩn mới (bệnh
West Nile, hantavirus) [22]. Thêm vào đó, những trải nghiệm trực tiếp của trẻ với biến đổi khí
hậu có thể gây ra trạng thái lo lắng, ảnh hưởng tiêu cực tới sức khỏe tâm thần, gây cản trở cho
183


Hồng Thị Nga

q trình học tập [23]. Theo đó, ứng phó với biến đổi khí hậu cần các giải pháp liên ngành,
trong đó giáo dục là con đường hồn hảo nhất. Giáo dục đặc biệt là giáo dục nhà trường giúp cá
nhân và cộng đồng xã hội đạt tới tiềm năng tối đa của mình bao gồm cả việc cải thiện năng lực
giải quyết các vấn đề về môi trường và phát triển [10]. Nhà trường khơng chỉ có sức mạnh giúp
trẻ ngày càng có hiểu biết hơn về biến đổi khí hậu mà cịn hỗ trợ trẻ nâng cao ý thức của họ về
biến đổi khí hậu, tham gia vào hệ thống chính trị liên quan đến biến đổi khí hậu và phát triển
những hành vi đáp ứng phù hợp. Cũng chính nhà trường là nơi phù hợp để giúp trẻ tham gia vào
các sáng kiến ứng phó biến đổi khí hậu, qua đó, trẻ thấy rõ trách nhiệm của mình và hình thành
hành động, thái độ đúng với biến đổi khí hậu [23, 24]. Nghiên cứu đã chỉ sự tồn tại của những
hiểu biết sai lầm về mối quan hệ giữa biến đổi khí hậu và sự bùng phát dịch bệnh và điều này có
thể dẫn đến những hành vi ứng phó sai lầm, làm gia tăng sự lây lan của dịch bệnh [6]. Do đó, cổ
vũ cho sự chia sẻ hiểu biết về bản chất của biến đổi khí hậu cùng hệ quả của nó nhằm thay đổi
hành vi và hành động quốc tế, quốc gia nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu là vơ cùng cần thiết
thông qua con đường giáo dục trong nhà trường [11].
Giáo dục biến đổi khí hậu là một phần của giáo dục vì sự phát triển bền vững bởi vì giáo
dục mơi trường nói riêng và giáo dục biến đổi khí hậu nói chung là q trình học tập suốt đời
nhằm tạo ra những cơng dân tích cực, có hiểu biết, những người có khả năng giải quyết các vấn
đề một cách sáng tạo trên nền tảng của giáo dục khoa học, xã hội và cam kết tham gia vào các
hành động cá nhân và/hoặc tập thể có trách nhiệm. Những hành động này được cho là sẽ thúc

đẩy một tương lai thịnh vượng về môi trường và kinh tế [25]. Thêm vào đó, trách nhiệm của
người cơng dân trong xã hội toàn cầu cũng như sự phát triển lối sống mang tính cá nhân ngày
càng được ưa chuộng trên thế giới cũng địi hỏi những người cơng dân trẻ cần có hiểu biết và kĩ
năng ứng xử với biến đổi khí hậu. Do đó, biến đổi khí hậu phải là nội dung học tập trong
chương trình chính khóa của mọi nhà trường [11].
Ngày càng nhiều quốc gia xem giáo dục biến đổi khí hậu là chìa khóa của phát triển bền
vững nên đã xây dựng các kế hoạch hành động chiến lược quốc gia về giáo dục và đề nghị đưa
giáo dục biến đổi khí hậu thành nội dung chính khóa trong chương trình [26]. Giáo dục vì sự
phát triển bền vững là quá trình trang bị cho người học tri thức và sự hiểu biết, các kĩ năng, năng
lực, phẩm chất cần thiết để làm việc và sống theo cách mà ở đó mơi trường được bảo vệ, xã hội
được hạnh phúc và kinh tế phồn thịnh cả ở hiện tại và tương lai [27].
Chương trình hành động toàn cầu của Liên Hiệp Quốc đỏi hỏi các bên nhất trí thúc đẩy và
tạo điều kiện cho sự ban bố luật và các qui định quốc gia trong năng lực tương xứng của mình,
phát triển và thực hiện các chương trình ý thức cộng đồng và giáo dục về biến đổi khí hậu và
ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, nhằm đưa ra những đáp ứng thỏa đáng trong việc đương đầu
với biến đổi khí hậu trong đó có đào tạo nguồn nhân lực cả trong khoa học vả quản lí phát triển
bền vững [19]. Biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến tồn bộ q trình tiến tới phát triển bền vững do
đó, giáo dục biến đổi khí hậu chính là phần quan trọng của giáo dục bền vững nhằm đương đầu
với tương lai. Giáo dục biến đổi khí hậu địi hỏi sự tư duy tồn diện, đầy đủ cả về những vấn đề
hiện tại, đang nổi cộm và trong tương lai theo đó, giáo dục biến đổi khí hậu cho trẻ em là con
đường tất yếu và vô cùng quan trọng cả trong hiện tại và tương lai [26].
2.3.2. Nội dung giáo dục biến đổi khí hậu cho trẻ em
Hội đồng quốc tế biến đổi khí hậu quốc tế (International Council on Climate Change –
ICCP, 2001) trong báo cáo tổng hợp về biến đổi khí hậu tồn cầu đã mơ tả và phân tích cụ thể
nhiều vấn đề cần hiểu biết và hành động đúng về biến đổi khí hậu, qua đó, đã tổng hợp được 03
nhóm nội dung chính bao gồm (1)- Cơ sở khoa học vật lí của biến đổi khí hậu – cơ sở của biến
đổi khí hậu trong quá khứ, hiện tại và tương lai; (2)- Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu - sự thích
ứng và khả năng dễ bị tổn thương, đánh giá khả năng dễ bị tổn thương của hệ thống tự nhiên,
184



Giáo dục biến đổi khí hậu cho trẻ khuyết tật hướng tới phát triển bền vững

kinh tế và xã hội và (3)- Giảm thiểu biến đổi khí hậu – tập trung vào các giải pháp giảm thiểu
biến đổi khí hậu, đánh giá các phương pháp làm giảm khí thải nhà kính vào bầu khí quyển [28].
Các tác giả Bangay và Blum (2010) trong bài báo Những đáp ứng giáo dục đối với Biến
đổi khí hậu và Chất lượng – Hai thành phần của cùng một lịch trình đã nêu 03 nội dung chính
cần được đề cập trong chương trình giáo dục biến đổi khí hậu, đó là (1)- Kiến thức về biến đổi
khí hậu và các q trình liên quan tới môi trường bao gồm kiến thức chung về bản chất và
nguyên nhân của biến đổi khí hậu (ví dụ: khí hậu, phá rừng, mất mơi trường sống, chu trình của
nước, xói mịn đất, ơ nhiễm khơng khí) cũng như ý thức về các chiến lược giải quyết những lo
ngại về mơi trường (giảm tiêu thụ các-bon, khuyến khích phát triển các-bon thấp, giảm phá rừng
quản lí rừng bền vững, cải thiện quản lí nước và chất thải); (2)- Kiến thức về các điều kiện môi
trường, những rủi ro liên đới và các chiến lược quản lí rủi ro. Nội dung này có thể thay đổi tùy
theo từng địa phương, quốc gia, tùy thuộc vào mối quan tâm và hoàn cảnh của địa phương, quốc
gia. Các nội dung có thể bao gồm: chu trình của thức ăn và cách quản lí, phương pháp làm nơng
nghiệp bền vững, các vấn đề ô nhiễm, các chiến lược cải thiện nguồn nước, quản lí đất và chất
thải, quản lí rừng bền vững và ý thức bảo vệ thảm động vật và thực vật và (3)- Kiến thức về
giảm nguy cơ thảm họa bao gồm các kiến thức về nhận biết và lập kế hoạch cho những trường
hợp khẩn cấp như những thảm họa thiên nhiên cũng như những rủi ro về môi trường như ơ
nhiễm nước, bào mịn đất, phá rừng (dẫn đến sạt lở đất), các căn bệnh gây ra bởi việc thải nước
bất hợp lí, ý thức về nguyên nhân của những hiện tượng tiêu cực và cách bảo vệ con người [10].
Tại Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Live&Learn và Plan tại Vietnam (2012), trong tài
liệu hướng dẫn về dạy và học về Biến đổi khí hậu đã đưa ra 04 nội dung gồm: (1)- Thời tiết, khí
hậu và biến đổi khí hậu; (2)- Nguyên nhân của biến đổi khí hậu; (3)- Tác động của biến đổi khí
hậu; (4)- Ứng phó với biến đổi khí hậu và (5)- Các hoạt động thực hành ứng phó với biến đổi
khí hậu [29].
Có thể thấy, mặc dù có các cách tiếp cận khác nhau trong việc đề xuất nội dung giáo dục
biến đổi khí hậu, các nhà khoa học, tổ chức giáo dục và học thuật đều thống nhất các nội dung
chính của giáo dục biến đổi khí hậu bao gồm Bản chất vả nguyên nhân của biến đổi khí hậu;

Tác động của biến đổi khí hậu và Ứng phó với biến đổi khí hậu. Ngồi ra, tùy vào hoản cảnh
của mỗi địa phương mà bổ sung, cập nhật thêm những nội dung liên quan đến các giải pháp
thực tế ứng phó với biến đổi khí hậu. Theo đó, nội dung giáo dục biến đổi khí hậu do Bộ Giáo
dục và Đào tạo, Live&Learn và Plan tại Vietnam (2012) là đầy đủ, hợp lí và khoa học.
Vấn đề đang được hệ thống giáo dục của cả thế giới quan tâm nhưng chưa có đủ cơ sở
khoa học để thực hiện đó là làm thế nào phân phối nội dung chi tiết của chương trình giáo dục
biến đổi khí hậu cho hợp lí ở từng bậc học, cấp học. Theo Phan Thị Trang (2021), ở bậc mầm
non, do đặc thù lứa tuổi nên chỉ cần hình thành cho các em những nhận thức ban đầu về cuộc
sống, môi trường xung quanh từ đó khơi gợi tình u thiên nhiên, góp phần hình thành thói
quen và kỹ năng sống thân thiện với mơi trường [14]. Ở bậc tiểu học, chỉ nên giới thiệu các kiến
thức chung về biến đổi khí hậu và những kĩ năng ứng phó phù hợp độ tuổi. Ở bậc trung học, nên
kết hợp giữa nội dung chương trình bắt buộc và kiến thức lựa chọn phù hợp với địa phương. Sự
lựa chọn kiến thức phù hợp cần sự kết hợp giữa đặc điểm của địa phương với quốc gia và với
quốc tế, phù hợp với hồn cảnh chính trị, xã hội và môi trường của mỗi địa phương [10]. Tuy
nhiên, ý tưởng được hầu hết các nhà khoa học tán đồng, đó là biến đổi khí hậu liên quan đến rất
nhiều lĩnh vực khoa học nên vấn đề này cần được lồng ghép vào trong các môn khoa học ở
trường phổ thơng [10, 11, 7]. Tại Hoa Kì, biến đổi khí hậu tồn cầu và thành phần của khí
quyển được đưa vào chương trình học chính khóa của mơn Khoa học Vũ trụ và trái đất từ lớp 5
đến lớp 12. Riêng chương trình lớp 12, sẽ được học sâu về hệ sinh thái và sự cân bằng sinh thái
nhằm làm rõ quan hệ giữa biến đổi khí hậu và biến đổi hệ sinh thái [11]. Theo Bangay and
Blum (2010), các bộ môn khoa học ở cấp tiểu học và trung học đều rất phù hợp để lồng ghép
185


Hồng Thị Nga

nội dung giáo dục biến đổi khí hậu chẳng hạn như Khoa học sinh học/đời sống,,Hóa học,Vật lí,
Khoa học vũ trụ/trái đất và Khoa học môi trường [10]. Theo Phan Thị Trang (2021), nên tích
hợp nội dung giáo dục biến đổi khí hậu vào các mơn học chính khóa của chương trình giáo dục
phổ thơng tại Việt nam như Địa lí, Vật lí, Cơng nghệ, Sinh học, Lịch sử, Giáo dục cơng dân…

và cả các chương trình giáo dục ngoại khóa [14].
2.3.3. Phương thức thực hiện
Theo Bangay và Blum (2010), bản chất của biến đổi khí hậu vượt ra khỏi một chương trình
học chỉ đơn giản tập trung vào nội dung mà quan trọng hơn là trang bị cho người học sức mạnh
để đối phó với biến đổi khí hậu. Do vậy, phương pháp giáo dục tạo cơ hội cho học sinh trải
nghiệm, tăng cường hoạt động để phát triển tư duy phản biện và kĩ năng giải quyết vấn đề cần
được ưu tiên. Ngoài ra cần kết hợp giáo dục chính thức (trong nhà trường) và khơng chính thức
(ngồi trường) trong sự kết hợp với các chương trình giáo dục biến đổi khí hậu thực tế của địa
phương [10, 14]. Theo đó, nhà trường cần xây dựng hệ thống học liệu sẵn có kết hợp với việc
dạy học theo dự án trải nghiệm sáng tạo để người học tham gia làm đồ dùng dạy học, mơ hình
phịng chống biến đổi khí hậu [10].
Theo một số nhà khoa học, cần đầu tư xây dựng website về giáo dục thích ứng với biến đổi
khí hậu phục vụ cho giáo dục; xây dựng thư viện bài giảng điện tử về phóng chống thiên tai,
thích ứng với biến đổi khí hậu cho các cấp học. Một nguồn tài liệu phong phú, thường xuyên
được cập nhật sẽ là điều kiện thuận lợi cho cơng tác tăng cường giáo dục về thích với BĐKH
[14, 26]. Song song với các hoạt động chính khóa, cần tổ chức các hoạt động ngoại khóa vì giáo
dục ngoại khóa có ưu điểm sinh động, gắn liền thực tế, vừa cung cấp kiến thức, kỹ năng vừa có
tác dụng rèn luyện nhận thức, thái độ. Ngoài ra, các hoạt động ngoại khóa cịn cho phép sử dụng
các hình thức tổ chức đa dạng phù hợp với lứa tuổi và điều kiện vùng miền. Các hoạt động này
có thể bao gồm dã ngoại, thực hiện dự án về bảo vệ môi trường, tham gia câu lạc bộ yêu môi
trường, các hội thi, trò chơi liên quan tới bảo vệ môi trường [14].
Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, Live&Learn và Plan tại Vietnam (2012), các phương thức
giáo dục biến đổi khí hậu cần đa dạng, phong phú hướng tới việc khơi gợi sự chủ động, tích cực
của người học, ưu tiên vào trải nghiệm thực hành hơn là lí thuyết khơ khan, khuyến khích kĩ
năng làm việc theo nhóm và phát huy tối đa năng lực và kinh nghiệm cá nhân, cho phép trẻ
tham gia vào quá trình lập kế hoạch, tổ chức thực hiện và đánh giá kết quả bên cạnh việc cung
cấp cho người học đầy đủ với nhiều lựa chọn các vật dụng đơn giản sử dụng vật liệu sẵn có kết
hợp các nền tảng cơng nghệ thông tin để lưu trữ, khai thác các học liệu một cách dễ dàng. Song
song với các hoạt động chính khóa, nhà trường tổ chức thêm các hoạt động ngoại khóa và các hoạt
động kết hợp với các hoạt động hướng tới phát triển bền vững của cộng đồng địa phương [29].

Tóm lại, do biến đổi khí hậu là vấn đề gắn liền với tất cả các khía cạnh của đời sống nên
phương thức tổ chức giáo dục biến đổi khí hậu cần đa dạng, phong phú, tăng cường trải nghiệm,
thực hành, thúc đẩy tương tác, hợp tác cùng giải quyết các vấn đề của thực tiễn gắn liền với phát
triển bền vững. Muốn vậy, nhà trường cần xây dựng một ngân hàng các dữ liệu, nguồn lực với
những chất liệu sẵn có, phù hợp với điều kiện của địa phương kết hợp ứng dụng công nghệ
thông tin để phục vụ cho việc dạy và học về biến đổi khí hậu của giáo viên và học sinh. Ngồi
ra, trong q trình giáo dục cần kết hợp hài hịa giữa các hoạt động chính khóa và ngoại khóa.
Đặc biệt, cần kết hợp với các hoạt động hướng tới phát triển bền vững của địa phương.

2.4. Giáo dục về biến đổi khí hậu cho trẻ khuyết tật hướng tới phát triển bền vững
2.4.1. Tại sao cần giáo dục biến đổi khí hậu cho trẻ khuyết tật hướng tới phát triển bền vững
Trẻ khuyết tật là nhóm trẻ chịu ảnh hưởng nặng nề nhất bởi biến đổi khí hậu. Họ cũng là
những người chiếm tỉ trọng đáng kể trong các cộng động người nghèo ở cả những nước có thu
nhập cao và thu nhập thấp, trong đó có tới 80% ở các nước nghèo thường chịu thảm họa hoặc ở
186


Giáo dục biến đổi khí hậu cho trẻ khuyết tật hướng tới phát triển bền vững

các vùng phải phơi nhiễm với các mâu thuẫn trong cuộc sống [16]. Các rủi ro mà trẻ khuyết tật
phải đối mặt thường bao gồm sức khỏe, dinh dưỡng, thiếu chuẩn bị, khó khăn trong sơ tán, bệnh
truyền nhiễm và tử vong. Đặc biệt, trẻ khuyết tật có nguy cơ mất hoặc giảm cơ hội tiếp cận với
kiến thức, các nguồn lực và các dịch vụ để ứng phó với những thay đổi của mơi trường [30].
Trên thế giới có hơn 1 tỉ người được cho là mang tình trạng khuyết tật, trong đó khoảng 200
triệu người đang chịu những thách thức thường xuyên trong các hoạt động hàng ngày [31]. Tình
trạng dễ bị tổn thương cao đối với biến đổi khí hậu của trẻ khuyết tật có thể làm gia tăng tình
trạng nghèo đói, mất câng bằng xã hội và là một trong những yếu tố chính cản trở việc đạt được
các mục tiêu phát triển bền vững.
Ở một khía cạnh khác, mặc dù người khuyết tật là nhóm người dễ bị tổn thương do ảnh
hưởng của biến đổi khí hậu nhưng họ lại thường bị gạt ra ngồi lề của các chương trình ứng phó

với biến đổi khí hậu. Theo Hội vì sự phát triển của người khuyết tật tỉnh Quảng Bình (2013), chỉ
riêng tỉnh Quảng Bình có hơn 45,000 người khuyết tật, trong đó có tới 90% đang sống tại các
khu vực nông thôn và chủ yếu làm nông nghiệp nhưng sự tham gia của họ vào cơng tác phịng
chống thiên tai vẫn chưa nhận được sự quan tâm đầy đủ, gây tổn thất nặng nề về người và tài
sản của họ. Theo tổ chức này, việc tham gia của người khuyết tật vào việc lập chương trình
hành động ứng phó biến đổi khí hậu thu hút sự quan tâm chú ý của cộng đồng người khuyết tật
vào chương trình qua đó, giúp họ chủ động giảm nhẹ thiệt hại, đặc biệt gia tăng sức mạnh của
cộng đồng một cách bền vững. Tuy nhiên, để người khuyết tật có thể tham gia tích cực và hiểu
quả vào các chương trình liên quan đến phát triển bền vững và biến đổi khí hậu thì họ cần phải
được giáo dục bài bản và phù hợp về biến đối khí hậu [32]. Do vậy, trên hết thảy, trẻ khuyết tật
từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường cần được giáo dục về biến đổi khí hậu.
Ngồi lí do mang tính sống cịn trên đây, cịn một lí do quan trọng khác để cung cấp giáo
dục biến đổi khí hậu cho trẻ khuyết tật đó là, đối với học sinh còn ngồi trên ghế nhà trường,
chương trình giáo dục biến đổi khí hậu thường được thể hiện nhiều trong chương trình giáo dục
về mơi trường và đây là cơ hội tốt để phát triển khả năng hòa nhập của trẻ khuyết tật. Nhiều
nghiên cứu đã chỉ ra rằng, giáo dục môi trường thú thúc đẩy sự phát triển lòng tự trọng, tương
tác bạn bè, mối quan hệ tích cực giữa học sinh và giáo viên và thái độ tích cực đối với trường
học. Thơng qua những trải nghiệm ngoài lớp học, đặc biệt gắn với thiên nhiên, người học khơng
chỉ phát triển năng lực trí tuệ mà năng lực tình cảm và hội nhập xã hội cũng được thúc đẩy [25].
2.4.2. Định hướng điều chỉnh trong giáo dục biến đổi khí hậu cho trẻ khuyết tật hướng tới
giáo dục bền vững
a. Điều chỉnh mục tiêu giáo dục biến đổi khí hậu
Cũng giống như với các lĩnh vực giáo dục khác, mục tiêu giáo dục biến đổi khí hậu có thể
cần phải điều chỉnh cho phù hợp với khả năng của từng người khuyết tật trên cơ sở phát huy tối
đa thế mạnh của họ. Chẳng hạn, mục tiêu giáo dục biến đổi khí hậu của một trẻ khiếm thị không
mắc khuyết tật khác cũng giống như mục tiêu dành cho trẻ điển hình sáng mắt nhưng có thể bổ
sung thêm mục tiêu khác như có thể tư vấn cho những người xung quanh, nhà trường và cộng
đồng địa phương cách hỗ trợ người khuyết tật ứng phó với biến đổi khí hậu hiệu quả. Mục tiêu
giáo dục như vậy cũng có thể đặt ra giống như với trẻ khiếm thính và khuyết tật vận động vì
những em này có đủ khả năng để thực hiện thêm các mục tiêu quan trọng và phù hợp khác. Như

vậy, việc điều chỉnh mục tiêu giáo dục dành cho những trẻ khơng bị khuyết tật trí tuệ chính là ở
việc đặt thêm những mục tiêu mới nhằm khai thác tối đa khả năng của mỗi trẻ đó là tư vấn,
hướng dẫn những người xung quanh nói riêng và cộng đồng nói chung cách hỗ trợ cộng đồng
người khuyết tật ứng phó với biến đổi khí hậu, trên cơ sở đó giúp trẻ trở thành những cơng dân
tương lai có trách nhiệm và có năng lực tham gia vào việc giải quyết các vấn đề liên quan đến
biến đổi khí hậu của toàn xã hội. Ngược lại, với một trẻ khuyết tật trí tuệ, thì tùy vào mức độ
nặng nhẹ của khuyết tật mà điều chỉnh mục tiêu theo hướng thấp hơn so với trẻ điển hình.
187


Hồng Thị Nga

Chẳng hạn như, một trẻ khuyết tật trí tuệ mức độ trung bình ở trường tiểu học có thể chỉ cần
nhận biết được dấu hiệu cần xơ tán và thu dọn đồ đạc của mình trong khi mục tiêu dành cho trẻ
tiểu học điển hình là cùng tham gia với gia đình lập kế hoạch sơ tán, giúp đỡ anh chị em hoặc
những người yếu thế cùng sơ tán an toàn. Các mục tiêu giáo dục biến đổi khí hậu cho trẻ khuyết
tật sẽ được thể hiện trong mục tiêu của chương trình/kế hoạch giáo dục cá nhân của mỗi trẻ.
b. Điều chỉnh nội dung giáo dục biến đổi khí hậu
Việc điều chỉnh nội dung giáo dục biến đổi khí hậu cho trẻ khuyết tật phụ thuộc vào mục
tiêu giáo dục biến đổi khí hậu đã điều chỉnh. Căn cứ vào mục tiêu giáo dục biến đổi khí hậu của
mỗi trẻ khuyết tật và nội dung giáo dục biến đổi khí hậu của từng bậc học, cấp học, giáo viên và
các lực lượng giáo dục liên quan lựa chọn những nội dung nhằm giúp trẻ đạt được mục tiêu đã
xác định. Ví dụ, với mục tiêu nhận biết dấu hiệu cần sơ tán và thu dọn đồ đạc của mình thì nội
dung giáo dục sẽ bao gồm: tìm hiểu các dấu hiệu nhận biết cần sơ tán và thực hành các kĩ năng
thu dọn đồ đạc cá nhân trong tình huống cần sơ tán. Tóm lại, nội dung giáo dục biến đổi khí hậu
của mỗi trẻ khuyết tật được điều chỉnh dựa trên mục tiêu giáo dục đã được xác định trong
chương trình/kế hoạch giáo dục cá nhân.
c. Điều chỉnh phương thức giáo dục biến đổi khí hậu
Tất cả những phương thức giáo dục biến đổi khí hậu được đề nghị áp dụng cho trẻ điển
hình đều phù hợp với trẻ khuyết tật. Tuy nhiên, do những khiếm khuyết về chức năng sinh lí

hoặc tâm lí, học sinh khuyết tật đòi hỏi cách thức tổ chức hoạt động nhằm tạo điều kiện cho khả
năng bù trừ của não bộ cũng như nhu cầu điều hòa cảm giác và phát triển các kĩ năng cần thiết
phù hợp với nhu cầu của mỗi trẻ. Theo đó, thiết kế các hoạt động giáo dục biến đổi khí hậu cho
học sinh khuyết tật cần tạo cơ hội để trẻ sử dụng tất cả các giác quan bao gồm thị giác, thính
giác, vị giác, xúc giác, khứu giác, đồng thời, giúp học sinh phát triển các kĩ năng sống và làm
việc nhóm, khả năng tự nhận thức, kích thích cảm giác, sức khỏe, trí tuệ và cải thiện cảm xúc.
Sân chơi và vườn trường có đủ kích thích cảm giác có thể khuyến khích sự phát triển nhận thức,
trưởng thành về cảm xúc và hội nhập xã hội. Thậm chí, với nhiều trẻ tự kỉ, những mơi trường
hoạt động như vậy có thể khuyến khích trẻ tìm kiếm các kích thích từ mơi trường để trấn tĩnh
hoặc tự điều tiết hệ thần kinh của mình [15].
Ngồi ra, do mỗi trẻ khuyết tật có đặc điểm, sở thích, khả năng và nhu cầu riêng biệt nên
việc lựa chọn và xác định các phương thức giáo dục sẽ cần phải được tính tốn, cân nhắc trên cơ
sở tận dụng được thế mạnh, sở thích, phát huy được khả năng và đáp ứng đúng nhu cầu.
Chương trình/kế hoạch giáo dục cá nhân của mỗi trẻ cần thể hiện đầy đủ những nội dung này.

3. Kết luận
Biến đổi khí hậu và phát triển bền vững là hai phạm trù có mối liên hệ chặt chẽ với nhau theo
đó, giáo dục biến đổi khí hậu là một phần vô cùng quan trọng của giáo dục phát triển bền vững.
Nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam đã đưa nội dung giáo dục biến đổi khí hậu vào
chương trình giáo dục chung của nhà trường. Tại Việt Nam, Bộ giáo dục và Đào tạo đã xây dựng
và phổ biến tài liệu hướng dẫn dạy và học về ứng phó với biến đổi khí hậu. Tuy nội dung chi tiết
cho từng bậc học và cấp học vẫn chưa được làm rõ cả trên thế giới và Việt Nam nhưng nhìn chung
các học giả đều cho rằng giáo dục biến đổi khí hậu cần được xem như là một nội dung giáo dục
bắt buộc của nhà trường và được lồng ghép vào các bộ môn khoa học ở trường phổ thơng.
Trẻ khuyết tật là nhóm dân số chịu nhiều rủi ro và tổn thương nhất do tác động của biến đổi
khí hậu khiến sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia đứng trước nguy cơ của sự thiếu bền
vững. Giáo dục biến đổi khí hậu cho trẻ khuyết tật tạo nền tảng vững chắc cho cuộc chiến lâu
dài với biến đổi khí hậu của nhóm dân số này, theo đó góp phần quan trọng vào quá trình phát
triển bền vững của mỗi quốc gia và tồn cầu. Tuy nhiên, do trẻ khuyết tật có khả năng, đặc điểm
và nhu cầu riêng biệt nên việc giáo dục biến đổi khí hậu cho nhóm trẻ này cần có những điều

chỉnh cần thiết về mục tiêu, nội dung và phương thức thực hiện.
188


Giáo dục biến đổi khí hậu cho trẻ khuyết tật hướng tới phát triển bền vững

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Xn Hải, 2019. Phát triển bền vững và mơ hình phát triển bền vững giáo dục hòa
nhập cho người khuyết tật ở Việt Nam. Tạp chí Khoa học. Trường Đại học Sư phạm Hà
Nội. Volumn 64, Isssue 9AB.
[2] Cohen, S., Demeritt, D., Robinson ,J. & Rothman, D., 1998. Climate change and
sustainable development: towards dialogue. Elsevier Science, Global Environmental
Change, Vol. 8, No. 4, pp. 341Ð371.
[3] Banuri, T., 1999. Sustainable development and climate change. Policy Maters. Issue No. 4
Spring.
[4] Beg, N., at el., 2002. Linkages between climate change and sustainable development.
Climate Policy 2 (2002) 129–144.
[5] Munasinghe, M., 2002. Analysing the nexus of sustainable development and climate
change: an overview. Head of Publications Service, OECD.
[6] Munasinghe, M., 2010. Addressing the Sustainable Development and Climate Change
Challenges Together: Applying the Sustainomics Framework. Procedia Social and
Behavioral Sciences 41 (2010) 6634–6640.
[7] Reckien, D. et al., 2017. Climate change, equity and the Sustainable Development Goals:
anurban perspective. International Institute for Environment and Development (IIED). Vol
29(1): 159–182. DOI: 10.1177/0956247816677778. www.sagepublications.com
[8] Singh GG, Hilmi N, Bernhardt J, et al., 2019. Climate impacts on the ocean are making the
Sustainable Development Goals a moving target travelling away from us. People Nat.
2019;1:317–330. https ://doi.org/10.1002/pan3.26
[9] International Council on Human Rights Policy, 2008. Climate Change and Human Rights:
A Rough Guide. International Council on Human Rights Policy, Versoix, Switzerland.

[10] Bangay, C., and Blum, N., 2010. Education Responses to Climate Change and Quality:
Two Parts of the Same Agenda? International Journal of Educational Development 30(4):
335-450.
[11] Fortner, W. R., 2001. Climate Change in School: Where Does It Fit and How Ready Are
We? Canadian Journal of Environmental Education, 6, Spring 2001.
[12] Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2014. Quyết định Về việc phê duyệt Đề án”Thơng tin, tun
truyền về ứng phó với biến đổi khí hậu và phịng, chống thiên tai trong trường học giai
đoạn 2013-2020”.
[13] Eckstein, D., Künzel, V. & Schäfer, L., 2018. Global Climate Risk Index 2018: Who
Suffers Most From Extreme Weather Events? Weather-related Loss Events in 2016 and
1997 to 2016. GermanWatch.
[14] Phan Thị Trang, 2021. Phát huy vai trò của giáo dục trong thích ứng với biến đổi khí hậu.
Tạp Chí Mơi Trường. Cơ Quan Của Tổng Cục Mơi Trường, Chuyên đề Tiếng Việt I/2021.
[15] Theodorou, Paraskevi & Pappa, Efstathia & Genitsaridi, Aspasia & Skanavis,
Constantina., 2018. “Smart” Environmental Education for Special Needs Learners.
ResearchGate. />[16] Hemingway, L. & Priestley, M., 2014. Natural Hazards, Human Vulnerability and
Disabling Societies: A Disaster for Disabled People? Review of Disabilities Studies – An
International Journal. Vol. 2, No. 3. Retrieved from />php/journal/article/view/337 on June 20th, 2021.
[17] Riedy, C., 2016. Climate Change (In book Blackwell Encyclopedia of Sociology).
Blackwell.
[18] IPCC, 2018. Annex I: Glossary. In: Global Warming of 1.5°C. An IPCC Special Report on
the impacts of global warming of 1.5°C above pre-industrial levels and related global
greenhouse gas emission pathways, in the context of strengthening the global response to
189


Hoàng Thị Nga

[19]
[20]


[21]
[22]
[23]

[24]

[25]
[26]

[27]
[28]
[29]
[30]
[31]

[32]

the threat of climate change, sustainable development, and efforts to eradicate poverty. In
Press. />UNFCCC, 2015. Adoption of the Paris Agreement. United Nations conference on
environment and development (1992). The Regency Press Corporation, London
Fuso et al., 2019. Connecting climate action with other sustainable development goals.
Nature Sustainability. ISSN 2398-9629. This version is available from Sussex Research
Online: />Unicept VietNam, 2018. Chương trình trẻ em và biến đổi khí hậu. cef.
org/vietnam/vi/tr%E1%BA%BB-em-v%C3%A0-bi%E1%BA%BFn-%C4%91%E1%BB%
Nguyễn Cơng Khanh, 2010. Biến đổi khí hậu tồn cầu với sức khỏe trẻ em. Tạp chí Thơng
tin Y dược. C., Clayton, S., and Bragg, E, 2020. Educating for resilience: parent and teacher
perceptions of children’s emotional needs in response to climate change. Environmental
Education Research. />Nguyễn Minh Quang, 2021. Biến đổi khí hậu và dịch bệnh: Mối liên hệ, tác động và giải
pháp tiếp cận mới. Tạp chí Khoa học & Cơng nghệ Việt Nam. Retrieved on July, 1st from

A., 2017. Green inclusion: biophilia as a necessity. British Journal of Special
Education, Volume 43, Number 4, 417. Http://dx.doi.org/10.1111/1467-8578. 12155
Mailumo D., Igbe S., Mailumo P., 2018. Climate Change Education for Sustainable
Development: Lessons for Nigeria. In: Leal Filho W. (eds) Handbook of Climate Change
Resilience. Springer, Cham. />National Academy of Sciences, 2003. Our common journey – a transition toward
sustainability. National Academy Press, Washington, DC.
IPCC, 2001. Climate Change 2001: Synthesis Report. Cambridge University Press.
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Live&Learn và Plan tại Vietnam, 2012. Tài liệu hướng dẫn dạy
và học về ứng phó với biến đổi khí hậu. Cơng ty cổ phần in La Bàn.
Kosanic, A., et al., 2019. Climate concerns and the disabled community. American
Association for the Advancement of Science. Volumn 366 Issue 6466.
Hội vì sự phát triển của người khuyết tật tỉnh Quảng Bình, 2013. Quản lí rủi ro thiên tai
dựa vào cộng đồng và thích ứng với biến đổi khí hậu hướng tới người khuyết tật.
/>World Health Organization, 2011. Summary World Report on disability.
ABSTRACT

Climate change education for children with disabilities toward sustainable develoment

Hoang Thi Nga,
Department of Special Education, Ho Chi Minh City University of Education
The article presents the interrelationship between climate change and sustainable
development, thereby showing the importance of climate change education for children
including children with disabilities to the sustainable development of each country in particular
and globally. At the same time, through studying the orientation of climate change education for
children in general and the characteristics, abilities and special needs of children with
disabilities, the article proposes basic adjustment orientations in climate change education for
children with disabilities.
Keywords: Climate change, sustainable development, climate change education, children
with disability.
190




×