Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Chien tranh Trieu Tien

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (488.28 KB, 27 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH </b>
<b>KHOA : LỊCH SỬ </b>


<b>LỚP : K37A </b>


<b>BÀI TIỂU LUẬN MÔN: </b>


<b>LỊCH SỬ QUAN HỆ QUỐC TẾ </b>



<b>ĐỀ TÀI </b>



<b>CHIẾN TRANH TRIỀU TIÊN </b>



<b>TRONG LÒNG CHIẾN TRANH LẠNH </b>



<b>GVHD: Thầy LÊ PHỤNG HOÀNG </b>
<b>SVTH: QUẢNG ĐẠI TRUYỀN </b>
<b>MSSV: K37.602.109</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>MỤC LỤC </b>



<b>I.</b> <b>BỐI CẢNH THẾ GIỚI SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI </b>


<b>II.</b> <b>CHIẾN TRANH LẠNHVÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ CỦA CUỘC CHIẾN </b>
<b>TRANH TRIỀU TIÊN </b>


<b>1.</b> <b>Chiến tranh lạnh </b>


<b>2.</b> <b>Triều Tiên bên bờ vực cuộc chiến tranh </b>


<b>III.</b> <b>CHIẾN TRANH TRIỀU TIÊN VÀ HẬU QUẢ </b>



<b>1.</b> <b>Chiến tranh bùng nổ </b>


<b>2.</b> <b>Diễn biến </b>


<b>3.</b> <b>Hậu quả của cuộc chiến thanh Triều Tiên </b>


<b>IV.</b> <b>KẾT LUẬN </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>I.</b> <b>BỐI CẢNH THẾ GIỚI SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI </b>


Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tình hình thế giới từng bước có những chuyển
biến to lớn, tác động tới quan hệ quốc tế, tác động tới từng nước, từng khu vực và
cả trật tự thế giới vừa được thiết lập.


Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, nhưng các nước châu Âu, Nhật Bản và Liên
Xô bị chiến tranh tàn phá nặng nề, bị tổn thất lớn cả về người và của. Chỉ có Mỹ
giầu lên nhanh chóng trong chiến tranh (thu về 114 tỉ đô la lợi nhuận do bán vũ
khí và phương tiện chiến tranh) và trở thành nước mạnh nhất về kinh tế trong
khoảng 3 năm sau chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ chiếm quá nửa tổng sản lượng
công nghiệp của thế giới tư bản (56,4% năm 1948). Mỹ là chủ nợ lớn nhất thế giới
(riêng về vũ khí, các nước đồng minh châu Âu đã nợ Mỹ 41,751 tỉ USD) và nắm
trong tay một lợi thế khiến các nước phải kiêng nể, e dè: độc quyền về bon nguyên
tử.


Có thể nói, Mỹ vượt trội hơn tất cả các nước về kinh tế, quân sự và chính trị…Từ
đây tham vọng làm bá chủ thế giới của Mỹ ngày càng bộc lộ và đây cũng là cơ sở
để Mỹ triển khai nhanh chóng kế hoạch của mình trong một bối cảnh quốc tế và
tương quan so sánh lực lượng hết sức thuận lợi đứng cả về hai phía quan hệ: Mỹ
với các nước trong khối đồng minh tư bản chủ nghĩa; Mỹ với Liên Xô và các nước


xã hội chủ nghĩa.


Tuy nhiên, sức mạnh và ưu thế của Mỹ khơng kéo dài được mãi, nó đã bị giảm sút
tương đối từ những năm 60 của thế kỷ XX trở đi, đặc biệt từ những năm 70 khi
các nước tư bản phục hồi và vươn lên nhanh chóng, trước hết là Tây Âu và Nhật
Bản.


Hai cường quốc Xô – Mỹ từ quan hệ đồng minh trong Chiến tranh thế giới thứ hai,
sau chiến tranh quan hệ ấy nhanh chóng chuyển thành quan hệ đối đầu. Từ quan
hệ đối đầu giữa hai nước chuyển thành quan hệ đối đầu giữa hai phe – phe xã hội
chủ nghĩa và phe tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong bối cảnh thế giới hai cực,
quan hệ Xô –Mỹ, quan hệ giữa hai phe, mặc dù mâu thuẫn, nhưng vẫn phụ thuộc
và kiềm chế nhau, đều thực hiện chiến lược phòng ngự, đều tránh đụng đầu trực
tiếp với nhau. Vì thế, về đại cục, hịa bình thế giới được duy trì trong suốt thời kì
chiến tranh lạnh và cả sau đó.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

mình, Mĩ và các nước đồng minh khơng thể khơng tính đến một thực tế đó của chủ
nghĩa xã hội.


Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, cao trào giải phóng dân tộc diễn ra sơi nổi ở khắp
các lục địa của Á, Phi, Mỹ La Tinh, hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân bị
tan vỡ từng mảng lớn và đến giữa những năm 60 đã sụp đổ về cơ bản. Hơn 100
quốc gia dân tộc trẻ tuổi ra đời, ngày càng tham gia tích cực vào đời sống chính trị
thế giới. Bộ mặt hành tinh thay đổi to lớn. Trong chiến lược của hai cường quốc
Xô – Mĩ và hai hệ thống không thể khơng tính đến lực lượng này.


Thứ năm, cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật bùng nổ vào những năm 40 của thế
kỷ XX và diễn ra mạnh mẽ sau đó. Cuộc cách mạng này đã đưa lại những tiến bộ
nhảy vọt, những thành tự kì diệu, những tác động tích cực và những hậu quả của
nó rất to lớn. Những nước nào đi sâu vào cách mạng khoa học - kỹ thuật, tận dụng


những thành tựu của nói thì vươn lên mạnh mẽ, tiếng nói của họ trong quan hệ
quốc tế ngày càng có trọng lượng hơn. Những nước bỏ lỡ cơ hội tận dụng thành
tựu của cách mạng khoa học – kỹ thuật, thì tụt hậu, hình bóng của các nước ấy
trong quan hệ quốc tế cũng trở nên mờ nhạt.


Chiến tranh lạnh gần như là một hệ quả tất yếu của tình hình đối đầu, căng thẳng
giữa hai phe thời kỳ sau Chiến tranh thế giới thứ hai.


<b>II.</b> <b>CHIẾN TRANH LẠNH VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ CỦA CUỘC CHIẾN </b>
<b>TRANH TRIỀU TIÊN </b>


<b>1.</b> <b>Chiến tranh lạnh </b>


 <b>Nguyên nhân xảy ra chiến tranh lạnh </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Tuy nhiên, ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, tình hình thế giới
chuyển biến mau lẹ ngày càng có lợi cho Liên Xơ và các nước xã hội chủ nghĩa,
bất lợi cho Mỹ và các đồng minh của Mỹ. Đầu năm 1947, ở các nước Đông Âu,
khu vực ảnh hưởng của Liên Xơ, chính quyền lần lượt chuyển vào tay nhân dân
lao động, ở Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp phong trào đấu tranh vũ trang do Đảng Cộng
sản lãnh đạo phát triển mạnh mẽ. Ở Pháp, Bỉ và Italia đại diện của Đảng Cộng sản
đã tham gia Chính phủ, ở các nước này đã diễn ra một loạt những cải cách kinh tế
- xã hội có lợi cho người lao động. Ở châu Á, cách mạng Trung Quốc phát triển
mạnh, so sánh lực lượng ngày càng có lợi cho Đảng Cộng sản. Trong bối cảnh như
thế, Mỹ khơng thể khơng có những phản ứng lại. Tháng 3 – 1947, Tổng thống Mỹ
Truman đã đọc diễn văn tại Quốc hội Mỹ, chính thức đưa ra học thuyết của mình.
Theo Truman thì các nước Đơng Âu ―vừa mới bị cộng sản thơn tính‖ và những đe
dọa tương tự đang diễn ra nhiều nước khác ở châu Âu, ở Italia, Pháp và cả Đức
nữa. Vì vậy, Mỹ phải đứng ra ―đảm nhận sứ mạng lãnh đạo thế giới tự do‖ phải
giúp đỡ các dân tộc thế giới chống lại ―sự đe dọa‖ của chủ nghĩa cộng sản, chống


lại sự ―bành trướng‖ của Liên Xô, giúp đỡ bằng mọi biện pháp kinh tế, quân sự.
Tổng thống Mỹ đã phát động cuộc chiến tranh lạnh chống Liên Xô và các nước xã
hội chủ nghĩa.


Như vậy, học thuyết Truman đã mở đầu cho cuộc chiến tranh lạnh và cuộc
chiến tranh này đã diễn ra theo tư tưởng và mục tiêu của Mĩ mà học thuyết
Truman đã vạch ra.


―Chiến tranh lạnh‖ là khái niệm do Baruch, tác giả của kế hoạch nguyên tử
lực của Mỹ ở Liên hợp quốc đưa ra, xuất hiện trên báo chí từ ngày 26 – 07 – 1947.
Theo Mỹ, ―chiến tranh lạnh‖ là ―chiến tranh không nổ súng, khơng đổ máu‖
nhưng ―ln ln ở tình trạng chiến tranh‖ nhằm ―ngăn chặn‖ rồi ―tiêu diệt‖ Liên
Xô.


Nhiều nhà nghiên cứu cũng đưa ra định nghĩa của mình về chiến tranh lạnh.
Tựu trung lại, đó là sự đe dọa sử dụng bạo lực quân sự, bao vây kinh tế, phá hoại
chính trị, chạy đua vũ trang và chuẩn bị chiến tranh, làm cho tình hình thế giới
ln ln căng thẳng.


Mục tiêu của chiến tranh lạnh do Mỹ phát động là Mỹ tiến tới lãnh đạo thế
giới tự do chống lại sự đe dọa của chủ nghĩa cộng sản, chống lại Liên Xô và các
nước xã hội chủ nghĩa, ngăn chặn chủ nghĩa xã hội không cho lan ra các khu vực
khác.


 <b>Biểu hiện của Chiến tranh lạnh </b>


 Sự hình thành các khối kinh tế - chính trị đối lập:


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

sẽ mở rộng ―viện trợ‖ đến châu Âu. Thực hiện kế hoạch của Macsan, ngày 12 – 07
– 1947, các nước Anh – Pháp triệu tập ở Pari hội nghị bàn về kế hoạch này của Mĩ


với 16 nước tư bản châu Âu tham gia(1). Hội nghị đã yêu cầu Mĩ viện trợ hàng
chục tỉ đô la cho châu Âu. Tháng 4 – 1948, Quốc hội Mĩ thơng qua ―Đạo luật viện
trợ nước ngồi‖ với những quy định: nước nhận viện trợ phải kí với Mĩ hiệp ước
tay đơi có lợi cho Mĩ, phải thi hành chính sách kinh tế tài chính do Mĩ yêu cầu,
phải cung cấp nguyên liệu cho Mĩ, phải ngừng buôn bán với Liên Xô và các nước
xã hội chủ nghĩa, hủy bỏ kế hoạch quốc hữu hóa và gạt bỏ các lực lượng tiến bộ ra
ngoài chính phủ… Kế hoạch Macsan được thực hiện từ ngày 9 – 4 – 1948 đến
ngày 31 – 12 – 1951, thực tế Mĩ đã bỏ ra 12,5 tỉ đô la(2). Kết quả nền kinh tế của
những nước nhận viện trợ được phục hồi, sau đó phát triển mạnh, nhưng phụ
thuộc vào Mĩ.


Phán ứng lại đối với ―Học thuyết Truman‖ và ―Kế hoạch Macsan‖, Liên Xô cùng
các nước xã hội chủ nghĩa và các đảng cộng sản châu Âu đã xúc tiến thành lập Cơ
quan thông tin cộng sản (KOMINFORM) vào tháng 10 – 1947. Đại diện của 9
Đảng Cộng sản (Liên Xô, Ba Lan, Nam Tư, Bungari, Rumani, Hungari, Tiệp
Khắc, Italia và Pháp) tham dự cuộc họp này tại Vacsava. Hội nghị đã ra bản tuyên
bố, trong đó phân tích tình hình thế giới chia làm hai phe, phe đế quốc – tư bản do
Mĩ đứng đầu và phe chống đế quốc – tư bản do Liên Xô đứng đầu. Cơ quan thông
tin cộng sản có nhiệm vụ tổ chức thực hiện thơng tin, trao đổi kinh nghiệm và phối
hợp hành động đấu tranh giữa các đảng cộng sản một cách tự nguyện. Để trao đổi
thông tin, hội nghị đã quyết định xuất bản tạp chí ở Bêơgrat bằng tiếng Pháp và
tiếng Nga mang tên ―Vì một nền hịa bình vững chắc, vì nền dân chủ nhân dân‖.
Hơn một năm sau, vào ngày 8 - 1 - 1949, Liên Xô và các nước Anbani(1) Ba Lan,
Bungari, Hungari, Rumani, Tiệp Khắc đã quyết định thành lập tổ chức kinh tế của
các nước xã hội chủ nghĩa: Hội đồng tương trợ kinh tế (gọi tắt theo tiếng Nga là
SEV). Như vậy, trên thế giới đã xuất hiện hai khối kinh tế đối lập nhau: khối kinh
tế của các nước xã hội chủ nghĩa (SEV) với thị trường riêng của nó và khối kinh tế
tư bản chủ nghĩa.


 Chính sách ngăn chặn và các khối quân sự, căn cứ quân sự ra đời:



Trong những năm 1947 – 1949, Mĩ thi hành ―chính sách ngăn chặn‖ nhằm ngăn
chặn ―sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản‖, rồi tiến tới tiêu diệt nó. Mĩ cho
rằng, Liên Xô bị suy yếu trong Chiến tranh thế giới thứ hai, kiệt quệ cả về vật chất
và tinh thần, chỉ cần đặt trước Liên Xô một lực lượng mạnh trong vịng 10 – 15
năm, Liên Xơ sẽ tự bị tiêu diệt và sẽ ngăn chặn được chủ nghĩa cộng sản, ngăn
chặn được khuynh hướng xâm lược của người Nga.


Để thực hiện ―chính sách ngăn chặn‖ chủ nghĩa cộng sản, Mĩ đã xúc tiến việc chia
cắt nước Đức và Triều Tiên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

mọi đề nghị của Liên Xô trong việc giải quyết vấn đề kí hịa ước với Đức, vấn đề
thành lập một chính phủ chung cho tồn Đức theo nghị quyết Pôtxđam và vấn đề
những biện pháp nhằm tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa quân phiệt Đức.


Ngay sau khi Hội nghị Luân Đôn đi đến chỗ bế tắc, các nước phương Tây liền tổ
chức một hội nghị riêng rẽ khác ở Luân Đôn để bàn về việc chia cắt nước Đức.
Hội nghị đã đề cập đến những nội dung sau: Tổ chức chính trị ở Tây Đức, chế độ
khai thác vùng Rua, chế độ đóng chiếm ở Tây Đức, cải cách tiền tệ ở Đức. Hội
nghị cho việc thành lập một quốc gia riêng rẽ ở Tây Đức có ý nghĩa đặc biệt. Ngày
2 – 6 – 1948, Hội nghị đã đưa ra bản tuyên bố nêu rõ ý định quyết tâm chia cắt
nước Đức của các nước phương Tây.


Sau hội nghị, ngày 18 – 6 – 1948, tại phía Tây nước Đức và Tây Béclin, Mĩ, Anh,
Pháp tiến hành cải cách tiền tệ riêng rẽ, số tiền cũ họ đưa sang phía Đơng Đức và
Đơng Béclin, gây rối loạn kinh tế - xã hội khu vực này.


Để bảo vệ nền kinh tế Đông Đức khỏi bị tan rã, Ban qn chính Liên Xơ ở Đơng
Đức bắt buộc phải thi hành hạn chế vận tải trong việc thông thương giữa hai miền
Đông và Tây Đức, giữa Tây Béclin và Đơng Béclin. Sau đó, ở Đông Đức cũng


tiến hành cải cách tiền tệ để ổn định và phát triển nền kinh tế. Lúc này, tình hình
giữa miền Đông và miền Tây cũng như quan hệ giữa Liên Xô và các nước Mĩ,
Anh, Pháp trở nên căng thẳng. Các nước phương Tây lập cầu Hàng khơng tiếp tế
hàng hóa cho Tây Đức và Tây Béclin, họ cũng lợi dụng đưa thêm lực lượng vũ
trang vào Tây Đức. Tình hình căng thẳng, nhưng may mắn xung đột không xảy ra,
do Liên Xô đã chủ động đồng ý hủy bỏ những hạn chế vận tải giữa các khu vực ở
nước Đức (5 – 1949) với điều kiện hội nghị ngoại trưởng phải họp lại để bàn giải
quyết vấn đề Đức.


Sau cuộc khủng hoảng này, phía các nước phương Tây vẫn tích cực xúc tiến việc
thành lập riêng rẽ nhà nước Đức ở phía tây. Bộ tư lệnh Mĩ, Anh, Pháp cùng với
những lãnh đạo Đức ở phía Tây đã họp Hội nghị Phranphuốc (7 – 1948) đã quyết
định triệu tập một quốc hội lập hiến riêng rẽ vào tháng 9 – 1948. Tiếp theo, Mĩ,
Anh, Pháp đã tiến hành hội nghị riêng ở Oasinhtơn (8 – 4 – 1949) thông qua nhiều
nội dung quan trọng về vấn đề Đức trái với tinh thần của hội nghị Pôtxđam. Tháng
5 – 1949, Hội đồng nghị viện họp ở Bon đã thông qua dự thảo Hiến pháp nước
cộng hòa Liên Bang Đức (Tây Đức). Ngày 14 – 9 – 1949, ở các khu vực miền
Tây, người ta đã tiến hành bầu cử riêng rẽ. Ngày 12 – 9, ông Hớt được cử làm Thủ
tướng nước Cộng hòa Liên bang Đức.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Ở châu Á, Mĩ cũng tích cực thực hiện chia cắt Triều Tiên, coi đó là việc làm cần
thiết để ―ngăn chặn‖ chủ nghĩa xã hội mở rộng ra khu vực Đông Bắc Á. Ngày 10 –
5 – 1948, Mĩ, các lực lượng thân Mĩ đã tổ chức tuyển cử riêng rẽ ở Nam Triều
Tiên. Ngày 30 – 5 – 1948, Quốc hội được bầu cử ở phía nam đã họp ở Sơun, cử
Lý Thừa Văn lên làm Tổng thống nước Đại Dân quốc (Hàn Quốc).


Để đối phó lại hành động của Mĩ ở bán đảo Triều Tiên, được sự giúp đỡ của Liên
Xô, tháng 6 – 1948, các đảng phái và các tổ chức dân chủ ở miền Bắc Triều Tiên
đã họp hội nghị liên tịch, quyết định bầu cử Quốc hội để tiến tới thành lập Chính
phủ dân chủ. Ngày 21 – 8 – 1948, Quốc hội họp và tuyên bố thành lập Cộng hòa


dân chủ nhân dân Triều Tiên. Như vậy, trên bán đảo Triều Tiên đã xuất hiện hai
nhà nước đối lập nhau, đó là hậu quả của cuộc chiến tranh lạnh.


Đến thời điểm này, ―Chính sách ngăn chặn‖ của Mĩ cũng thất bại ở nhiều nơi,
nhiều nước ở châu Âu, châu Á, sau khi giành được độc lập đã tuyên bố đi lên chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa xã hội ngày càng lớn mạnh. Liên Xô không bị suy yếu như
Mĩ mong đợi, mà ngày càng hùng mạnh, vững chắc hơn trước. Kế hoạch 5 năm
lần thứ 4 (1946 – 1950) đã hồn thành khơi phục kinh tế trước thời hạn (4 năm 3
tháng). Năm 1950, sản lượng công nghiệp Liên Xô tăng 73% so với trước chiến
tranh; năm 1949, Liên Xô đã chế tạo thành công bom ngun tử, khiến Mĩ khơng
cịn độc quyền thứ vũ khí này nữa.


Ở các nước Đơng Âu, trong những năm 1947 – 1949, nhân dân các nước này lần
lượt hồn thành cơng cuộc cách mạng dân chủ nhân dân và bước vào thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Tất cả các mưu toan ngăn chặn con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của các nước này đều lần lượt thất bại.


Ở châu Á, tình hình cũng biến đổi nhanh chóng, làm thất bại ―chính sách ngăn
chặn‖ của Mĩ. Từ năm 1947, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt
Nam bước vào giai đoạn mới và ngày càng thu được thắng lợi to lớn. Đến năm
1954 với chiến thắng Điện Biên Phủ thì sự thất bại của Mĩ trong ―chính sách ngăn
chặn‖ đã trở nên quá rõ ràng. Tháng 10 – 1949, nước Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa ra đời đánh dấu hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới hình thành từ từ Âu sang
Á, làm cho so sánh lực lượng giữa hai phe thay đổi có lợi cho chủ nghĩa cộng sản.
Để thực hiện ―chính sách ngăn chặn‖ các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào giải
phóng dân tộc đang phát triển mạnh từ sau năm 1945, Mĩ và các nước phương Tây
đã tiến hành thành lập các khối quân sự và các căn cứ quân sự khắp nơi trên thế
giới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

trọng của chính sách chiến tranh lạnh của Mĩ chống lại Liên Xô và các nước xã


hội chủ nghĩa khác. Năm 1955, Tây Đức được kết nạp vào NATO làm cho quan
hệ Đông – Tây càng trở nên căng thẳng. Trước tình hình đó, tháng 5 – 1955, Liên
Xơ và các nước Anbani(2), Bungari, Hungari, Cộng hòa dân chủ Đức, Ba Lan,
Rumani và Tiệp Khắc đã tổ chức Hội nghị ở Vacsava và kí hiệp ước hữu nghị, hợp
tác và tương trợ (14 – 5 – 1955) với thời hạn 20 năm, nhằm gìn giữ an ninh của
các hội viên, duy trì hịa bình ở châu Âu… Hiệp ước Vacsava còn quy định rằng
khi hiệp ước an ninh tập thể toàn châu Âu được kí kết thì hiệp ước Vacsava sẽ hết
hiệu lực. Điều đó nói lên tính chất phịng thủ của hiệp ước này.


Sự ra đời của hai khối quân sự lớn nhất tồn cầu do Mĩ và Liên Xơ đứng đầu, đối
địch nhau, đều chạy đua vũ trang, trang bị những vũ khí hiện đại để tăng cường
sức mạnh của khối mình, đã làm cho tình hình thế giới càng căng thẳng.


Nhằm hỗ trợ cho khối NATO và tăng cường bao vây Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa, Mĩ và các đồng minh của mình đã thành lập một loạt các khối quân sự
và căn cứ quân sự khác rải ráctrên thế giới. Ở Đông Bắc Á, tháng 9 năm 1951,
Hiệp ước an ninh Mĩ – Nhật được kí kết; ở Nam Thái Bình Dương, khối ANZUS
được thành lập (9 - 1951) gồm Mĩ, Ôxtrâylia, Niu Di lân; ở Đông Nam Á, khối
SEATO bao gồm Mĩ, Anh, Pháp, Ôxtrâylia, Niu Di lân, Pakixtan, Thái Lan và
Philippin được thiết lập vào tháng 9 – 1954; ở Trung Cận Đông khối CENTO (gọi
tắt là khối Trung Tâm) gồm Anh, Thổ Nhĩ Kỳ, Iran và Irắc được thành lập năm
1955 (lúc đầu gọi là khối Batđa, nó dựa vào trên Hiệp ước Batđa kí ngày 24 – 2 –
1955, giữa Irắc – Thổ Nhĩ Kỳ, sau đó các nước nói trên tham gia, khi cách mạng
Irắc thành công (7 – 1958), Irắc rút khỏi khối Batđa, khối này chuyển trụ sở sang
Ancara (năm 1959) và đổi tên thành khối CENTO. Những khối quân sự này cùng
với trên 2000 căn cứ quân sự của Mĩ rải rác nhiều nơi trên thế giới hình thành thế
bao vây; cô lập Liên Xô và và các nước xã hội chủ nghĩa.


Bên cạnh đó, Mĩ cịn đưa ra hàng chục vạn qn đóng ở nước ngồi. Những năm
1968 – 1969, Mĩ đưa 1,5 triệu quân đóng ở nước ngoài trong tổng số 3.499.000


quân thường trực của Mĩ, trong đó 60 vạn qn ở Đơng Dương, 32 vạn quân ở
châu Âu, 28 vạn ở Nhật Bản và nhiều đảo khác.


Đáp lại, Liên Xô cũng đưa hàng chục vạn quân đóng ở các nước Đông Âu (tập
trung ở Đông Đức), ở Mông Cổ và biên giới Xơ – Trung.


Mĩ có bom nguyên tử vào năm 1945, lập tức 4 năm sau, vào khoảng tháng 9 –
1949, Liên Xô cũng chế tạo thành công loại bom này, phá thế độc quyền bom
nguyên tử của Mĩ. Đến năm 1957, khi Liên Xơ phóng vệ tinh nhân tạo thành cơng
thì cũng đạt được sự cân bằng về vũ khí chiến lược với Mĩ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Nhưng ngay sau đó, cuộc chạy đua vũ trang giữa Liên Xô và Mĩ chuyển sang
trạng thái hịa hỗn, hợp tác giải trừ quân bị. Động thái này có dấu hiệu từ năm
1969. Lý do Mĩ, đang sa lầy ở Việt Nam, muốn thốt khỏi tình trạng đó, những
dấu hiệu sa sút nền kinh tế; Liên Xơ cũng có nhiều khó khăn về kinh tế, đặc biệt là
vấn đề mối quan hệ giữa hai miền của nước Đức, cuộc xung đột biên giới Liên Xô
– Trung (từ tháng 3 đến tháng 6 - 1969). Tình hình đó buộc hai nước Mĩ – Xơ phải
chuyển sang hịa hỗn, tìm sự nhân nhượng của nhau.


Tuy nhiên, sự hịa hỗn này bị chấm dứt khoảng cuối năm 1980, khi Roonan
Rigân trúng cử Tổng thống Mĩ. Rigân lên cầm quyền trong bối cảnh tình hình thế
giới có những sự kiện lớn và đang diễn ra bất lợi cho Mĩ: vừa thất bại trong cuộc
chiến ở Việt Nam cách đó khơng lâu, đến năm 1979, Mĩ lại thất bại ở Iran,… tình
hình đó làm địa vị của Mĩ bị giảm sút trên thế giới. Trong khi đó, Liên Xơ lại đưa
qn vào Apganixtan, Liên Xơ cịn làm hậu thuẫn cho Ba Lan để chính phủ nước
này tun bố ―tình trạng chiến tranh‖ nhằm trấn áp các thế lực đối lập ở Ba Lan
(từ ngày 13 – 12 – 1981).


Trước tình hình đó, Rigân phản ứng quyết liệt bằng việc thực hiện chạy đua vũ
trang mạnh mẽ nhằm phá thế cân bằng về chiến lược quân sự với Liên Xơ, khơi


phục lại vị trí đứng đầu về quân sự. Cuộc chạy đua vũ trang lớn trong lịch sử giữa
hai nước Liên Xô lại diễn ra suốt từ năm 1980 đến năm 1987. Từ năm 1980 đến
năm 1986, ngân sách quân sự tăng 50%, sau đó có giảm đi chút ít. Năm 1982,
ngân sách quân sự của Mĩ chiếm 7,4% tổng sản phẩm quốc gia (GNP). Tháng 11 –
1983, Rigân cho triển khai tên lửa tầm trung (1) ―Pershing‖ và ―Cruise‖ ở cộng
hòa Liên bang Đức, Bỉ, Hà Lan và một số nước châu Âu khác hướng vào Liên Xô
và Đông Âu. Ngày 23 tháng 3 năm 1983, Rigân lại đề ra kế hoạch ―Chiến tranh
giữa các vì sao‖ (SDI) với chi phí lên tới 26 tỉ USD trong 5 năm. Để chống lại các
hành động của Liên Xô, Rigân tiến hành giải tỏa các điều luật của Quốc hội về hạn
chế quyền chủ động của Tổng thống. Do đó, Tổng thống hồn tồn chủ động tiền
hành các chiến dịch ở Grênađa (1983), ở Libi (1986) và cung cấp vũ khí cho quân
nổi loạn ở Apganixtan. Ở vùng Trung Cận Đông, Rigân tiến hành một loạt những
biện pháp để giữ vững vị trí của họ ở khu vực này: thiết lập một loạt căn cứ quân
sự ở Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập, Ôman,… thành lập ―lực lượng phản ứng nhanh‖ (RDF)
gồm 11 000 người…


Để đối phó lại cuộc chạy đua vũ trang của Mĩ, Liên Xô cũng buộc phải tăng ngân
sách quân sự lên tới 15% tổng sản phẩm quốc dân. Liên Xô cũng triển khai các tên
lửa tầm trung SS4, SS5 và đặc biệt là SS20 ở các nước Đông Âu và ở lãnh thổ
châu Á của mình.


Tuy nhiên, khi Goobachốp lên nắm chính quyền ở Liên Xơ, quan hệ Xơ – Mĩ bắt
đầu có những biến chuyển khác trước, tình hình quan hệ giữa hai nước từng bước
chuyển sang hòa dịu.


 Các cuộc xung đột quân sự khu vực:


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

nhau. Thế nhưng họ lại đụng độ với nhau thông qua những cuộc chiến tranh cục
bộ hay những xung đột quân sự khu vực.



 Cuộc chiến tranh cục bộ ở Triều Tiên (1950 – 1953)


 Vụ quốc hữu hóa kênh Xuyê và cuộc chiến tranh xâm lược Ai Cập của
Anh, Pháp và Ixaren (1956)


 Sự đối đầu Mĩ – Xô cũng diễn ra trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần


thứ nhất (1946 – 1954)


 Hội nghị Băng Đung


 Các cuộc xung đột ở Trung Đông


 Cuộc chiến ở Angôla


 Cuộc chiến tranh ở Apganixtan


 Vấn đề Cămpuchia


 Nội chiến ở Nicaragoa


<b>2.</b> <b>Triều Tiên bên bờ vực cuộc chiến tranh </b>


Sau khi đánh bại quân Thanh trong Chiến tranh Trung - Nhật (1894-1895), lực
lượng Nhật Bản lưu lại và chiếm đóng những phần đất quan trọng chiến lược của
Triều Tiên. Mười năm sau đó, người Nhật đánh bại hải quân Đế quốc Nga trong
Chiến tranh Nga - Nhật (1904-1905), đưa Nhật Bản trở thành một cường quốc.
Nhật Bản chiếm đóng bán đảo ngược lại ý muốn của chính phủ Triều Tiên, mở
rộng tầm kiểm soát của họ lên các cấp chính quyền địa phương bằng vũ lực, và
cuối cùng sát nhập Triều Tiên vào Nhật Bản tháng tám năm 1910.



Tại Hội nghị Yalta vào tháng hai năm 1945, lãnh đạo Liên Xô Joseph Stalin kêu
gọi lập các vùng đệm tại châu Á và châu Âu. Stalin tin rằng Liên Xô phải có tiếng
nói quyết định tại Trung Quốc và để đổi lại Liên Xô sẽ tham chiến chống Nhật
Bản hai hoặc ba tuần sau khi Đức đầu hàng. Ngày 6 tháng 8 năm 1945, Liên Xô
tuyên chiến với Đế quốc Nhật Bản và vào ngày 8 tháng 8 bắt đầu tấn cơng phía
bắc Bán đảo Triều Tiên. Như đã thỏa thuận với Mỹ, Liên Xô dừng quân lại ở vĩ
tuyến 38 độ bắc, quân đội Mỹ ở phần phía Nam của bán đảo đầu tháng 9 năm
1945. Nhiều người Triều Tiên đã tổ chức chính trị trước khi quân đội Mỹ đến.
Ngày 10 tháng 8 năm 1945, khi mà sự đầu hàng của Nhật Bản trơng thấy rõ, chính
phủ Mỹ khơng biết chắc là Liên Xơ có tơn trọng vào lời đề nghị đã được mình dàn
xếp trước đó tại Hội nghị Ianta hay khơng. Một tháng trước đó, hai vị đại tá là
Dean Rusk và Bonesteel đã vẽ đường phân giới tại vĩ tuyến 38 độ trong vòng nửa
tiếng đồng hồ, sử dụng một bản đồ của Hội địa lý Quốc gia nước Mỹ để tham
khảo. Rusk, sau này là Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ có nói rằng ―quân đội Mỹ lúc đó
phải đối mặt với sự thiếu hụt lực lượng có sẵn tại chỗ cũng như gặp phải các yếu
tố bất lợi về thời gian và quãng cách khiến quân đội khó mà có thể tiến về phía bắc
nhanh chóng trước khi qn đội Liên Xơ tiến vào khu vực‖.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Tháng 12 năm 1945, Mỹ và Liên Xô thỏa thuận quản lý Triều Tiên dưới một Ủy
ban Hỗn hợp Mỹ - Liên Xô. Thỏa thuận cũng nói rằng Triều Tiên sẽ được độc lập
sau bốn năm quốc tế giám sát. Tuy nhiên, cả Mỹ và Liên Xô đã cho phép phần họ
quản lý có một chính phủ do người Triều Tiên lãnh đạo trong khi đó các chính phủ
của hai phần Triều Tiên lại ưa chuộng theo ý thức hệ của lực lượng chiếm đóng
mình. Các sự dàn xếp này bị đa số người dân Triều Tiên bác bỏ và biến thành các
cuộc nổi loạn dữ dội ở miền bắc và biểu tình ở miền nam.


Tại Nam Triều Tiên, một nhóm cánh tả chống ủy trị được biết với tên gọi Hội
đồng Đại diện Dân chủ (Representative Democratic Council) ra đời với sự tiếp sức
của lực lượng Mỹ mặc dù có một nghịch lý là nhóm này lại chống các thỏa ước do


chính Mỹ bảo trợ. Vì người Triều Tiên đã chịu nhiều đau khổ dưới ách thực dân
của Nhật Bản trong suốt 35 năm nên đa số người dân Triều Tiên chống đối một
thời kỳ kế tiếp dưới sự cai trị của ngoại quốc. Sự chống đối này đã làm cho Mỹ
phải bãi bỏ những thỏa thuận được Liên Xô bảo trợ. Mỹ không muốn thấy một
chính phủ tả khuynh tại Nam Triều Tiên nên đã kêu gọi bầu cử tại Triều Tiên. Vì
dân số của miền Nam đông gấp đôi so với dân số miền Bắc, Liên Xô biết rằng
Kim Nhật Thành sẽ bị thất cử nên miền Bắc không tham gia tổng tuyển cử thống
nhất hai miền. Các cuộc bầu cử tự do mà Mỹ và Liên hiệp quốc giúp đỡ tổ chức
được tiến hành chỉ ở miền Nam.


Chính phủ đắc cử được Lý Thừa Vãn, một người có tư tưởng chống Cộng sản lãnh
đạo. Ông là một người Triều Tiên bị Nhật Bản cầm tù từ khi còn là một thanh niên
và rồi trốn thốt sang Mỹ nơi ơng lấy được các cấp bằng đại học và hậu đại học tại
Đại học Georgetown, Đại học Harvard và Đại học Princeton. Các đảng phái cánh
tả tẩy chay bầu cử để phản đối sự ủng hộ của Mỹ dành cho Lý và sự đàn áp của
Mỹ đối với các phong trào chính trị bản xứ. Về phần Liên Xô, họ chấp thuận và
gia tăng nỗ lực giúp chính quyền cộng sản ở miền Bắc. Nhờ từng là một chiến
binh chống Nhật, tài năng chính trị, mối liên hệ với Liên Xô nên Kim Nhật Thành
vươn lên thành lãnh đạo của chính quyền mới và dẹp tan bất cứ chống đối nào đến
quyền lực của ông.


Năm 1949, cả hai lực lượng của Liên Xô và Mỹ rút khỏi Triều Tiên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

<b>III.</b> <b>CHIẾN TRANH TRIỀU TIÊN VÀ HẬU QUẢ </b>
<b>1.</b> <b>Chiến tranh bùng nổ </b>


Lý Thừa Vãn và Kim Nhật Thành mong muốn thống nhất bán đảo và đã tiến hành
các cuộc tấn công quân sự dọc theo ranh giới suốt năm 1949 và đầu năm 1950.
Mặc dù Kim Nhật Thành và những đồng sự thân tín tin vào việc thống nhất đất
nước bằng vũ lực, Stalin thì do dự khơng muốn bị lơi cuốn vào cuộc chiến mà có


thể kích động gây ra một cuộc chiến với Mỹ.


Ngày 12 tháng 1 năm 1950, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Dean Acheson đã nói rằng
chu vi phịng thủ Thái Bình Dương được hình thành gồm có Quần đảo Aleutian,
Nhật Bản, và Philippines, điều đó ám chỉ rằng Mỹ có thể khơng chiến đấu vì Triều
Tiên. Acheson nói sự phịng thủ Triều Tiên sẽ là trách nhiệm của Liên hiệp quốc.
Vào giữa năm 1949, Kim Nhật Thành gây áp lực với Xtalin rằng thời cơ đã đến để
thống nhất bán đảo Triều Tiên. Kim Nhật Thành cần sự giúp đỡ của Liên Xô để
tiến hành thành công một cuộc tấn công ngang qua bán đảo nhiều đồi núi và địa
hình khó khăn. Tuy nhiên, Stalin từ chối giúp đỡ vì e ngại lực lượng Bắc Triều
Tiên thiếu chuẩn bị và vì Mỹ có thể tham chiến.


Suốt một năm sau, Bắc Triều Tiên đã rèn luyện quân đội của họ thành một cỗ máy
chiến tranh có tính tấn công khá ghê gớm, một phần dựa theo khuôn mẫu của một
lực lượng cơ giới Liên Xô nhưng được tăng cường sức mạnh chính yếu bởi một
làn sóng trở về của những người Triều Tiên đã phục vụ trong Quân Giải phóng
Nhân dân của Trung Quốc từ thập niên 1930. Đầu năm 1950 thời gian quyết định
tấn cơng càng gấp rút đối với cả Bình Nhưỡng và Moskva vì thời gian này các lực
lượng an ninh của Lý Thừa Vãn đã quét sạch được gần như tất cả các du kích qn
do Bình Nhưỡng gửi vào Nam Triều Tiên trong năm 1949. Khả năng thống nhất
đất nước bằng chiến tranh du kích dường như tiêu tan, và chính thể của Lý Thừa
Vãn đang giành được lợi thế. Kim Nhật Thành đã có một chọn lựa cuối cùng là tấn
công xâm chiếm quy ước để thống nhất Triều Tiên dưới sự kiểm sốt của ơng
trước khi Nam Triều Tiên trở nên đủ mạnh để có thể tự vệ.


Vào năm 1950, quân đội Bắc Triều Tiên được trang bị với những vũ khí Xơ Viết
tuy đã lỗi thời nhưng nó vẫn có lợi thế vượt trội hơn nhiều so với lực lượng Nam
Triều Tiên về mọi mặt. Ngày 30 tháng 1 năm 1950, Stalin, qua điện báo, thông
báo cho Kim Nhật Thành hay rằng ơng sẵn lịng giúp Kim Nhật Thành trong kế
hoạch thống nhất Triều Tiên. Trong những cuộc thảo luận theo sau đó với Kim


Nhật Thành, Stalin đề nghị: ông muốn lãnh đạo cuộc chiến và nói rằng một năm
tối thiểu 25 ngàn tấn hàng viện trợ có lẽ sẽ giúp ích cho Bắc Triều Tiên chiến
thắng. Sau những lần viếng thăm Moskva của Kim Nhật Thành trong tháng ba và
tháng tư năm 1950, Stalin chấp thuận một cuộc tấn công.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

xướng mạnh mẽ cho nó. Sự phản đối quyết liệt của Lâm Bưu, người đáng lẽ đã
thống lĩnh các lực lượng Trung Quốc trong cuộc chiến khiến nhân vật này phải rời
Trung Quốc sang Liên Xô một thời gian.


Ngày 19/1/1950, Kim Nhật Thành nói với đại sứ Liên Xơ rằng ơng ta có kế hoạch
tấn cơng xuống phía Nam để thống nhất đất nước. Stalin gửi một bức điện thể hiện
ủng hộ kế hoạch, nhưng không nói gì với Mao Trạch Đơng và cũng đồng ý cung
cấp trong năm 1950 vũ khí và trang thiết bị đã cam kết cho năm 1951, để Kim
Nhật Thành có thể tăng thêm 3 sư đoàn, nâng quân đội Bắc Triều Tiên lên 10 sư
đoàn. Kim Nhật Thành bảo đảm với Stalin rằng ơng ta có thể chiếm xong Hàn
Quốc trước khi người Mỹ có thời gian cũng như ý định can thiệp. Mục đích của
Stalin là muốn kiểm sốt bán đảo Triều Tiên và dùng các cảng khơng bao giờ bị
đóng băng là Inchon và Pusan cho hải quân Liên Xô, thay thế cho việc mất cảng
Đại Liên (Trung Quốc) mà quân đội Liên Xô đã kiểm soát trong tháng 8/1945.
<b>2.</b> <b>Diễn biến </b>


<b>Bắc Triều Tiên tấn công </b>


Cuộc tấn công của Quân đội Nhân dân Triều Tiên xảy ra vào sáng sớm ngày chủ
nhật 25 tháng 6 năm 1950 bằng cách vượt qua vĩ tuyến 38 và được hậu thuẫn bởi
một trận địa pháo bắn phá dữ dội vào phía trước.


Được trang bị tốt với 135.438 binh sĩ và 242 xe tăng bao gồm 150 xe tăng T-34
của Liên Xô chế tạo, quân đội Bắc Triều Tiên bắt đầu cuộc chiến với khoảng 180
máy bay, gồm có 40 máy bay tiêm kích Yak và 70 máy bay ném bom tấn công.


Tuy vậy, lực lượng hải qn vẫn cịn khá thơ sơ (so với hải quân Hoa Kỳ gần đó).
Điểm yếu trầm trọng nhất của Bắc Triều Tiên là thiếu một hệ thống tiếp vận đáng
tin cậy để di chuyển đồ tiếp liệu về miền Nam khi quân đội của họ tiến lên về phía
trước, nhưng lực lượng Nam Triều Tiên còn yếu hơn và thiếu thốn rất nhiều trang
bị nếu đem so với Bắc Triều Tiên. Hàng ngàn người dân Triều Tiên chạy loạn về
miền nam bị bắt buộc xách tay đồ tiếp liệu. Rất nhiều người sau đó mất mạng vì
các cuộc khơng kích của Bắc Triều Tiên.


Quân đội Nam Triều Tiên có 64.697 binh sĩ được quân đội Mỹ huấn luyện và
trang bị nhưng chỉ gồm các vũ khí hạng nhẹ, khơng có xe tăng và rất thiếu xe bọc
thép và pháo binh. Quân đội Nam Triều Tiên cũng khơng có máy bay tiêm kích,
hoặc bất cứ vũ khí chống tăng nào. Khơng có đơn vị chiến đấu nào của ngoại quốc
hiện diện tại đất nước khi chiến tranh bắt đầu, nhưng có nhiều lực lượng Hoa Kỳ
đóng quân ở Nhật Bản gần đó.


Cuộc tấn cơng được miền bắc hoạch định tốt với khoảng 135.000 quân đạt được
những thành cơng chớp nhống và bất ngờ. Bắc Triều Tiên tấn công một số nơi
quan trọng gồm có Kaesŏng, Chuncheon, Uijeongbu và Ongjin.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

trên bộ tiếp tục, không quân Bắc Triều Tiên tiến hành oanh tạc Phi trường Kimpo
gần Seoul. Các lực lượng Bắc Triều Tiên chiếm được Seoul trưa ngày 28 tháng 6.
Tuy nhiên, niềm hy vọng của Bắc Triều Tiên về việc chính phủ của Lý Thừa Vãn
đầu hàng và sự giải tán quân đội Nam Triều Tiên tan thành mây khói khi các
cường quốc ngoại quốc can thiệp vào cuộc chiến.


<b>Phản ứng của phương Tây </b>


Cuộc tấn công Nam Triều Tiên đến rất bất ngờ đối với Mỹ và các cường quốc
phương Tây khác. Trong tuần trước đó, Acheson đã nói trước Quốc hội Mỹ vào
ngày 20 tháng 6 là một cuộc chiến tranh như vậy khó có thể xảy ra.



Việc Mỹ tham chiến có một số lý do như sau. Harry Truman là tổng thống thuộc
Đảng Dân chủ Hoa Kỳ đang bị nhiều áp lực từ trong nước vì quá nhẹ tay đối với
các nước theo chủ nghĩa cộng sản. Trong số những người gây áp lực với tổng
thống có Thượng nghị sĩ Đảng Cộng hòa là Joseph McCarthy, đặc biệt gay gắt
nhất là những người tố cáo Đảng Dân chủ đã làm mất Trung Hoa vào tay cộng
sản. Sự can thiệp quân sự cũng là một việc áp dụng quan trọng học thuyết mới có
tên là Học thuyết Truman, chủ trương chống đối lại chủ nghĩa cộng sản ở bất cứ
nơi đâu mà nó tìm cách mở rộng. Những bài học của Hiệp ước Munich năm 1938
cũng có ảnh hưởng đến quyết định của Washington, khiến họ tin rằng nhân
nhượng các quốc gia hiếu chiến chỉ khuyến khích thêm những hành động bành
trướng.


Thay vì hối thúc Quốc hội tuyên chiến, Truman nghĩ rằng hành động như vậy làm
mất thời giờ và gây náo động khơng cần thiết trong khi tình hình đang rất là cấp
bách, ông quay sang xin chấp thuận từ Liên Hiệp quốc.


Ngay ngày chiến tranh chính thức bắt đầu (25 tháng 6), Liên Hiệp quốc nhanh
chóng thảo ra Nghị quyết số 82 kêu gọi:


Chấm dứt Tất cả các hoạt động thù địch và Bắc Triều Tiên rút lui về Vĩ tuyến 38;
Thành lập một Ủy ban Đặc trách về Triều Tiên của Liên Hiệp quốc để giám sát
tình hình và báo cáo lại cho Hội đồng Bảo an;


Yêu cầu tất cả các thành viên của Liên Hiệp quốc ủng hộ nghị quyết này của Liên
Hiệp quốc, và tự kiềm chế không giúp đỡ cho chính phủ Bắc Triều Tiên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

lượng bộ binh (Nam Triều Tiên phần còn lại), 86% lực lượng hải quân, và 93%
không quân.



Liên Xô và đồng minh của họ không thừa nhận giải pháp này với lý do là nó bất
hợp pháp vì có một thành viên thường trực của hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc
vắng mặt trong cuộc bỏ phiếu. Đối đầu lại điều này, quan điểm đưa ra là một
thành viên thường trực của hội đồng phải thật sự phủ quyết để đánh bại giải pháp.
Chính phủ Bắc Triều Tiên cũng không đồng ý và lý giải rằng cuộc xung đột này là
một cuộc nội chiến, và vì vậy khơng nằm trong tầm giải quyết của Liên Hiệp
Quốc. Năm 1950, một giải pháp của Liên Xô đưa ra kêu gọi chấm dứt thù địch và
rút các lực lượng ngoại quốc đã bị bác bỏ.


Dư luận cơng chúng Mỹ đồng lịng đứng sau cuộc can thiệp này. Tuy nhiên, sau
đó Truman bị chỉ trích nặng nề vì khơng xin phép tun chiến từ Quốc hội trước
khi gửi quân sang Triều Tiên. Vì thế, "Chiến tranh của Truman" bị một số người
nói rằng nó vi phạm tinh thần và văn ngơn của Hiến pháp Hoa Kỳ.


<b>Mỹ can thiệp </b>


Mặc dù việc giảm bớt lực lượng Hoa Kỳ và Đồng minh sau Chiến tranh thế giới
thứ hai gây ra nhiều vấn đề tiếp vận trầm trọng cho quân đội Mỹ trong vùng
nhưng Mỹ vẫn có đủ lực lượng tại Nhật Bản để đối phó với quân đội Bắc Triều
Tiên với các trang bị đa số đã lỗi thời của Liên Xô. Các lực lượng này của Mỹ
nằm dưới quyền chỉ huy của Thống tướng Douglas MacArthur. Ngoài các đơn vị
của Khối thịnh vượng chung, khơng có quốc gia nào khác cung cấp nguồn nhân
lực đáng kể.


Sau khi nghe báo cáo về chiến sự toàn diện nổ ra tại Triều Tiên, Tổng thống
Truman ra lệnh cho Tướng MacArthur chuyển đạn dược đến cho quân đội của
Nam Triều Tiên trong lúc đó dùng phương tiện hàng khơng để che chở việc di tản
các công dân Hoa Kỳ. Truman không đồng ý tiến hành các cuộc không kích đơn
phương của Mỹ chống lại các lực lượng Bắc Triều Tiên theo ý kiến các cố vấn của
ông, nhưng ông đã ra lệnh cho Hạm đội Một bảo vệ Đài Loan của Tưởng Giới


Thạch, chấm dứt chính sách không can thiệp vào chuyện nội bộ của Trung Hoa
vẫn được Mỹ thực hiện trước đó. Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc yêu cầu được
tham chiến tại Triều Tiên tuy nhiên bị người Mỹ từ chối vì người Mỹ sợ chuyện
này chỉ khiến Cộng hịa Nhân dân Trung hoa can thiệp vào cuộc chiến.


Sự can thiệp lớn nhất và đầu tiên của quân đội ngoại quốc là Lực lượng Đặc nhiệm
Smith (Task Force Smith) của Hoa Kỳ, một phần tử của Sư đoàn Bộ binh số 24 Bộ
binh của Mỹ đóng ở Nhật Bản. Ngày 5 tháng 7, lực lượng này chiến đấu lần đầu
tiên ở Osan và bị bại trận với thương vong cao. Lực lượng chiến thắng của Bắc
Triều Tiên tiến quân về phía nam, và Sư đoàn bộ binh số 24 với sức mạnh còn
phân nửa bị buộc phải rút quân về Taejeon là nơi cũng bị rơi vào tay quân Bắc
Triều Tiên. Tướng William F. Dean bị bắt làm tù binh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

Pusan. Trong khi quân đội Bắc Triều Tiên tiến công, họ vây bắt và tàn sát những
công chức dân sự. Ngày 20 tháng 8, MacArthur gởi một thông điệp cảnh báo Kim
Nhật Thành rằng ông ta phải chịu trách nhiệm cho các hành động tàn bạo chống
quân đội Liên Hiệp Quốc.


Vào tháng chín, chỉ có vùng xung quanh thành phố Pusan—khoảng 10% Bán đảo
Triều Tiên—vẫn còn nằm trong tay lực lượng đồng minh. Với sự hỗ trợ tiếp vận
lớn lao của Mỹ, không quân yểm trợ, và viện quân, các lực lượng của Hoa Kỳ và
Nam Triều Tiên đã giữ vững được phòng tuyến dọc theo sông Nakdong. Hành
động bám giữ liều lĩnh này trở thành nổi tiếng tại Hoa Kỳ với tên gọi là Vành đai
Pusan. Mặc dù có thêm lực lượng của Liên Hiệp Quốc đến tiếp tay, tình thế trở
nên nguy kịch, và dường như Bắc Triều Tiên sẽ thành công trong việc thống nhất
bán đảo.


<b>Đồng minh củng cố lực lượng </b>


Đối diện với các cuộc tấn cơng dữ dội của Bắc Triều Tiên, phịng tuyến của đồng


minh trở thành một trận đánh liều lĩnh mà người Mỹ gọi là Trận Vành đai Pusan.
Tuy nhiên, Bắc Triều Tiên lại không thành công trong việc chiếm Pusan.


Không lực Hoa Kỳ đến với số lượng lớn, thực hiện 40 phi vụ một ngày trong
những hành động hỗ trợ bộ binh, nhắm vào các lực lượng Bắc Triều Tiên nhưng
cũng gây ra sự tàn phá to lớn đến người dân cũng như các thành phố. Các máy bay
ném bom chiến thuật (đa số là oanh tạc cơ B-29 có căn cứ ở Nhật Bản) gây ngừng
lưu thông đường sá và đường xe hỏa trong ban ngày, và tàn phá 32 cây cầu thiết
yếu không chỉ cần thiết cho chiến tranh mà còn quan trọng đối với việc di tản của
người dân. Xe lửa dùng cho cả quân sự và dân sự đều phải nằm chờ đợi lúc ban
ngày bên trong các đường hầm.


Khắp nơi trên Triều Tiên, các máy bay ném bom Hoa Kỳ thi nhau đánh bom các
kho tiếp liệu chính và phá hủy các nhà máy lọc dầu và hải cảng nhận hàng nhập
cảng cũng như tiếp liệu quân sự để làm cạn kiệt lực lượng Bắc Triều Tiên. Không
lực hải quân cũng tấn công các điểm chuyển vận. Lực lượng Bắc Triều Tiên đã bị
kéo giãn ra trên toàn bán đảo, và sự tàn phá do bị các máy bay ném bom của Hoa
Kỳ gây ra đã ngăn ngừa đồ tiếp liệu cần thiết tới lực lượng Bắc Triều Tiên ở miền
nam.


Kim Nhật Thành khiếp sợ khi chứng kiến hiệu quả tàn phá của không quân Mỹ mà
quân Bắc Triều Tiên khơng có cách nào ngăn chặn được. Kim khẩn cầu Stalin hỗ
trợ quân sự, nếu không từ Liên Xô thì cũng từ các quốc gia cộng sản khác nhưng
không muốn gửi quân và đối mặt với nguy cơ gây chiến cùng Mỹ, Stalin gửi một
bức điện cho Mao Trạch Đơng: ―Theo tình hình hiện nay, nếu Trung Quốc có thể
hỗ trợ quân sự cho Bắc Triều Tiên thì 5-6 sư đồn sẽ là ổn thỏa để tiến tới vĩ tuyến
38. Vai trò của họ sẽ là quân tình nguyện và dĩ nhiên, họ nằm dưới sự chỉ huy của
Trung Quốc‖.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

bách đưa vào Triều Tiên; vào cuối tháng tám, Hoa Kỳ có trên 500 xe tăng loại


trung tại vành đai Pusan. Đầu tháng chín, các lực lượng Liên Hiệp Quốc và Nam
Triều Tiên được củng cố mạnh hơn và đông hơn lực lượng quân sự Bắc Triều Tiên
(đồng minh 180.000 quân so với Bắc Triều Tiên 100.000 quân). Vào thời điểm đó,
đồng minh bắt đầu một cuộc phản công.


Để chống lại sức mạnh của không quân Mỹ, Stalin buộc phải đem hàng trăm máy
bay chiến đấu MiG sang Triều Tiên. Không quân Liên Xô đào tạo các phi công
Trung Quốc hoặc dùng phi cơng của mình mặc quân phục Trung Quốc và nói
tiếng Trung để vẫn giả vờ rằng Liên Xô không can thiệp và tránh xung đột trực
tiếp với Mỹ.


<b>Tái chiếm Nam Triều Tiên </b>


Đối diện với các cuộc tăng viện áp đảo của Liên Hiệp Quốc, lực lượng Bắc Triều
Tiên tự nhận thấy mình có qn số ít hơn và có hỗ trợ tiếp liệu yếu kém. Họ cũng
thiếu hỗ trợ của không quân và hải quân so với Mỹ. Để giảm sức ép đối với Vành
đai Pusan, Tướng MacArthur, tổng tư lệnh lực lượng Liên Hiệp Quốc tại Triều
Tiên, đã ra lệnh cho một cuộc đổ bộ từ biển vào bờ xa phía sau phịng tuyến của
Bắc Triều Tiên tại Incheon (Nhân Xuyên), một thành phố và là hải cảng lớn ven
bờ biển Hoàng Hải của Nam Triều Tiên, gần Seoul.


Thủy triều cao và sự hiện hữu của một lực lượng quân địch mạnh làm cho cuộc đổ
bộ này trở thành một chiến dịch cực kỳ mạo hiểm. MacArthur bắt đầu hoạch định
chiến dịch này vài ngày sau khi chiến tranh khởi sự nhưng Lầu Năm Góc mạnh
mẽ bác bỏ kế hoạch này. Cuối cùng khi được phép, MacArthur tập hợp Quân đoàn
X dưới quyền của Tướng Edward Almond gồm có 70.000 qn từ Sư đồn Thủy
qn lục chiến số 1, Sư đoàn Bộ binh số 7 và tăng phái với 8.600 quân người
Triều Tiên và ra lệnh cho họ đổ bộ tại Incheon trong Chiến dịch Chromite. Vào
lúc tấn công đổ bộ ngày 15 tháng 9, nhờ vào thám báo của các du kích qn Nam
Triều Tiên, sự cố tình tạo ra thơng tin sai lạc và các cuộc pháo kích kéo dài trước


khi đổ bộ, thêm vào đó lực lượng Bắc Triều Tiên có rất ít qn đóng tại Incheon
nên lực lượng Mỹ chỉ gặp sự chống trả yếu ớt khi họ đổ bộ lên Incheon.


Cuộc đổ bộ là một chiến thắng quyết định khi Qn đồn X tiến cơng tràn ngập
qn phịng thủ vốn ít hơn và đe dọa bao vây quân đội chính quy của Bắc Triều
Tiên. MacArthur nhanh chóng tái chiếm Seoul. Quân đội Bắc Triều Tiên gần như
bị cắt đứt, nhanh chóng rút lui về phía bắc; khoảng 25.000 đến 30.000 quay trở lại.


<b>Xâm chiếm Bắc Triều Tiên </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

đe dọa thấy rõ của cộng sản. Các vấn đề khác gồm có tác dụng tâm lý về việc tiêu
diệt được một quốc gia cộng sản và giải thoát các tù nhân chiến tranh.


Các lực lượng Liên Hiệp Quốc vượt qua biên giới tiến vào Bắc Triều Tiên đầu
tháng 10 năm 1950. Quân đoàn X của Mỹ đổ bộ từ biển vào bờ tại Wonsan và
Iwon. Hai nơi này đã bị quân đội Nam Triều Tiên tiến công trên bộ chiếm được.
Các lực lượng còn lại của Hoa Kỳ sát cánh với quân Nam Triều Tiên tiến quân
theo phía bờ tây của Triều Tiên và chiếm được Bình Nhưỡng ngày 19 tháng 10.
Đến cuối tháng 10, quân đội Bắc Triều Tiên tan rã nhanh chóng, và quân Liên
Hiệp Quốc bắt được 135.000 tù binh.


Cuộc tiến công của Liên Hiệp Quốc gây quan ngại rất lớn cho Trung Quốc. Họ lo
lắng lực lượng Liên Hiệp Quốc sẽ không dừng lại ở Sông Áp Lục là ranh giới giữa
Triều Tiên và Trung Quốc mà sẽ mở rộng chiến tranh vào lãnh thổ Trung Quốc.
Nhiều người ở Tây phương bao gồm Tướng MacArthur nghĩ rằng mở rộng chiến
tranh vào Trung Quốc là cần thiết. Tuy nhiên, Truman và những nhà lãnh đạo
khác không đồng ý, và MacArthur được lệnh phải cẩn trọng khi tiến tới biên giới
Trung Quốc. Dần dần, MacArthur khơng cịn quan tâm đến lệnh của Tổng thống
nữa và cho rằng quân đội Bắc Triều Tiên sẽ được tiếp tế qua các căn cứ tại Trung
Quốc nên các căn cứ đó phải bị dội bom. Tuy nhiên, trừ một vài dịp hiếm hoi, các


máy bay ném bom Liên Hiệp Quốc vẫn cách xa tầm bay đến Mãn Châu trong suốt
cuộc chiến.


<b>Trung Quốc tham chiến </b>


Trung Quốc cảnh cáo các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ qua các nhà ngoại giao trung lập
rằng họ sẽ can thiệp để bảo vệ nền an ninh quốc gia. Truman xem các lời cảnh báo
này như "một mưu toan táo bạo để hù dọa Liên Hiệp Quốc" và khơng coi trọng nó
lắm. Ngày 15 tháng 10 năm 1950, Truman đến Đảo Wake để họp ngắn ngủi với
MacArthur. Cục Tình báo Trung ương Mỹ trước đây có cho Truman biết rằng việc
Trung Quốc tham chiến là khơng thể xảy ra. MacArthur suy đốn rằng có ít rủi ro
về một cuộc chiến với Trung Quốc. MacArthur cho rằng Trung Quốc đã mất dịp
giúp Bắc Triều Tiên. Ơng ước tính Trung Quốc có 300.000 quân tại Mãn Châu với
khoảng từ 100.000-125.000 quân dọc theo Sơng Áp Lục; phân nửa qn số đó có
thể vượt qua sông Áp Lục. Nhưng Trung Quốc không có lực lượng khơng qn, vì
thế, "nếu Trung Quốc cố tràn xuống Bình Nhưỡng thì sẽ có một cuộc đại tàn sát".
MacArthur nhận định rằng Trung Hoa muốn tránh bị thiệt hại nặng nề.


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

được phái đến Moskva để tăng thêm cường độ cho những lý lẽ qua điện thoại của
Mao. Mao trì hỗn trong lúc chờ đợi sự chi viện lớn từ Liên Xô, hủy bỏ cuộc tấn
công đã hoạch định từ 13 tháng 10 đến 19 tháng 10. Tuy nhiên, sự giúp đỡ của
Liên Xô chỉ giới hạn cung cấp yểm trợ bằng không quân không quá 60 dặm Anh
(100 km) từ mặt trận. Các phi cơ MiG-15 của Liên Xô trong màu sắc Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa là một sự thách thức nghiêm trọng đối với các phi công Liên
Hiệp Quốc. Tại một khu vực có biệt danh là "Hành lang MiG" (MiG Alley - do
các lực lượng Liên Hiệp Quốc đặt), các phi cơ của Liên Xơ có ưu thế hơn đối thủ
với các phi cơ F-80 do Hoa Kỳ chế tạo (Lockheed F-80 Shooting Stars) cho đến
khi các phi cơ F-86 (North American F-86 Sabre) được triển khai. Người Trung
Quốc rất giận dữ trước việc tham chiến có giới hạn của Liên Xơ vì họ cứ đinh ninh
rằng họ đã được hứa cung ứng yểm trợ khơng qn tồn diện. Mỹ biết rõ vai trị


của Liên Xô nhưng vẫn giữ im lặng để tránh một khả năng leo thang chiến tranh
thành một cuộc chiến tranh hạt nhân.


Quân Trung Quốc đối mặt với quân đội Hoa Kỳ ngày 25 tháng 10 năm 1950 với
270.000 quân dưới quyền tư lệnh của tướng Bành Đức Hồi khiến cho Liên Hiệp
Quốc rất ngạc nhiên vì không lường trước được mức độ quân số đông đảo đến như
vậy. Tuy nhiên, sau những vụ đụng độ ban đầu, các lực lượng Trung Quốc rút lui
vào vùng núi. Các nhà lãnh đạo Liên Hiệp Quốc coi sự rút lui của Trung Quốc như
là một dấu hiệu yếu thế và đánh giá sai lầm trầm trọng khả năng tác chiến của
Trung Quốc. Thế nên các lực lượng Liên hiệp quốc tiếp tục tiến công về sông Áp
Lục khơng đếm xỉa gì đến những lời cảnh cáo của Bắc Kinh.


Tình báo Mỹ, sơ sài trong suốt giai đoạn này vì nhiều lý do, đã không làm việc
hiệu quả tại Bắc Triều Tiên cũng như đã từng không hiệu quả tại Nam Triều Tiên
trong những ngày có cuộc bao vây tại Vành đai Pusan. Quân Trung Quốc hành
quân bằng cách đi bộ và ngủ trong rừng nên giảm thiểu tối đa sự phát hiện của đối
phương. Trong một trường hợp có ghi chép kỹ càng, một quân đoàn của Trung
Quốc gồm có ba sư đồn hành qn bằng chân đất từ An Tung ở Mãn Châu, phía
bắc cách sông Áp Lục khoảng 286 dặm (460 km) đến nơi tập kết tại Bắc Triều
Tiên trong khoảng một thời gian dài từ 16 đến 19 ngày. Một sư đoàn của quân
đoàn này hành quân vào ban đêm trên những con đường núi ngoằn ngoèo, trung
bình đi được 18 dặm (29 km) một ngày trong vòng 18 ngày. Cuộc hành quân trong
bắt đầu từ sau khi chập tối lúc 19 giờ và kết thúc lúc 3 giờ sáng hôm sau. Những
phương án trú ẩn chống phi cơ phải hoàn thành trước 5 giờ 30 sáng. Tất cả mọi
người, thú vật và các trang bị được che giấu hay ngụy trang. Trong ban ngày chỉ
có các nhóm trinh sát được ngụy trang di chuyển về phía trước để chọn lựa khu
đóng qn ngồi trời của ngày hơm sau. Khi các đơn vị của Trung Quốc bắt buộc
phải hành quân vào ban ngày vì bất cứ lý do gì, họ luôn tuân thủ lệnh dừng lại
ngay tại chỗ và không cử động khi có máy bay xuất hiện trên đầu. Các sĩ quan có
quyền bắn hạ bất cứ binh sĩ nào vi phạm lệnh này.



</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

các lực lượng còn lại của Liên Hiệp Quốc. Thất bại của Quân đoàn 8 đã tạo nên
một cuộc rút lui dài nhất của một đơn vị quân đội Mỹ trong lịch sử. Tại miền
đông, trong Trận hồ nước Chosin, một đơn vị 30.000 người của Sư đoàn Bộ binh
số 7 Mỹ cũng chưa chuẩn bị kịp cho những cuộc tấn công chiến thuật của Trung
Quốc và chẳng bao lâu bị bao vây, mặc dù cuối cùng họ phá được vòng vây nhưng
bị thương vong 15.000 người. Tại trận này, Thủy quân lục chiến Mỹ cũng bị đánh
bại và bắt buộc rút lui sau khi gây ra những thiệt hại nặng nề cho sáu sư đoàn quân
Trung Quốc.


Trong khi các binh sĩ Trung Quốc ban đầu thiếu yểm trợ của hỏa lực nặng và vũ
khí bộ binh hạng nhẹ, chiến thuật của họ nhanh chóng điều chỉnh thích hợp cho sự
bất lợi này như Bevin Alexander giải thích trong cuốn "How Wars Are Won"
(Cách thế nào để thắng các cuộc chiến tranh):


Phương cách thông thường là xâm nhập các đơn vị nhỏ của địch từ một trung đội
50 người đến một đại đội 200 người, bằng cách phân tán thành nhiều nhóm riêng
lẻ. Trong lúc một đội cắt đường rút lui của người Mỹ, các đội khác đánh thẳng cả
mặt trước và hai bên sườn trong các cuộc tiến công phối hợp nhịp nhàng. Các cuộc
tiến công tiếp tục vào các phía cho đến khi những người phòng thủ bị tiêu diệt
hoặc bắt buộc phải rút lui. Người Trung Quốc bị lên phía trước đến sườn mở nơi
đóng chốt của trung đội kế tiếp và lập lại chiến thuật này.


Roy Appleman làm sáng tỏ hơn các chiến thuật ban đầu của Trung Quốc như sau:
Trong giai đoạn đầu tiến công, các lực lượng bộ binh thiện chiến nhẹ đã thực hiện
các cuộc tấn công của Trung Quốc, nói chung khơng được yểm trợ với bất kỳ loại
vũ khí hạng nặng nào ngồi súng cối (mortars). Các cuộc tấn công đã chứng minh
rằng binh sĩ Trung Quốc là những chiến binh có kỷ luật và được huấn luyện kỹ
lưỡng, và đặc biệt lão luyện trong chiến đấu về đêm. Họ có tài về nghệ thuật ngụy
trang. Các đội trinh sát rất thành công đáng kể trong việc phát hiện các vị trí của


các lực lượng Liên Hiệp Quốc. Họ hoạch định các cuộc tấn cơng vào phía sau
lưng của các lực lượng này, cắt đường rút lui và đường tiếp vận của quân địch, và
rồi sau đó xung trận đánh vào mặt trước và bên sườn để kết thúc trận chiến. Họ
cũng áp dụng một chiến thuật gọi là Hachi Shiki tạo thành một đội hình chữ V mà
họ để cho quân địch di chuyển trong đó; hai cạnh của chữ V sau đó được khép lại
quanh quân địch trong khi đó một lực lượng khác di chuyển phía dưới miệng chữ
V để đón chặn bất cứ lực lượng nào cố giải vây cho đơn vị bị bao vây. Các chiến
thuật như thế của Trung Hoa đã được sử dụng với những thành công to lớn tại
Onjong, Unsan, và Ch'osan, nhưng chỉ thành công một phần tại Pakch'on và
Ch'ongch'on.


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

98.000 thường dân, 17.500 xe các loại, và 350.000 tấn tiếp liệu được tàu chở đến
Pusan trong vòng trật tự. Khi họ đã bỏ đi, các lực lượng Mỹ đã đánh sập phần lớn
thành phố để không cho quân đội Trung Quốc sử dụng, khiến nhiều người dân
Triều Tiên khơng có nơi trú thân trong mùa đơng.


<b>Cuộc chiến tại Vĩ tuyến 38 (đầu năm 1951) </b>


Kim Nhật Thành là một đối tác khó tính. Đầu tiên, ông từ chối hợp nhất các lực
lượng của mình dưới sự chỉ huy của Bành Đức Hoài cho dù lính Trung Quốc
chiếm đa số quân đội. Kim chỉ đồng ý sau khi nhận được một chỉ thị từ Stalin.
Kim Nhật Thành cũng tranh cãi với Bành Đức Hoài vào đầu năm 1951 xung
quanh việc liệu có nên vượt vĩ tuyến 38 vì Kim Nhật Thành ra lệnh tiến quân song
Bành Đức Hoài từ chối và vấn đề chỉ được dàn xếp sau khi có một chỉ thị từ Stalin
ủng hộ Bành Đức Hoài.


Nhà sử học Trung Quốc Trần Lâm cho rằng Mao Trạch Đông gửi ra chiến trường
các binh sĩ từ quân đội Quốc dân đảng đã đầu hàng: ―Quân giải phóng nhân dân
Trung Quốc thực tế không muốn thu nhận họ. Đó là một cách tốt để loại bỏ họ.
Động cơ của Mao Trạch Đông khi tham chiến là để thu hút sự chú ý và công nhận


Trung Quốc như một cường quốc, đồng thời đoàn kết người dân trong một cuộc
chiến yêu nước‖.


Tháng giêng năm 1951, các lực lượng Trung Quốc và Bắc Triều Tiên lại đánh
mạnh trong giai đoạn tiến công thứ ba (được biết với tên gọi Cuộc tiến công mùa
đông của Trung Quốc). Quân Trung Quốc lặp lại các chiến thuật trước đây của họ
là tấn công chủ yếu là vào đêm với cách đánh thăm dị từ các vị trí xa mặt trận
theo sau là một đợt xung phong với số lượng quân áp đảo, và dùng kèn, cồng
chiêng để liên lạc và đánh lạc hướng quân địch. Các lực lượng Liên Hiệp Quốc
khơng có thuốc trị cho chiến thuật này, và sức kháng cự của họ sa sút nên họ rút
lui nhanh về miền nam. Seoul bị bỏ lại và bị các lực lượng Trung Quốc và Bắc
Triều Tiên chiếm được vào ngày 4 tháng 1 năm 1951.


Khó khăn thêm gia tăng cho Qn đồn 8 khi Tướng Walker bị giết chết trong một
vụ tai nạn. Trung tướng Matthew Ridgway, một cựu chiến binh nhảy dù trong
Chiến tranh thế giới thư hai lên thay và nhanh chóng nâng sĩ khí và tinh thần chiến
đấu của Quân đoàn 8 vốn đã quá kiệt quệ và sa sút trong cuộc rút lui. Tuy nhiên
tình thế quá khắc nghiệt đến nỗi Tướng Douglas MacArthur thậm chí nói đến việc
sử dụng vũ khí hạt nhân chống lại Trung Quốc, gây nhiều lo ngại cho các đồng
minh của Mỹ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

lương thực và đạn dược phải được vận chuyển vào ban đêm bằng chân hoặc xe
đạp từ sông Áp Lục.


Cuối tháng giêng, sau khi nhận thấy các phịng tuyến phía trước lực lượng của ông
bị bỏ hoang, Tướng Ridgway ra lệnh tiến hành thám thính mà sau đó biến thành
một cuộc tiến cơng tồn diện có tên gọi là "Operation Roundup" (Chiến dịch Bố
ráp). Chiến dịch được hoạch định tiến hành từng bước một, lợi dụng ưu thế hỏa
lực trên mặt đất và trên không của Liên Hiệp Quốc. Vào lúc kết thúc Chiến dịch
Bố ráp vào đầu tháng hai, các lực lượng Liên Hiệp Quốc đã tiến tới sông Hán và


tái chiếm Wonju.


Trung Quốc phản công vào giữa tháng hai bằng Cuộc tiến công giai đoạn bốn từ
Hoengsong ở miền trung chống các vị trí của Qn đồn IX Mỹ quanh
Chipyong-ni. Các đơn vị của Sư đoàn Bộ binh số 2, gồm có Tiểu đồn Pháp tại Triều Tiên đã
đánh trả một cuộc bao vây ngắn ngủi nhưng dữ dội và cuối cùng phá vỡ được cuộc
tiến công này. Trong trận đánh này, Liên Hiệp Quốc đã học được cách đối phó với
các chiến thuật tấn cơng của Trung Quốc và có thể giữ vững trận địa của họ.


Chiến dịch Bố ráp được theo sau trong hai tuần cuối của tháng hai năm 1951 bằng
Chiến dịch Sát thủ (Operation Killer) do Quân đoàn 8 được tái sinh của Mỹ đảm
nhiệm. Đây là một cuộc tấn công toàn diện ngang qua mặt trận, lần nữa được
hoạch định tăng cường tối đa hỏa lực với mục đích gây thiệt hại nặng nề cho các
quân đoàn Bắc Triều Tiên và Trung Quốc. Cuối Chiến dịch Sát thủ, Quân đoàn I
đã tái chiếm lại được tất cả các lãnh thổ phía nam sơng Hán, trong khi Qn đồn
IX tái chiếm Hoengsong.


Ngày 7 tháng 3 năm 1951, Qn đồn 8 lại thọc mạnh về phía trước trong Chiến
dịch Ripper, và vào ngày 14 tháng 3 họ đã đẩy lui các lực lượng Trung Quốc và
Bắc Triều Tiên ra khỏi Seoul, đây là lần thứ tư trong một năm thành phố này đổi
chủ. Seoul ở trong cảnh hoang tàn đổ nát; dân số của thành phố trước chiến tranh
là 1,5 triệu người đã giảm xuống còn 200.000 người và thiếu thực phẩm trầm
trọng.


Douglas MacArthur bị tước quyền tự lệnh bởi Tổng thống Harry Truman ngày 11
tháng 4 năm 1951 vì bất tuân lệnh Tổng thống, gây ra một cơn bão lửa phản đối ở
Hoa Kỳ. Tư lệnh tối cao mới là Tướng Ridgway tiến hành củng cố các lực lượng
Liên Hiệp Quốc để chuẩn bị cho một loạt các cuộc phản công hiệu quả. Vị trí Tư
lệnh Qn đồn 8 được chuyển cho Tướng James Van Fleet.



Một loạt các cuộc tấn cơng sau đó từ từ đẩy lui quân Trung Quốc và Bắc Triều
Tiên như các chiến dịch Courageous và Tomahawk, một cuộc cơng kích kết hợp
giữa bộ binh và không quân giam lực lượng cộng sản giữa Kaesong và Seoul. Các
lực lượng Liên Hiệp Quốc tiếp tục tiến công cho đến khi họ tới được phòng tuyến
Kansas, cách vĩ tuyến 38 một khoảng mấy dặm về phía bắc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

trận đánh tại sông Imjin và Kapyong đã chặn bước tiến của qn đội Trung Quốc
ở phịng tuyến phía bắc Seoul.


Một cuộc tiến công khác của Trung Quốc sau đó ở miền trung chống lại Quân
đoàn X và lực lượng Nam Triều Tiên vào ngày 15 tháng 5 cũng đạt được những
thành công ban đầu, nhưng vào 20 tháng 5 cuộc tấn cơng dừng lại. Qn đồn 8
phản cơng và đến cuối tháng 5 thì chiếm lại phịng tuyến Kansas.


Quyết định của Liên Hiệp Quốc dừng lại ở phòng tuyến Kansas, nằm ở phía bắc
Vĩ tuyến 38, và không tiếp tục các hành động tiến công vào Bắc Triều Tiên đã đẩy
cuộc chiến vào giai đoạn bế tắc, là điểm điển hình cho phần cịn lại của cuộc xung
đột.


<b>Hồi kết (tháng 7 năm 1951 - tháng 7 năm 1953) </b>


Phần còn lại của cuộc chiến bao gồm chút ít sự thay đổi về lãnh thổ, các cuộc oanh
tạc tầm mức rộng lớn ở Bắc Triều Tiên và dân cư của họ, và các cuộc thương
thuyết hịa bình kéo dài bắt đầu từ 10 tháng 7 năm 1951 tại Kaesong. Thậm chí
trong suốt các cuộc thương thuyết hịa bình, chiến sự vẫn tiếp tục. Đối với các lực
lượng Nam Triều Tiên và đồng minh, mục tiêu của họ là phải tái chiếm hoàn toàn
miền Nam trước khi một thỏa ước đạt được để tránh mất bất cứ lãnh thổ nào.
Trung Quốc và Bắc Triều Tiên đã cố mở các chiến dịch tương tự, và sau đó cịn
tiến hành các chiến dịch nhằm thử quyết tâm của Liên Hiệp Quốc có tiếp tục cuộc
xung đột. Các cuộc đụng độ quân sự chính yếu trong giai đoạn này là những hành


động quanh lịng chảo phía đông như Bloody Ridge và Heartbreak Ridge năm
1951, các trận đánh như Trận Old Baldy ở giữa và Trận Hook ở phía tây trong
suốt năm 1952–53, Trận Đồi Eerie năm 1952, và Trận Đồi Pork Chop năm 1953.
Các cuộc thương thuyết hịa bình kéo dài trong hai năm, đầu tiên là ở Kaesong và
sau đó là ở Bàn Mơn Điếm. Một vấn đế chính yếu trong các cuộc thương thuyết là
việc trao trả tù binh chiến tranh. Phía miền Bắc đồng ý trao trả theo tự nguyện của
tù binh nhưng với điều kiện là đa số tù binh sẽ trở về Trung Quốc hoặc Bắc Triều.
Nhưng vì có q nhiều tù binh từ chối được trao trả về Trung Quốc và Bắc Triều
Tiên, chiến tranh tiếp tục cho đến khi phía cộng sản sau đó từ bỏ điều kiện này.
Tháng 10 năm 1951, các lực lượng Mỹ tiến hành Chiến dịch Cảng Hudson với ý
định thiết lập khả năng sử dụng vũ khí nguyên tử. Một số phi cơ B-29 thực hiện
các phi vụ tập ném bom giả từ Okinawa đến Bắc Triều Tiên mang theo các quả
bom nguyên tử "hình nộm" hoặc các loại bom thông thường hạng nặng. Chiến
dịch được điều hợp từ Căn cứ Không quân Yokota tại Nhật Bản. Cuộc tập trận này
có ý định thử chức năng thực sự của tất cả các hoạt động sẽ cần dùng trong một
tấn cơng bằng vũ khí nguyên tử, bao gồm việc lắp ráp vũ khí và thử nghiệm,
hướng dẫn, kiểm soát mặt đất về mục tiêu ném bom. Kết quả cho thấy bom
nguyên tử không hiệu quả như là tiên đốn bởi vì việc phát hiện số đơng lực lượng
địch kịp thời thì quả là hiếm hoi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

cuộc xung đột. Với việc Liên Hiệp Quốc chấp thuận lời đề nghị ngừng bắn của Ấn
Độ, lệnh ngừng bắn được thiết lập vào ngày 27 tháng 7 năm 1953 vào thời điểm
tuyến đầu mặt trận quay trở lại quanh vĩ tuyến 38, và vì vậy một vùng phi quân sự
được thiết lập quanh nó, hiện tại được quân đội Bắc Triều Tiên phịng thủ một
phía và phía bên kia là quân đội Nam Triều Tiên và Mỹ. Kaesong, nơi diễn ra các
cuộc đàm phán hịa bình, vốn cố đô của Triều Tiên, là phần đất của miền Nam
trước khi các cuộc xung đột bùng nổ nhưng bây giờ là một thành phố đặc khu của
miền Bắc. Cho đến bây giờ cũng khơng có một hiệp định hịa bình nào được ký
kết, theo kỹ thuật, Nam và Bắc Triều Tiên vẫn đang ở trong tình trạng chiến tranh.
Mặc dù Bắc Triều Tiên và Mỹ đã ký kết Hiệp định Đình chiến nhưng Lý Thừa


Vãn từ chối ký kết vào văn kiện này.


<b>3.</b> <b>Hậu quả cuộc chiến tranh Triều Tiên </b>


Tổng số thương vong của tất cả mọi phía nhập lại có thể không thể nào biết được.
Tại các nước phương Tây, các con số đã và đang là đề tài của vô số các cuộc
nghiên cứu và tra cứu của các học giả, và trong trường hợp của một ước tính do
Mỹ thực hiện, con số đã được điều chỉnh lại sau khi một lỗi đánh máy được phát
hiện. Con số thương vong được tự báo cáo từ từng quốc gia phần lớn dựa vào các
cuộc di chuyển quân đội, bảng phân công các đơn vị, các báo cáo thương vong lúc
chiến sự, và các hồ sơ y tế.


Các con số của phương Tây về thương vong của Trung Quốc và Bắc Triều Tiên
chủ yếu được dựa vào những báo cáo từ mặt trận về ước tính thương vong, việc
hỏi cung các tù nhân và các tài liệu tịch thu được. Ước tính của Trung Quốc về số
thương vong của Liên Hiệp Quốc cho rằng "Tuyên bố chung sau chiến tranh của
Quân Chí nguyện Trung Quốc và Quân đội Nhân dân Triều Tiên công bố rằng họ
đã "loại trừ" 1,09 triệu quân địch, bao gồm 390.000 quân của Mỹ, 660.000 quân
Nam Triều Tiên, và 29.000 quân các nước khác. Con số "loại trừ" mập mờ khơng
nêu chi tiết có bao nhiêu người chết, bị thương và bị bắt." Nói về thương vong của
chính họ, cũng là nguồn đó nói rằng "Trong suốt thời gian chiến tranh, 70 phần
trăm các lực lượng của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã được khai
triển đến Triều Tiên như Quân Chí nguyện Nhân dân Trung Quốc (tổng lượt lên
đến 2.97 triệu) cùng với hơn 600.000 dân cơng. Qn Chí nguyện bị thiệt hại tổng
cộng 148.000 người chết, trong đó có 114.000 tử trận, tai nạn, và chết rét, 21.000
chết sau khi được cấp cứu, 13.000 chết vì bệnh tật; và số người bị thương là
380.000 người. Cũng có 29.000 người mất tích, bao gồm 21.400 bị bắt trong đó
14.000 được đưa sang Đài Loan, 7.110 được trao trả." Cũng nguồn tương tự kết
luận con số thương vong của Bắc Triều Tiên, "Quân đội Nhân dân Triều Tiên có
290.000 thương vong và 90.000 bị bắt. Có một con số tổn thất dân sự rất lớn tại


miền bắc Triều Tiên nhưng khơng có con số chính xác nào được xác nhận."


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

<b>IV.</b> <b>KẾT LUẬN </b>


Chiến tranh lạnh kéo theo những hệ quả tất yếu của nó, nó đến từ tình trạng đối
đầu giữa hai hệ thống xã hội khác nhau: Chủ nghĩa Xã hội và Chủ nghĩa Tư bản.
Cuộc chiến tranh Triều Tiên chính là cuộc đụng độ quân sự quy mô đầu tiên giữa
hai Khối nước này. Chiến tranh Triều Tiên được ví như một lị lửa, hay điểm nóng
trong một cuộc chiến tranh lạnh. Đây cũng là cuộc chiến mà hai khối này có dịp
thử sức với nhau. Qua cuộc chiến này, cả Mỹ, Liên Xô, Trung Quốc và các bên
tham gia đã rút ra được nhiều bài học đắc giá.


Dù muốn dù khơng thì cuộc chiến tranh Triều Tiên cũng đã xảy ra, các bên tham
chiến đã phải trả cái giá đắc trong cuộc chiến khóc liệt này. Nhưng nạn nhân thật
sự khơng ai khác, chính là nhân dân và đất nước Triều Tiên. Vĩ tuyến 38 vẫn vạch
ranh giới hai quốc gia theo hai thể chế chính trị và hình thái xã hội khác nhau.
Năm tháng trôi qua, người dân ở hai bên biên giới vẫn chưa có cơ hội nhìn thấy
đất nước Triều Tiên được thống nhất, để họ đồn tụ với người thân, đồng tộc. Đó
là mất mát không hề nhỏ trong tinh thần của người dân Triều Tiên ở cả hai miền
bán đảo. Sau chiến tranh, nhờ sự hỗ trợ từ phía Mỹ, Nam Triều Tiên (Hàn Quốc)
đã vươn lên thành một trong bốn con rồng tại châu Á về kinh tế. Hàn Quốc vẫn
đang trên đà phát triển về mọi mặt. Còn Bắc Triều Tiên vẫn đang vật lộn từng
ngày với tình trạng lạc hậu, thiếu lương thực và đã bộc lộ những vấn đề liên quan
đến nhân quyền. Các bên đã có những động thái nhằm đưa ra một giải pháp chung,
những cuộc đàm phán song phương, đa phương cũng đã được thúc đẩy.. Hiện nay,
tình hình trên bán đảo Triều Tiên đang diễn biến khá phức tạp, và có nguy cơ bùng
nổ một cuộc chiến tranh. Hy vong trong nay mai, quốc tế sẽ ủng hộ và các cấp
lãnh đạo của hai bên sẽ luôn nổ lực để tránh một tai họa chiến tranh lần thứ hai.
<b>V.</b> <b>TÀI LIỆU THAM KHẢO </b>



 <i>Lịch sử thế giới hiện đại – Nguyễn Anh Thái – Nhà xuất bản Giáo dục. </i>


 <i>Quan hệ quốc tế đại cương – khoa quan hệ quốc tế.phân viện báo chí và tuyên </i>


<i>truyền – Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. </i>


 <i>vi.wikipedia.org. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

 <i>Giáo trình Lịch sử quan hệ quốc tế sau chiến tranh thế giới thứ hai (Tập 1: 1945 – </i>
<i>1975) – Lê P hụng Hoàng – Khoa Lịch Sử ĐHSP TP.HCM </i>


 <i>Giáo trình Lịch sử văn minh thế giới – Lê Phụng Hoàng – Nhà xuất bản Giáo Dục </i>


 <i>Lịch sử quan hệ quốc tế từ đầu thời hiện đại đến thế chiến thứ hai – Vũ Dương </i>


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×