Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Tải Top 4 bài cảm nhận hình ảnh bà Tú trong bài Thương vợ siêu hay - HoaTieu.vn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.18 KB, 6 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Cảm nhận về nhân vật bà Tú - mẫu 1</b>


Nói đến nhà thơ Tú Xương, chúng ta không thể không nhắc đến tác phẩm "Thương vợ".
Trong sự nghiệp thơ ca phong phú, đa dạng của Tú Xương, “Thương vợ” được xem là một
trong những bài thơ hay nhất. Bài thơ thể hiện một cách thấm thía, cảm động thái độ trân
trọng, tri ân của Tú Xương đối với sự hi sinh, tảo tần của vợ, để ông được học hành, thi cử
như vậy. Quan trọng hơn qua hình ảnh bà Tú trong tác phẩm “Thương vợ”, người ta thấy
hiện lên một bức chân dung về người phụ nữ Việt Nam với những nét phẩm chất tốt đẹp điển
hình.


Bà Tú có tên thật là Phạm Thị Mẫn, xuất thân từ gia đình dòng dõi nho gia. Bà nhẫn nại, cam
chịu phận làm người vợ thảo hiền, tảo tần sớm hôm nuôi chồng, nuôi con, làm chỗ dựa tinh
thần cho cuộc đời Tú Xương – Một trí thức khơng gặp thời, long đong, lận đận trên con
đường sự nghiệp.


Có lẽ vì thế mà hình tượng người vợ trở thành đề tài quen thuộc trong các tác phẩm thơ của
Tú Xương. Những bài thơ của ông viết về đề tài người vợ thường mang nhiều âm điệu: có khi
là lời thủ thỉ tâm tình, có khi chỉ là lời bơng đùa hóm hỉnh, hoặc cũng có lúc là nỗi niềm chua
chát, xót xa nhưng bao trùm tất cả các tác phẩm vẫn là thái độ trân trọng cảm thông, sự hàm
ơn chân thành từ phía một người chồng trước sự hi sinh của một người vợ.


Khi nói đến người phụ nữ truyền thống là nhắc đến một không gian gia đình, mà ở đó người
vợ có vai trò trong việc thu vén, chăm lo sự nghiệp, danh vị của người chồng. Bà Tú cũng
không phải là ngoại lệ, nhưng vào cái thời buổi Tây, Tàu lẫn lộn, nhốn nháo, khơng cịn đâu
cảnh thơ mộng “bên anh đọc sách, bên nàng quay tơ” như ngày xưa, bà Tú cũng phải cuốn
theo guồng quay của cuộc đời, cũng phải dạt theo cuộc bươn chải với đổi chác, bán mua để
mong đảm bảo cuộc sống tối thiểu của gia đình:


<i>“Quanh năm bn bán ở mom sơng</i>
<i>Ni đủ năm con với một chồng”</i>



Hình ảnh bà Tú trong tác phẩm “Thương vợ” hiện lên không phải từ dáng vóc, hình hài mà từ
khơng gian và thời gian của cơng việc. “Quanh năm” khơng chỉ là độ dài có thời lượng mà
còn gợi ra cho chúng ta một cái vịng vơ kì hạn của thời gian, nó cho thấy cuộc mưu sinh vất
vả này khơng có hồi kết thúc. Khơng gian “mom sơng” vừa có giá trị tả thực – là phần đất
nhơ hẳn ra lịng sông, vừa gợi lên không gian sinh tồn bấp bênh và chông chênh.


Bà Tú phải hàng ngày bươn chải với đời bởi trên vai bà là cả một gánh nặng gia đình: “Ni
đủ năm con với một chồng”. Biết bao hàm ý tốt lên trong cụm từ “ni đủ”, nó thể hiện sự
chăm lo tận tụy chuyện cơm ăn áo mặc lại vừa hàm ý sự chịu đựng. Cách nói của nhà thơ đầy
ý vị “năm con với một chồng”. Nhà thơ đã tự hạ mình ngang hàng với các con khi cay đắng,
tủi hổ, xót xa nhận ra mình cũng là một trong những gánh nặng của vợ.


Câu ca dao xưa khi nói tới hình tượng người phụ nữ thường liên tưởng tới hình ảnh con cị:
<i>“Con cị lặn lội bờ sơng</i>


<i>Gánh gạo ni chồng tiếng khóc nỉ non”</i>
Tú Xương đã vận dụng sáng tạo chất liệu ca dao trong hai câu thơ:


<i>“Lặn lội thân cò khi qng vắng</i>
<i>Eo sèo mặt nước buổi đị đơng”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

hình ảnh “đị đơng” thể hiện tính chất bấp bênh trong cuộc mưu sinh của bà thì từ láy “eo
sèo” đã diễn tả sinh động sự ồn ào, nhốn nháo, phức tạp, nhục nhằn trong công việc hàng
ngày mà bà Tú phải chịu đựng.


Không chỉ tần tảo, lam làm, chịu thương, chịu khó, mà hình ảnh bà Tú trong tác phẩm
“Thương vợ” của Tú Xương còn thể hiện một con người với bổn phận vị tha, lấy hi sinh làm
hạnh phúc và lẽ sống của đời mình.


Hóa thân vào nhân vật người vợ, nhà thơ đã nói hộ nỗi niềm tâm sự của vợ, đó là thái độ chín


chắn trước duyên phận, độ lượng trước hồn cảnh gia đình. Khi đọc bài thơ hiện lên trong
tâm trí người đọc là hình ảnh một người phụ nữ lặng lẽ an phận, ráng sức lo toan, khơng trách
phận than thân, khơng phiền lịng phẫn chí. Việc vận dụng thành ngữ số từ “một duyên hai
nợ”, “năm nắng mười mưa” làm cho lời thơ trở nên cô đúc. Những câu thơ như lời kể công,
kể khổ của Tú Xương dành cho vợ trở nên trĩu nặng hơn, day dứt hơn. Sự cam chịu và đức hi
sinh của bà Tú như càng được nhấn mạnh và nổi bật hơn.


Ý thức được nỗi nhọc nhằn gian truân của vợ mà không thể san sẻ, đỡ đần một phần nào, thể
hiện ở hai câu kết của bài thơ là tiếng lòng mang nặng nỗi niềm chất chứa của nhà thơ:


<i>“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc</i>
<i>Có chồng hờ hững cũng như khơng”</i>


“Thói đời” ở đây được nhà thơ nói đến phải chăng là sản phẩm của buổi giao thời đã tạo ra
những người chồng hờ hững? để rồi những người phụ nữ như bà Tú phải mang gánh nặng trụ
cột gia đình. Câu thơ thể hiện nỗi lòng dằn vặt, thái độ chân thành, tự trách mình của nhà thơ,
đồng thời bộc lộ tâm trạng bất lực trong bi kịch tinh thần của người trí thức: trở thành người
thừa trong xã hội và ngay cả trong chính gia đình của mình.


Có thể nói hình ảnh bà Tú trong tác phẩm “Thương vợ”, được Tú Xương khắc hoạ rõ nét và
sống động hình ảnh người vợ tảo tần với những nét phẩm chất điển hình của người phụ nữ
Việt Nam: đảm đang, chịu thương chịu khó, giàu đức hi sinh và lịng vị tha. Đằng sau tiếng
thơ là tiếng lòng tri ân trân trọng, sụ cảm thông đồng thời là nỗi day dứt khôn nguôi của nhà
thơ đối với người vợ thảo hiền.


<b>2. Cảm nhận về hình ảnh bà Tú trong Thương vợ - mẫu 2</b>


Viết về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ, đã từng có rất nhiều những áng thơ văn nói
lên nỗi khổ hạnh, buồn tủi của số phận nữ nhi bất hạnh, khổ đau. Nhà thơ Trần Tế Xương
cũng vậy, người phụ nữ trong thơ ơng khơng phải ai khác mà chính là người vợ tần tảo, giàu


đức hi sinh của mình. Với những tình cảm chân thành, mộc mạc, ơng đã khắc họa lại hình
ảnh bà Tú trong bài thơ "Thương vợ" một cách rất chân thực và giàu cảm xúc.


Bà vừa là một người vợ đảm đang, giàu đức hi sinh, vừa là một người mẹ giàu lòng yêu
thương. Mọi khó khăn, khổ cực trên cuộc đời này chẳng là gì so với người phụ nữ can đảm,
chịu thương chịu khó ấy.


<i>"Quanh năm bn bán ở mom sơng</i>
<i>Ni đủ năm con với một chồng</i>


<i>Lặn lội thân cị khi qng vắng</i>
<i>Eo sèo mặt nước buổi đị đơng."</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

thiếu thứ gì. Mặt khác, hai vế của câu thơ "năm con với một chồng" giống như một chiếc địn
gánh vơ hình nhưng rất dài đang đè nặng lên đôi vai gầy của người phụ nữ đáng thương.
Nhưng bà không hề than vãn hay kêu ca nửa lời. Bà cam chịu, hi sinh bằng tất cả tấm lòng
nhân ái và yêu thương của mình. Tế Xương đã tự ví bà với "thân cị" - một hình ảnh rất đẹp,
rất nhân văn và quen thuộc khi nói về những người nông dân lam lũ, vất vả. Bà lặn lội khi
quãng vắng, rồi lại "eo sèo mặt nước buổi đị đơng". Trong hai câu thơ này, tác giả đã cố tình
dùng phép đảo ngữ đẩy hai từ "lặn lội", "eo sèo" lên đầu câu để nhấn mạnh thêm nữa sự vất
vả, bon chen của bà Tú. Người phụ nữ ấy không những yêu chồng, thương cịn mà cịn rất sắc
sảo, nhanh nhẹn. Vì thế bà mới có thể vững chân làm nghề bn bán quanh năm được. Nhất
là trong lúc khó khăn, ai ai cũng cố gắng hết mình để giành giật lấy từng đồng từng xu, bà Tú
cũng vậy, bà cũng phải bon chen lắm, nỗ lực lắm mới có thể "ni đủ năm con với một
chồng", cộng thêm cả bản thân bà nữa bẩy người. Một mình bà ni cả bẩy miệng ăn.
Nhưng dù có khổ cực đến đâu đi nữa, người phụ nữ ấy vẫn luôn đứng vững và cam chịu tất
cả:


<i>"Một duyên hai nợ âu đành phận</i>
<i>Năm nắng mười mưa dám quản cơng</i>



<i>Cha mẹ thói đời ăn ở bạc</i>
<i>Có chồng hờ hững cũng như khơng."</i>


Dun nợ long đong lận đận, kiếp sống khổ cực, nhọc nhằn nhưng xuyên suốt cả bài thơ,
khơng có một từ nào nói lên sự than thở, kêu than của bà Tú. Người phụ nữ ấy có tấm lịng
u thương q lớn. Bà đã hi sinh tất cả cho chồng cho con, hi sinh cả tuổi thanh xuân đầy
khát vọng của mình. Dù "năm nắng" hay "mười mưa" bà nào có "quản cơng". Một mình bà
sẵn sàng gánh vác cả gia đình. Cũng may, trong thời ấy, dù nhiều người phụ nữ khác cũng
lam lũ, cũng vất vả nhưng chẳng mấy ai được chồng cảm thơng và thương xót như Bà Tú.
Chỉ tiếng rằng ngồi tình thương, Tế Xương cũng khơng thể làm gì giúp vợ được. Thế nên,
ơng mới tự nhận "Có chồng hờ hững cũng như khơng". Bà khơng cần nói nhưng những việc
bà làm đã khiến Tế Xương chồng bà phải khâm phục và nể trọng.


Bà là đại diện cho những người phụ nữ truyền thống của Việt Nam với đức tính chịu thương
chịu khó, hi sinh vất vả và giàu lịng yêu thương. Tuy nhiên, trong cuộc sống hiện đại, do có
quá nhiều thứ bon chen, chi phối, một số người đã khơng cịn gìn giữ được những phẩm chất
tốt đẹp, cao quý ấy nữa. Họ sống vì lợi danh, sống ganh đua, chua chát. Khơng ít kẻ đã trà
đạp lên nhau, giẫm chân lên nhau mà sống. Ai cũng vì lợi ích riêng của bản thân mình mà
quên đi mất những phẩm giá tốt đẹp vốn có của con người. Chưa kể đến có những bà lười
biếng, thích ăn khơng ngồi rồi, thích hưởng thụ, thích sai khiến người khác phải phục tùng
mọi ý muốn của mình. Khơng mấy ai cịn phải vất vả như bà Tú nhưng cũng cũng chẳng có
nhiều tấm lịng giàu tình u thương và vị tha như vậy nữa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Bài thơ đã khép lại với hình ảnh chân thực về người vợ tảo tần, giàu đức hi sinh. Bà là một
tấm gương sáng cho những người phụ nữ hiện đại soi lại chính mình.


<b>3. Cảm nhận hình ảnh bà Tú trong bài Thương vợ - mẫu 3</b>


Tác giả Trần Tế Xương còn được gọi là Tú Xương, quê ở Nam Định. Bản thân ông mặc dù


đã rất cố gắng nhưng không thành công trên con đường hoa cử lại chỉ đạt đến bậc Tú tài. Về
sự nghiệp sáng tác, ơng có một gia tài “Thơ” gồm trên 100 bài thơ, chủ yếu là thơ Nơm gồm
hai mảng trào phúng và trữ tình. Trong đó tác phẩm “Thương vợ” của ơng thuộc đề tài nói về
người vợ. Đây là một đề tài hiếm gặp trong thời kì văn học trung đại và đó cũng là điều minh
chứng cho tình u thương vô hạn và sự biết ơn của Tú Xương với người vợ của mình.
Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú, đảo, đối, được chia làm bốn phần: đề – thực –
luận – kết. Hình ảnh của bà Tú trong tác phẩm “Thương vợ” dưới cái nhìn của ông Tú ở câu
mở đầu bài thơ thể hiện rất rõ cái chông chênh, nguy hiểm trong nghề buôn bán của bà:


<i>“Quanh năm buôn bán ở mom sông</i>
<i>Nuôi đủ năm con với một chồng”</i>


Mặc dù công việc của bà Tú là bn bán nhưng việc bn bán đó lại khơng diễn ra ở một khu
chợ bình thường mà lại là ở mom sông, là một nơi nguy hiểm, không vững chãi. Thời gian
mà bà Tú phải làm việc này khơng có định lượng mà là quanh năm, ta thấy công việc của bà
phải làm là một cơng việc liên tục lặp đi lặp lại, khép kín khơng có thời gian để bà nghỉ ngơi,
khơng kể khó khăn của thời tiết cái giá rét của mùa đơng hay cái nóng bức của mùa hè. Khi
nghe đến câu thứ hai, người đọc phần nào cảm nhận được phong cách viết thơ hóm hỉnh của
Tú Xương. Dùng lời thơ của mình, ơng khơng chỉ kể ra rằng bà Tú đã phải ni “năm con”
mà cịn gánh thêm cả người chồng đủ ăn, đủ mặc, đủ tiêu xài cho những thói chơi tao nhã của
nhà nho như Tế Xương. Ơng tự cho mình là một “gánh” và "năm con" là một “gánh” hai
gánh đó đè nặng trên vai bà Tú và rồi còn tự tách hạ một mình mình đứng cuối câu, có vẻ như
ơng đang cho mọi người biết ông như một kẻ ăn bám lấy vợ và cũng cần đến sự chăm lo của
vợ giống như các con mình.


<i>“Lặn lội thân cị khi qng vắng</i>
<i>Eo sèo mặt nước buổi đị đơng”</i>


Ở đây ta có thể thấy rõ tác giả đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ trong hình ảnh “thân cị”, một
hình ảnh hay được dùng để ví von về số phận người phụ nữ Việt trong thời kì phong kiến, họ


có một số phận vơ cùng cực khổ. Trong câu thơ thứ ba tác giả đã đặt từ “lặn lội” đứng trước
chủ thể “thân cò” kết hợp với cụm từ “quãng vắng”, có một sự đối lập ở hai câu ba và câu
bốn giữa “lặn lội” và “eo sèo”; “khi qng vắng” – “buổi đị đơng” cho thấy nỗi vất vả một
thân, một mình của bà Tú. Một mình bà vừa phải gánh vác cơng việc để kiếm tiền đảm bảo
cuộc sống vừa đủ cho chồng, cho các con lại vừa phải lo toan việc gia đình. Bốn câu thơ nói
lên cuộc sống bấp bênh, vất vả của bà Tú nhưng dù vậy bà vẫn chăm lo chu đáo cho gia đình.
Nhà thơ đã thể hiện khơng chỉ sự kính nể mà cịn có phần thán phục đối với hình ảnh bà Tú
trong tác phẩm “Thương vợ”, một hình ảnh người phụ nữ tảo tần, nhỏ bé. Từ đó ơng tiếp tục
cực tả nỗi vất vả, đơn chiếc nhưng đồng thời cũng kín đáo tự nhận mình là vơ tích sự, khơng
hồn thành trọng trách làm chồng, làm cha mà cịn làm khổ vợ con.


<i>“Một duyên hai nợ âu đành phận</i>
<i>Năm nắng mười mưa dám quản công”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

nhằn cùng với nghệ thuật đối “năm nắng mười mưa” với “dám quản công” ẩn chứa một sự hi
sinh trầm lặng của bà Tú. Sử dụng thành ngữ nhấn mạnh bà Tú không chỉ vất vả, đảm đang,
nhẫn nại mà cịn hi sinh một cách âm thầm, lặng lẽ. Hình ảnh bà Tú trong tác phẩm “Thương
vợ” đã khắc họa thành cơng chân dung bà Tú là điển hình cho người phụ nữ Việt Nam, tảo
tần, chịu thương, hi sinh, chịu đựng. Tấm lòng thương vợ của Tú Xương đến đây khơng chỉ
cịn là thương xót, mà cịn cả một sự thương cảm thấm thía. Ở những câu thơ cuối là hình ảnh
của chính nhà thơ qua lời trần thuật về bà Tú.


<i>“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc</i>
<i>Có chồng hờ hững cũng như khơng”</i>


Hai câu cuối Tế Xương đã tự “chửi” thói đời sinh ra loại người như ơng. Ơng muốn ám chỉ cả
những người giống ông trong xã hội thời bấy giờ. Dù là người chồng nhưng lại chẳng gánh
vác được gia đình mà ngược lại còn làm gánh nặng thêm cho vợ con.


Mặc dù rất yêu thương vợ nhưng lại không thể đỡ đần, lo toan giúp vợ dù chỉ một phần nhỏ


cơng việc, vì cái phép tắc lễ giáo đối với những nhà nho thời phong kiến, khiến bà Tú phải
chịu nhiều vất vả, gian truân trong cuộc đời. Một niềm hạnh phúc duy nhất khi bà còn sống là
đã được đi vào thơ ca của ông Tú với tất cả niềm yêu thương, trân trọng của một người
chồng. Đây là một trong những bài thơ hay và cảm động nhất của Tú Xương, thể hiện được
vẻ đẹp của bà Tú. Hình ảnh bà Tú trong tác phẩm “Thương vợ” đã lột tả rõ một người phụ nữ
đảm đang, vị tha và quan trọng hơn là sự thể hiện tấm lòng thương vợ, biết ơn vợ cũng như
lời tự trách mình của Tú Xương.


<b>4. Cảm nhận về nhân vật bà Tú ngắn gọn</b>


Người phụ nữ đã đi vào văn học khá nhiều và trở thành một trong những hình tượng lớn của
văn chương kim cổ. Tuy nhiên viết về người phụ nữ với tư cách là một người vợ bằng tình
cảm của một người chồng thì quả thật rất hiếm. Thương vợ của Tú Xương nằm trong số
những trường hợp hiếm hoi đó. Bài thơ là chân dung bà Tú, người bạn đời của Tú Xương,
được tái hiện bằng tất cả tấm lòng chân thành của một người chồng dành cho vợ.


Hình ảnh bà Tú hiện lên trước hết gắn liền với bao nỗi gian truân khó nhọc. Thân đàn bà chân
yếu tay mềm nhưng bà Tú vẫn phải một mình làm lụng bn bán, một mình xơng pha, lặn lội
nơi đầu sông, bến chợ để lặn lội kiếm sống. Cái gian trn khó nhọc được cụ thể hố bằng
thời gian quanh năm, bằng không gian ven sông, quãng vắng, buổi đị đơng. Nghĩa là triền
miên suốt năm suốt tháng không ngơi không nghỉ, lúc nào cũng đầu tắt mặt tối. Đặt trong
những khơng gian, thời gian trên hình ảnh bà Tú dường như lại càng trở nên nhỏ bé, cô đơn,
tội nghiệp hơn. Cái vất vả nhọc nhằn còn được hiện rõ trong gánh nặng mà bà Tú phải gánh
trên vai: Một gia đình với năm con và một chồng. Năm đứa con với biết bao nhu cầu, bao địi
hỏi hàng ngày, bên cạnh đó đức ông chồng giàu chữ nghĩa đã không giúp vợ được gì lại cịn
trở thành một mối bận tấm lo lắng của vợ, mà nhu cầu của ông chồng ấy nào có ít ỏi gì, nó đủ
làm thành một phía để cân bằng với phía năm đứa con. Thế mới biết cuộc sống hằng ngày
của bà Tú là như thế nào. Lo cho con, lo cho chồng, mà phải lo làm sao cho đủ tức là không
thừa nhưng cũng không được thiếu. Bằng chừng ấy nỗi lo trĩu nặng trên đôi vai gầy của
người vợ, người mẹ ấy. Chính vì vậy mà phải bươn chải nắng mưa khuya sớm, bất kể hiểm


nguy hay đơn độc. Nói sao cho xiết những nhọc nhằn cơ cực mà bà Tú phải gánh trong suốt
cuộc đời của mình. Hình ảnh bà Tú gợi cho ta nghĩ tới hình ảnh của những người đàn bà đảm
đang, lam lũ, lặn lội kiếm sống nuôi chồng, nuôi con đã lặng lẽ đi qua trong cuộc sống dân
tộc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

cơ cực, lại cơ đơn thui thủi một mình, khơng người sẻ chia giúp đỡ, ấy vậy mà vẫn cần mẫn,
không một chút chểnh mảng, bỏ bê công việc. Bà Tú cứ vậy, chăm chỉ, miệt mài, chịu
thương, chịu khó, khơng nề hà khó khăn nguy hiểm, khơng quản ngại nắng mưa khuya sớm.
Hình ảnh thơ khơng chỉ diễn tả bao nỗi vất vả mà còn làm nổi bật sự nhẫn nại, kiên trì kiếm
sống chu tất cho chồng, cho con của bà Tú. Diễn tả đầy đủ nhất điều này có lẽ khơng câu thơ
nào hơn hai câu:


<i>"Lặn lội thân cò khi quãng vắng</i>
<i>Eo sèo mặt nước buổi đị đơng."</i>


Con cị, thân cị là hình ảnh quen thuộc trong văn học truyền thống, là biểu tượng cho người
nơng dân nói chung và người phụ nữ Việt Nam nói riêng. Dùng hình ảnh "lặn lội thận cò", Tú
Xương đã khái quát được bao phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ Việt Nam truyền thống mà
đức tính nổi bật chính là sự tần tảo, chịu thương chịu khó.


Bà Tú cịn đẹp ở sự đảm đang tháo vát, ở sự chu đáo với chồng, với con. Cảnh làm ăn kiếm
sống của bà Tú thật không dễ dàng gì, nhưng khơng lúc nào ta thấy bà Tú bó tay chùn bước,
lúc thì một mình lặn lội nơi quãng vắng, khi lại đua chen giành giật chốn đị đơng. Tất cả đều
để chu tất cho gia đình: ni đủ năm con với một chồng. Sức vóc một người đàn bà giữa thời
buổi cơm cao gạo kém mà vẫn đảm bảo cho chồng cho con một cuộc sống dẫu chưa phải là
sung túc nhưng khơng đến nỗi thiếu thốn như vậy thì quả là giỏi giang hiếm có. Đó là minh
chứng cho cái tháo vát đảm đang ở bà Tú, cũng là biểu hiện thuyết phục về tấm lòng hết mực
dành cho con cho chồng của người phụ nữ này.


Khơng chỉ có vậy, qua sự thể hiện của nhà thơ, bà Tú còn hiện lên với một đức hi sinh cao cả.


Dẫu bao nhiêu khó khăn vất vả bà Tú vẫn khơng một lời kêu than phàn nàn, khơng một lời
ốn trách. Một mình bà âm thầm, lặng lẽ gánh trọn gánh nặng gia đình. Ngay cả khi ý thức
một thực tế cay đắng trong quan hệ vợ chồng, một duyên hai nợ thì bà Tú vẫn chấp nhận tất
cả sự vất vả nhọc nhằn về phía mình - Năm nắng mười mưa dám qn cơng. Đó là sự hi sinh
qn mình, là tấm lịng vị tha hết mực của bà Tú dành cho ông Tú và những đứa con.


</div>

<!--links-->

×