Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Tài liệu Về “tai hoạ thứ 3” của loài người... doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.91 KB, 6 trang )

Về “tai hoạ thứ 3” của loài người...
Có thể nói tai họa thứ ba của loài người sau ung thư và tim mạch là sâu
răng. Có tới hơn 90% trẻ em trên khắp thế giới mắc bệnh sâu răng, còn với người
lớn tỷ lệ này là trên 75%. Ngày càng có nhiều người mang răng giả khi về già. Tỷ
lệ này đang có xu hướng gia tăng ở nước ta do thay đổi mức sống, chế độ ăn, thói
quen sinh hoạt và tuổi thọ thì ngày càng tăng, lại thêm thiếu kiến thức về chăm sóc
sức khỏe răng miệng.
Bệnh sâu răng thực chất là do sự phân hủy khoáng của răng (các yếu tố vô
cơ chủ yếu là canxi) làm mất đi cấu trúc toàn vẹn của răng.
Sâu răng có hai loại chính:
- Sâu răng trên bề mặt bằng phẳng (gặp ở vùng chân răng và quanh chân
răng).
- Sâu răng trên rãnh và khe (gặp ở trên mặt nhai của răng hàm).
Dấu hiệu và triệu chứng bệnh
Đầu tiên xuất hiện một vết trắng trên bề mặt răng sau đó tổn thương chuyển
sang màu nâu, bề mặt men răng bắt đầu bị phá hủy. Sự khử khoáng tiến triển vào
lớp ngà răng (là mô cứng chiếm phần lớn trong thân răng) tạo thành lỗ hổng. Khi
lỗ sâu lớn, để lộ các dây thần kinh răng, gây đau, cảm giác đau tăng lên khi ăn
thức ăn nóng lạnh hoặc chua ngọt. Nếu bệnh tiếp tục thì sâu răng sẽ ăn vào tận
buồng tủy gây viêm tủy, và cảm giác đau sẽ tăng lên rất nhiều. Trong những
trường hợp nặng thì bệnh sẽ lan tới mô mềm gây ra các bệnh như viêm quanh
cuống răng, viêm xương, viêm hạch... nhiều trường hợp biến chứng nhiễm khuẩn
huyết gây tử vong.
Ngoài ra bệnh sâu răng còn gây ra tình trạng hôi miệng gây bất tiện cho
người bệnh. Chẩn đoán cơ bản là thăm khám lâm sàng, kiểm tra bề mặt răng bằng
mắt thường với đèn chiếu sáng và dụng cụ thăm dò. Chẩn đoán này chỉ có thể
phát hiện tổn thương lớn và ở vị trí dễ nhận biết. Đối với tổn thương nhỏ và vị trí
khó nhìn thì phải dùng đến Xquang.
Nguyên nhân gây bệnh
3 nguyên nhân chính gây nên sâu răng là đường, vi khuẩn và thời gian.
Vi khuẩn: Trong miệng chúng ta luôn có một số lượng lớn vi khuẩn. Hai


loại vi khuẩn thường gây sâu răng là: Streptococcus mutans và Lactobacilli. Các vi
khuẩn này bám vào răng nhờ lớp mảng bám răng.
Đường: Các vi khuẩn trên sẽ biến đổi đường thành các acid nhờ quá trình
lên men. Bình thường nước bọt được tiết ra góp phần rửa trôi đường và vi khuẩn
bám lại và để trung hòa acid tiết ra. Nước bọt chính là cơ chế tự bảo vệ của cơ thể
khỏi bệnh sâu răng. Tuy nhiên nếu quá trình lên men xảy ra mạnh mẽ, acid tạo ra
nhiều sẽ là môi trường thuận lợi cho sự khử khoáng xảy ra, khoáng mất đi hình
thành khoang và lỗ trên răng.
Thời gian: Tính thường xuyên của việc răng tiếp xúc với môi trường acid sẽ
thúc đẩy quá trình sâu răng. Số lượng đường ăn vào sẽ không quan trọng bằng số
lần ăn đường.
Ngoài ba yếu tố trên thì bản thân răng cũng là yếu tố góp phần gây bệnh
sâu răng. Đây chỉ là những nhân tố chủ quan. Những răng sữa, răng mới mọc dễ bị
sâu hơn những răng khác. Đó là lý do vì sao trẻ em lại rất dễ bị sâu răng. Những
người mắc bệnh di truyền về răng như rối loạn tạo men răng hay sự hóa ngà răng
bất thường, làm men răng không còn khả năng bảo vệ răng nữa cũng dễ mắc bệnh.
Đối với một số bệnh khác, hay việc dùng một số nhóm thuốc lâu dài gây ra tình
trạng khô miệng, giảm tiết nước bọt cũng dễ bị sâu răng.
Một số nguyên nhân khác làm cho sâu răng trầm trọng hơn là việc hút
thuốc lá. Hút thuốc lá không chỉ có hại với sức khỏe nói chung mà còn làm tăng tỷ
lệ mắc bệnh sâu răng, phá hủy men răng làm mất đi thẩm mỹ của răng.
Điều trị
Với những tổn thương nhỏ, người bệnh tự chữa khỏi bằng một chế độ vệ
sinh răng miệng hợp lý hoặc có thể sử dụng thêm keo fluor. Fluor có thể giúp ngăn
ngừa quá trình phá hủy răng do nó kết hợp chặt chẽ với yếu tố khoáng trong răng,
tăng cường quá trình tái tạo khoáng, bảo vệ men răng tốt hơn với sự khử khoáng.
Tuy nhiên flour rất dễ gây ngộ độc khi nuốt, đặc biệt là trẻ em nên phải rất thận
trọng.
Việc điều trị những tổn thương lớn thường phức tạp và tốn kém hơn nhiều
do răng không thể khôi phục hoàn toàn được. Phương pháp điều trị thường gặp là

hàn răng. Trước khi hàn, nha sĩ sẽ lấy đi phần răng sâu (phần răng đã bị biến đổi
và trở nên mềm hơn) sau đó dùng các vật liệu trám để bít lại. Các vật liệu trám
thường dùng là: hỗn hợp nhựa compotise, sứ, vàng. Một số trường hợp đã bị viêm
tủy răng thì phải dùng đến phép điều trị ống chân răng (Root Canal): lấy hết phần
tủy đi, tạo ống chân răng sau đó lấp kín bằng một loại nhựa két (gulla – percha).
Khi đó răng sẽ không còn có các tế bào sống nữa. Biện pháp cuối cùng là nhổ
răng. Việc nhổ răng sâu chỉ khi răng đó bị phá hủy nhiều và không thể hồi phục.
Phòng ngừa
Việc phòng ngừa sâu răng bao gồm các biện pháp cụ thể sau:
Vệ sinh răng miệng: Bao gồm việc chải răng và dùng chỉ nha khoa hàng
ngày. Mục đích của việc vệ sinh là làm sạch mảng bám trên răng. Việc chải răng
chỉ có thể làm sạch ở hầu hết bề mặt của răng trong khi đó mảng bám răng lại tập
trung chủ yếu ở các kẽ răng. Việc dùng chỉ nha khoa trở nên rất hữu ích do có thể
làm sạch mảng bám răng ở hầu hết các răng. Chỉ nha khoa hiện nay được bán rộng
rãi trên tất cả các hiệu thuốc, việc thao tác lại không phức tạp, khi đã làm thuần
thục thì chỉ cần 1 đến 2 phút là xong. Do vậy bạn nên tập thói quen chải răng và
dùng chỉ nha khoa ngay sau các bữa ăn đều đặn, hàng ngày. Việc dùng chỉ nha
khoa có thể chỉ cần thực hiện một lần một ngày. Bên cạnh đó nên định kỳ khám
răng 6 tháng một lần, chụp Xquang răng để kịp thời phát hiện sâu răng khi tổn
thương chưa tiến triển thành lỗ hổng. Định kỳ lấy cao răng 6 tháng một lần do việc
vệ sinh hằng ngày cũng không thể ngăn cản sự tạo thành mảng bám răng.
Thay đổi chế độ ăn: Nên hạn chế việc ăn đường, nếu có ăn thì nên ăn vào 3
bữa chính và tránh các bữa phụ. Không nên ăn vặt, đặc biệt là với trẻ em. Việc
thường xuyên ăn kẹo và uống các đồ uống có đường là một trong những nguyên
nhân chính dẫn đến sâu răng ở trẻ em. Chế độ ăn nên bổ sung thêm canxi và
vitamin D, đây là những yếu tố giúp răng chắc khỏe.
Biện pháp khác: Một biện pháp khác cũng được dùng là sử dụng chất bịt
kín răng (một loại nhựa). Việc sử dụng chất bịt kín giống như khoác một lớp áo
khoác ngoài cho bề mặt răng. Áo khoác này sẽ ngăn cản việc tạo mảng bám răng,
tránh được nguy cơ sâu răng. Phương pháp này thường áp dụng cho răng hàm mới

mọc của trẻ em. Một phương pháp điều trị khác là điều trị flour thông qua việc sử
dụng thường xuyên kem đánh răng có chứa flour hoặc tăng cường flour hòa tan
trong nước sinh hoạt hàng ngày. Sự nhai và sự kích thích các recepor mùi vị làm
tăng tiết nước bọt cũng làm giảm nguy cơ sâu răng. Đây cũng là lý do mà nhiều
nước sử dụng kẹo cao su có chứa xylitol và đường gỗ (wood sugar) để phòng sâu

×