Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG- TIỂU LUẬN ĐỀ TÀI: Thương mại Việt Nam với nâng cao chất lượng cạnh tranh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 29 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG

---o0o---

BÀI TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: Thương mại Việt Nam với nâng cao chất lượng
cạnh tranh.

Nhóm sinh viên nghiên cứu: Nhóm 7
Giáo viên hướng dẫn: Đặng Thị Thúy Duyên

Hà Nội, tháng 11 năm 2012


Mục lục:
I. Lý luận chung:
1, Cạnh tranh và sức cạnh tranh:
a) Cạnh tranh.
b) Sức cạnh tranh.
2, Thương mại.
II. Thực trạng:
Phần 1: Tổng quan tình hình xuất nhập khẩu từ năm 2000 đến nay:
1, Những thành tựu chủ yếu.
2, Cơ cấu xuất khẩu.
3, Xuất khẩu dịch vụ.
4, Nhập khẩu hàng hóa.
5, Tác động của Hội nhập kinh tế đến xuất nhập khẩu.


6, Những hạn chế, yếu kém
Phần 2: Đầu tư, viện trợ từ nước ngoài vào Việt Nam:
1, Đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam.
1.1. Đầu tư trực tiếp.
1.2 Đầu tư gián tiếp.
2, Tình hình viện trợ ODA vào Việt Nam.
III. Giải pháp:
1, Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu.
2, Giải pháp giảm nhập siêu.
3. Giải pháp thu hút vốn đầu tư.


I. Lý luận:
1, Cạnh tranh và năng lực cạnh tranh:
a) Cạnh tranh là sự “ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm dành
giật được những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu dùng hàng hóa để thu
được nhiều lợi nhuận siêu nghạch” (theo K.Marx).
b) Năng lực cạnh tranh: Ở cấp độ quốc gia, khái niệm “năng lực cạnh tranh”
(Competitiveness) có ý nghĩa là năng suất sản xuất quốc gia. Năng lực cạnh tranh
phụ thuộc vào năng suất sử dụng nguồn lực con người, tài nguyên và vốn của một
quốc gia, bởi chính năng suất xác định mức sống bền vững thể hiện qua mức
lương, tỉ suất lợi nhuận từ vốn bỏ ra, tỉ suất lợi nhuận thu được tài nguyên thiên
nhiên… Năng lực cạnh tranh không phải là việc một quốc gia cạnh tranh trong lĩnh
vực gì để thịnh vượng mà là quốc gia đó cạnh tranh hiệu quả như thế nào trong
các lĩnh vực.

Thứ hạng và điểm số về năng lực cạnh tranh của Việt Nam từ 2008 đến nay. Nguồn: WEF

Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu 2012 – 2013 do WEF thực hiện dựa trên
khảo sát tại 144 quốc gia, vùng lãnh thổ. Theo kết quả xếp hạng này, Việt Nam đạt

tổng điểm 4.1 trên mức điểm tuyệt đối là 7, đứng ở vị trí thứ 75 (thuộc nửa cuối
bảng xếp hạng)


Bảng 1: Xếp hạng và điểm số GCI Việt Nam giai đoạn 2008 - 2012
Nội dung

2008

2009

2010

2011

2012

Điểm số Việt Nam (/tổng 7 điểm)

4,1

4,0

4,3

4,2

4,1

Thứ hạng (/tổng số QG xếp hạng)


70/134

75/133

59/139

65/142

75/144

Tăng/giảm (+/-)

-2

-5

+16

-6

-10

KC so với "đáy" (vị trí cuối BXH)

64

58

80


77

69

Nguồn: The Global Competitiveness Report 2012–2013 của WEF
Như vậy, xét trong 5 năm gần đây (từ 2008 - 2012), vị trí xếp hạng của Việt
Nam có một năm tăng, bốn năm giảm, ít có cải thiện. Năm 2012 điểm số chỉ bằng
năm 2008 và thứ hạng thì bằng năm 2009.Kể từ năm 2010, điểm số đánh giá và thứ
hạng năng lực cạnh của Việt Nam liên tục giảm.
2) Thương mại: là hoạt động trao đổi của cải, hàng hóa, dịch vụ, kiến thức, tiền tệ
v.v giữa hai hay nhiều đối tác, và có thể nhận lại một giá trị nào đó (bằng tiền
thơng qua giá cả) hay bằng hàng hóa, dịch vụ khác như trong hình thức thương mại
hàng đổi hàng (barter). Trong quá trình này, người bán là người cung cấp của cải,
hàng hóa, dịch vụ... cho người mua, đổi lại người mua sẽ phải trả cho người bán
một giá trị tương đương nào đó.


hóa

Thương mại gồm hai bộ phận chính, đó là nội thương và ngoại thương.
Nội thương là hoạt động kinh tế trao đổi mua bán hàng hóa trong nước.Nội thương
có đủ các thành phần kinh tế tham gia, quan trọng nhất là kinh tế tư nhân, cá
thể.Ngoại thương hay còn gọi là thương mại quốc tế là hoạt động trao đổi mua bán
hàng hóa qua biên giới lãnh thổ. Ngoại thương là hoạt động quan trọng nhất của
thương mại.


II. Thực trạng:
Phần 1. Tổng quan tình hình xuất nhập khẩu từ năm 2000 đến nay của Việt

Nam
1. Những thành tựu chủ yếu:
- Xuất khẩu hàng hoá đã đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh hơn 2,4 lần tốc độ
tăng trưởng GDP, góp phần quan trọng vào tăng trưởng chung của nền kinh tế,
tạo việc làm và nâng cao thu nhập của hàng triệu lao động.
- Thời kỳ chiến lược 2001 – 2010, tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hố
bình qn 17,3% /năm, nhanh hơn tốc độ tăng trưởng GDP trên 2,4 lần (GDP
tăng bình quân 7,21 % / năm) vượt mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 2001 – 2010 (tăng trưởng xuất khẩu nhanh gấp 2 lần nhịp độ tăng trưởng
GDP) và vượt chỉ tiêu tăng trưởng xuất khẩu hàng hoá đã đề ra trong chiến lược
phát triển Xuất Nhập Khẩu thời kỳ 2001 – 2010 (tăng trưởng bình quân 15% /
năm).
- Việt Nam có vị thế ngày càng lớn trong xuất khẩu hàng hố tồn cầu. Tỉ trọng
kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam trong tổng kim ngạch xuất khẩu
hàng hoá thế giới đã tăng từ 0,24% trong năm 2001 lên 0,46% trong năm 2010.
Đến nay, nhóm hàng chế biến xuất khẩu của Việt Nam đã chiếm trên 0,28 % thị
phần tồn cầu, nhóm hàng thơ và sơ chế chiếm trên 0,72 % (riêng điều nhân
chiếm khoảng 50 %, hồ tiêu chiếm khoảng 45 %, cà phê chiếm 16 -18 %, cao su
thiên nhiên 8 – 10 %, chè uống chiếm 5 – 6 %, thuỷ sản chiếm 5 – 6 %, đồ gỗ
chiếm 2 – 3 %, gạo chiếm 12 – 18 %).
- Xuất khẩu hàng hố góp phần chính yếu vào tăng trưởng GDP, trở thành động
lực chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong 10 năm qua. Trong phần tổng cầu
đóng góp cho tăng trưởng GDP, trước năm 2005, mức đóng góp của xuất khẩu
hàng hố là một số âm (năm 2005 là – 58,1%), trong giai đoạn 2006 – 2008 đóng
góp của xuất khẩu hàng hố ln là một số dương (năm 2006 là + 99,9 %, năm
2007 là + 68,7 %, năm 2008 là + 50,2 %).
- Xuất khẩu là một động lực tăng trưởng của khu vực kinh tế nơng nghiệp nơng
thơn, góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế của khu vực này theo hướng
Cơng Nghiệp Hóa, Hiện Đại Hóa và hướng về xuất khẩu. Năm 2005, kim ngạch
xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản đạt 8,5 tỷ USD, gấp 2,1 lần năm 2001 (4,0 tỷ



USD), đến năm 2010, ước đạt trên 16 tỷ USD (mục tiêu chiến lược là 9 – 10 tỷ
USD).
- Xuất khẩu cũng là động lực của khu vực công nghiệp, góp phần chuyển dịch cơ
cấu các ngành cơng nghiệp hướng về xuất khẩu. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản
xuất cơng nghiệp thời kỳ 2001 – 2010 bình qn đạt 15 % / năm, giá trị gia tăng
công nghiệp luôn tăng nhanh hơn tốc độ tăng GDP khoảng 1,4 lần, đạt nhịp độ
tăng trưởng 11% / năm (mục tiêu chiến lược là 10 – 10,5 % /năm). Tỷ trọng hàng
công nghiệp trong tổng kim ngạch xuất khẩu đã tăng từ 71% trong năm 2000 lên
76,3 % trong năm 2007 và chiếm gần 80 % trong năm 2010 (mục tiêu chiến lược
70 – 75%).
- Trong điều kiện mơ hình tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào tăng trưởng đầu
tư, xuất khẩu hàng hoá trở thành kênh dẫn quan trọng thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài, thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế. Khoảng 55% tổng số dự án và trên
50 % tổng số vốn FDI đã được thu hút vào các ngành công nghiệp chế biến chế
tạo xuất khẩu. Số doanh nghiệp FDI trực tiếp tham gia xuất khẩu tăng nhanh tới
1.854 doanh nghiệp trong năm 2010, chiếm gần 20% tổng số doanh nghiệp cả
nước. Tỷ trọng của khu vực FDI trong tổng kim ngạch xuất khẩu đã tăng từ
45,2% trong năm 2001 lên 57,5% trong năm 2007 và khoảng 45,2% trong năm
2010.
- Kim ngạch xuất khẩu hàng hố bình qn đầu người đã tăng từ mức 175 USD
trong năm 2000 lên 750USD trong năm 2010, rút ngắn dần khoảng cách chênh
lệch so với một số nước trong khu vực. Tăng trưởng xuất khẩu đã góp phần tạo
việc làm và thu nhập cho hàng triệu lao động, nâng cao đời sống của nhân dân.
Trong điều kiện xuất khẩu dịch vụ chưa phát triển nhiều, xuất khẩu hàng hoá là
thành phần đóng góp chính tạo lập và hạn chế thâm hụt cán cân thanh toán vãng
lai của nền kinh tế.
2.Cơ cấu xuất khẩu đã có xu hướng chuyển dịch tích cực, gắn chuyển dịch cơ
cấu mặt hàng với cơ cấu thị trường xuất khẩu, xây dựng được nhóm hàng

xuất khẩu chủ lực và gặt hái được thành công ở một số khâu đột phá tăng
trưởng xuất khẩu.


Hàng dệt may vẫn đứng đầu danh sách các mặt hàng xuất khẩu
vào Mỹ
- Tỷ trọng của nhóm hàng chế biến, chế tạo đã tăng được 8,3% trong 10 năm qua,
từ 46,7% trong năm 2001 lên 55% trong năm 2010, tỷ trọng của nhóm hàng thơ
và sơ chế đã giảm từ 58,3% xuống còn 45% trong thời gian tương ứng; riêng tỷ
trọng của nhóm hàng nơng, lâm, thuỷ sản đã giảm từ 29,5% xuống 22,5%. Năm
2001, có 4 mặt hàng xuất khẩu chủ lực đạt kim ngạch trên 1tỷ USD (gồm dầu thô,
dệt may, giầy dép, thuỷ sản), với tổng giá trị 8,4 tỷ USD, chiếm 56% kim ngạch
xuất khẩu. Đến năm 2010, đã có 17 mặt hàng và nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ
lực (thuỷ sản, gạo, cà phê, cao su, sản phẩm gỗ, than đá, dầu thô, xăng dầu, sắt
thép và sản phẩm thép, dệt may, giầy dép, đá quý và kim loại quý, máy vi tính và
linh kiện, máy móc thiết bị, dây điện và cáp điện, phương tiện vận tải), với tổng
giá trị khoảng 45 tỷ USD, chiếm 63% kim ngạch xuất khẩu.
- Về cơ bản, Việt Nam đã thực hiện được thành công một số khâu đột phá chiến
lược tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu. Trong 5 năm đầu (2001
– 2005), các ngành sản phẩm kết hợp giữa lao động giản đơn và cơng nghệ trung
bình đã được coi trọng phát triển như: Thủ công mĩ nghệ, thực phẩm chế biến,
sản phẩm nhựa, hoá phẩm tiêu dùng, sản phẩm gỗ và sản phẩm cơ khí, điện.
Trong đó, xuất khẩu nhóm hàng thủ cơng mĩ nghệ (mây, tre, cói, thảm, gốm sứ,
đá và kim loại quý) đã tăng trưởng bình quân 23% / năm, kim ngạch tăng từ 377
triệu USD trong năm 2000 lên 3.177 triệu USD trong năm 2009 và khoảng gần
4,0 tỷ USD trong năm 2010 xuất khẩu gỗ tăng trưởng bình quân 26% / năm; xuất


khẩu sản phẩm nhựa tăng bình quân 25%/ năm, kim ngạch tăng từ 122 triệu USD
trong năm 2000 lên xấp xỉ 1 tỷ USD trong năm 2009 và vượt 1,1 tỷ USD vào năm

2010.
- Cơ cấu thị trường đã có sự chuyển dịch đáng kể, về cơ bản phù hợp với định
hướng điều chỉnh chiến lược thị trường, hình thành cơ cấu hợp lý. Tỷ trọng của
thị trường châu Á trong tổng kim ngạch xuất khẩu đã giảm từ 60,6% trong năm
2001 xuống 50 % trong năm 2005 và duy trì ở mức 45,5% - 48% trong giai đoạn
2006 – 2010, cơ bản phù hợp với mục tiêu đề ra là 45%. Riêng tỷ trọng của Nhật
Bản đã giảm dần từ 16,7% trong năm 2001 xuống 13,3% trong năm 2005 và
khoảng 10% trong năm 2010 (chiến lược là 17 – 18%); tỷ trọng của thị trường
Trung Quốc, Đài Loan và Hồng Kơng giảm từ 15,8% xuống 13,9% và cịn
khoảng 12% trong thời gian tương ứng (chiến lược là 14 – 16%); tỷ trọng của thị
trường ASEAN tương đối ổn định ở mức 17 – 18% (chiến lược là 15 – 16%); tỷ
trọng của thị trường châu Mỹ trong tổng kim ngạch xuất khẩu đã tăng nhanh
trong giai đoạn 2001 – 2005 từ 9,3% năm 2001 lên 22 % trong năm 2005 và
tương đối ổn định ở mức 22,5% - 23% trong giai đoạn 2006 – 2010.
- Thực hiện thành công khâu đột phá về thị trường xuất khẩu là tăng nhanh tỷ
trọng của thị trường Hoa Kỳ từ 7,1% trong năm 2001 lên 18,2% trong năm 2005
và duy trì ở mức 19 -20% trong gian đoạn 2006 – 2010 (chiến lược là 15 –
20%).
3. Xuất khẩu hàng hoá đã từng bước gắn kết với xuất khẩu dịch vụ. Xuất
khẩu tại chỗ bước đầu đã thu được ngoại tệ đáng kể, góp phần thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại.
- Xuất khẩu dịch vụ thời kỳ 2001 – 2010 tăng trưởng bình quân 10% / năm.
Trong cơ cấu xuất khẩu dịch vụ năm 2008, dịch vụ du lịch và xuất khẩu lao động
chiếm 56%, dịch vụ hàng không chiếm 19%, dịch vụ hàng hải chiếm 15%. Trong
10 năm qua, xuất khẩu dịch vụ theo phương thức tiêu dùng ở nước ngoài là chủ
yếu, chiếm khoảng 56% kim ngạch xuất khẩu dịch vụ, xuất khẩu theo phương
thức cung cấp qua biên giới chiếm khoảng 39%, xuất khẩu theo phương thức hiện
diện thương mại và di chuyển thể nhân chiếm khoảng 5%. Sự phát triển dịch vụ
đã tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy xuất khẩu tại chỗ hàng hố Việt Nam thơng
qua du lịch. Giá trị xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tại chỗ tăng liên tục từ 215

triệu USD năm 2001 lên 500 triệu USD vào năm 2010.
4. Nhập khẩu hàng hoá đã coi trọng nhiều đến ngun nhiên vật liệu, máy
móc thiết bị và cơng nghệ phục vụ sản xuất trong nước, đáp ứng nhu cầu


tăng trưởng dựa vào đầu tư và xuất khẩu, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng CNH, HĐH.
- Phần chủ yếu trong tổng giá trị nhập khẩu hàng năm là các nhóm hàng nguyên,
nhiên vật liệu, máy móc thiết bị và công nghệ cho các dự án đầu tư phát triển sản
xuất, tạo nguồn hàng cho xuất khẩu, đóng góp cho tăng trưởng kinh tế. Trong giai
đoạn 2001 – 2005 tỷ trọng của nhóm hàng này chiếm khoảng 50% tổng kim
ngạch nhập khẩu và bằng khoảng 40 % GDP; trong giai đoạn 2006 – 2010 chiếm
khoảng 70% tổng kim ngạch nhập khẩu và bằng khoảng 60% GDP (riêng năm
2008, các chỉ số tương ứng là 74,7% và 65,1%). Tỷ trọng của nhóm hàng tiêu
dùng cần kiểm sốt và hạn chế nhập khẩu tuy tăng mạnh từ 22,8% trong năm
2005 lên 26,7% trong năm 2008 nhưng sau đó đã giảm dần còn khoảng 18 – 19%
trong 2 năm 2009 – 2010. Năm 2008 – 2010, tỷ trọng của nhóm hàng thô và sơ
chế chiếm khoảng 25 – 26%, tỷ trọng nhóm hàng chế biến và tinh chế chiếm
khoảng 74 – 75% trong tổng kim ngạch nhập khẩu.
- Nhập siêu tuy tăng cao trong các năm 2006 – 2008, nhưng sau đó đã được kiềm
chế, tỷ lệ giá trị nhập siêu so với kim ngạch xuất khẩu đã giảm từ 29,1% trong
năm 2008 xuống còn 22,5% trong năm 2009 và 15% trong năm 2010. Phần chủ
yếu trong cơ cấu nhập siêu mang tính tích cực, tạo nền tảng cho phát triển sản
xuất, tăng nguồn hàng xuất khẩu giúp giảm bớt giá trị nhập siêu trong thời gian
tới.
- Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa sáu tháng đầu 2012 đạt 53,8 tỷ USD, tăng 6,9%,
trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 25,8 tỷ USD giảm 8,2%, khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài đạt 28 tỷ USD, tăng 26,1% so với cùng kỳ năm trước. Nếu loại
trừ yếu tố giá, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu sáu tháng năm nay chỉ tăng 3,6% so
với cùng kỳ năm trước; đó là mức tăng thấp nhất kể từ 2009 là những năm suy

thoái kinh tế. Nhập siêu của cả nước là 658 triệu USD, bằng 1,3% kim ngạch xuất
khẩu; giảm rõ rệt so với 6,7 tỷ USD, chiếm 15,7% cùng kỳ năm trước. Đáng lưu ý
là trong khi nhập siêu của khu vực kinh tế trong nước là 5,3 tỷ USD bằng 25,8%
kim ngạch xuất khẩu; thì khu vực có vốn đầu tư nước ngoài lại xuất siêu 4,6 tỷ
USD, bằng 14,1% kim ngạch xuất khẩu.
5. Hội nhập quốc tế đã tác động tích cực, nhiều mặt đến XNK.
- Đến nay Việt Nam đã tham gia ký kết gần 12 nghìn điều ước quốc tế, thiết lập
quan hệ ngoại giao với 178 nước, có quan hệ thương mại với trên 220 nước và
vùng lãnh thổ, đã ký kết 88 Hiệp định thương mại song phương, 7 Hiệp định thiết
lập khu vực thương mại tự do (FTA) với 15 nước, 54 Hiệp định tránh đánh


thuế 2 lần và 61 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương. Trong
giai đoạn 2001 – 2010, cùng với việc ký Hiệp định thương mại song phương với
Hoa kỳ (BTA), gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Việt Nam đã tiếp
tục hội nhập thương mại khu vực sâu rộng hơn trong khung khổ 6 FTA khu vực.
Tỷ trọng thương mại 2 chiều giữa Việt Nam với 15 nước đối tác đã có FTA
chiếm gần 60% tổng giá trị thương mại quốc tế của Việt Nam, trong đó, chiếm
gần 50% kim ngạch xuất khẩu và gần 70% kim ngạch nhập khẩu. Hàng hoá của
Việt Nam đã mở rộng được thị phần sang các thị trường lớn. Từ sau 2007 khi gia
nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), lòng tin của các nhà đầu tư nước ngồi
vào Việt Nam được cải thiện, dịng chẩy FDI và FII vào Việt Nam tăng mạnh,
góp phần quan trọng vào tăng trưởng GDP.
- Hội nhập quốc tế sâu rộng đã tạo điều kiện quan trọng để hạn chế những tác
động bất lợi của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thối kinh tế tồn cầu. Thị
trường xuất khẩu trở nên đa dạng hơn, thúc đẩy đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu,
hàng hoá Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào các thị trường trọng điểm, xuất khẩu
tăng trên hầu hết các thị trường và ít có biểu hiện chuyển hướng thương mại dưới
tác động của các FTA đã tham gia. Một số mặt hàng được hưởng lợi từ các thoả
thuận FTA đã có bước tăng trưởng xuất khẩu đột biến như xuất khẩu dệt may

sang Hàn Quốc tăng 84% trong năm 2009 và tăng 70% trong năm 2010.
Những thành tựu đã đạt được chủ yếu là do những nguyên nhân sau:
-Nhờ chiến lược phát triển XNK và hội nhập quốc tế đúng đắn, kịp thời, sự chỉ
đạo năng động của Chính phủ cũng như sự nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp,
của các cấp, các ngành và của toàn dân.
- Bộ Cơng thương đã có những biện pháp chỉ đạo, điều hành quyết liệt lĩnh vực
hoạt động XNK nhằm thúc đẩy xuất khẩu và hạn chế nhập siêu.
- Nhờ những điều kiện thuận lợi của tình hình kinh tế trong nước và thế giới.
Kinh tế thế giới sau kỳ suy giảm giai đoạn 1996 – 2001 đã bước vào thời kỳ tăng
trưởng cao trong giai đoạn 2002 – 2008 (tăng trưởng bình qn 9,7% / năm tính
theo giá thực tế). Kinh tế Việt Nam sau kỳ suy giảm giai đoạn 1996 – 2000 (tăng
trưởng bình quân 6,9% / năm so với giai đoạn 1991 – 1995 là 8,2% / năm).
- Kinh tế vĩ mô tương đối ổn định, đầu tư tăng cao cùng các điều kiện thuận lợi
của môi trường kinh doanh quốc tế, nhất là khi gia nhập Tổ chức thương mại thế
giới (WTO) và các FTA, hàng rào bảo hộ tại các nước nhập khẩu hàng Việt Nam
giảm mạnh đã có tác động tích cực đến mở rộng xuất khẩu.


6, Những hạn chế, yếu kém:
- Quy mô xuất khẩu còn nhỏ, phát triển xuất khẩu vẫn chủ yếu theo chiều rộng,
chất lượng tăng trưởng thấp, chi phí xuất khẩu cao, hoạt động xuất khẩu phản ứng
chậm so với các biến động của thị trường thế giới, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu
chậm chuyển dịch theo hướng hiệu quả, hiện đại.
- Nhập khẩu hàng hoá và nhập siêu tăng cao tác động bất lợi đến các cân đối kinh
tế vĩ mô, chưa hướng mạnh vào phần cốt lõi của CNH, HĐH, chưa cải thiện được
nhiều tình trạng lạc hậu về cơng nghệ ở một số ngành, ít tiếp cận được với cơng
nghệ nguồn.
- Sự phát triển thị trường ngồi nước chủ yếu theo chiều rộng, chưa hướng mạnh
vào phát triển theo chiều sâu, chất lượng thông tin dự báo chiến lược thị trường
quốc tế còn yếu kém, chưa thực hiện thành công một số bước điều chỉnh chiến

lược thị trường XNK.
- Hội nhập các FTA chưa có một chiến lược tổng thể và lộ trình thống nhất, đồng
bộ với chiến lược phát triển XNK, chưa tận dụng hiệu quả cơ hội và điều kiện
thuận lợi của hội nhập quốc tế để đẩy mạnh xuất khẩu.
- Công tác quản lý Nhà nước đối với XNK hàng hố tuy đã có nhiều cải tiến
nhưng cịn một số hạn chế, thụ động, tính đồng bộ chưa cao.
- Tỷ lệ nhập siêu/GDP đã tăng từ mức 3,6% năm 2001 lên 12,9% vào năm 2003
trước khi giảm xuống còn 8,3% vào năm 2006. Từ năm 2007, nhập siêu so với
GDP đã có những thay đổi lớn.Tỷ lệ này lên tới 20% vào các năm 2007-2008 và
sau đó giảm mạnh xuống chỉ cịn 12% vào năm 2010.Như vậy, nhập siêu còn tăng
nhanh hơn so với tốc độ tăng GDP.Nói cách khác, những đánh đổi từ việc chấp
nhận chênh lệch giữa đầu tư và tiết kiệm trong nước dường như chưa mang lại hiệu
quả rõ rệt về tăng trưởng kinh tế.
- Tiếp đến là chưa xây dựng đầy đủ các tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn vệ sinh an
tồn thực phẩm và sự bất cập trong cơng tác kiểm tra theo các tiêu chuẩn này đối
với hàng nhập khẩu để góp phần bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước, bảo vệ lợi ích
người tiêu dùng phù hợp; công tác tổ chức xuất khẩu, nhất là xuất khẩu những mặt
hàng có khối lượng và giá trị lớn còn nhiều hạn chế, chưa tạo điều kiện tốt cho việc
xác lập mối liên kết giữa người sản xuất nguyên liệu, doanh nghiệp chế biến,
thương nhân xuất khẩu nhằm ổn định nguồn nguyên liệu, bảo đảm chất lượng sản
phẩm và khả năng điều tiết lượng hàng xuất khẩu, đạt đến giá xuất khẩu cao. Việc
vận dụng các biện pháp phòng vệ thương mại chưa thực sự hiệu quả.


Phần 2: Đầu tư, viện trợ từ nước ngoài vào Việt Nam
1. Đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam
1.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay đang diễn ra trên quy mơ tồn cầu với
khối lượng và nhịp độ chu chuyển ngày càng lớn. Bên cạnh việc phát huy nguồn
lực trong nước, tận dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi được coi là một sự thơng

minh để rút ngắn thời gian tích lũy vốn ban đầu, tạo tiền đề vững chắc cho phát
triển kinh tế, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển. Chính vì lẽ đó mà FDI
được coi là “chìa khóa vàng” để mở ra cánh cửa thịnh vượng cho các quốc gia.
Trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa có sự quản lý vĩ mơ của Nhà nước, Đảng ta đã nhận thấy vai trò hết sức
to lớn của đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần vào đưa sự nghiệp CNH-HĐH đi
đến thắng lợi, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH ở nghiệp vẻ vang của
dân téc ta :"có thể nói , trong thời đại ngày nay không một quố gia nào dù lớn ,dù
nhỏ, dù phát triển theo con đường Tư bản chủ nghĩa hay định hướng XHCN lại
không cần đến nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, và coi đó là một nguồn lực
quốc tế cần khai thác để từng bước hoà nhập vào cộng đồng quốc tế ".
Trước sự đổi mới trong nhận thức đó ,ngày 29 tháng 12 năm 1987,Luật đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam đã được Quốc Hội nước Việt Nam thông qua, mở ra một
cơ hội mới trong giao lưu và tiếp thu những thành tựu mơí của thế giới về cáclĩng
vực của đời sống xã hội , tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động ,nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Cho đến nay, sau hơn 10 năm kể từ khi
triển khai Luật ĐTNN tại Việt Nam "cộng đồng các DN có vốn ĐTNN đã trở
thành một bộ phận quan trọng của nền kinh tế nước ta".
Vậy thực trạng của đầu tư trực tiếp nước ngoài ở nước ta ra sao? Ta có thể xét
tới một số khía cạnh sau:
a. Về qui mơ và nhịp độ đầu tư:
Sau khi có hiệu lực (năm 1988), luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã thực
sự phát huy hiệu quả trong thu hót vốn từ bên ngồi. Cho đến năm 2000, tổng số
dự án đầu tư vào nước ta (kể cả số dự án bị rút giấy phép) là 3144 dự án với tổng
số vốn đăng ký cấp mới là 38.552 triệu USD và số vốn tăng thêm là 6.000 triệu
USD. Tuy nhiên, số vốn bị giải thể lên tới 7.014 triệu USD.Số vốn hết hạn là 292
triệu USD. Như vậy số vốn còn hiệu lực là 37.246 triệu USD. Trong tổng số vốn
đăng ký tại Việt Nam thì số vốn thực hiện là 17.682 triệu USD, bằng 47,5% tổng
số vốn còn hiệu lực.



b. Cơ cấu đầu tư:
Trong những năm qua ,vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đầu tư vào khu vực
khách lịch và xây dựng văn phòng ,căn hộ còn rất lớn. Các ngành này thu hót sạn
,du tới trên 30%tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Cho đến năm
2000, có khoảng 250 dự án cịn hiệu lực đầu tư vào các ngành này với tổng số vốn
đăng ký khoảng 7,6 tỷ USDvà tổng vốn đã thực hiện đạt khoảng 3,2 tỷ USD. Tuy
số dự án này đã làm thay đổi căn bản một số ngành dịch vụ nước ta nhưng chưa
phải là tốt nhất cho nền kinh tế nước ta.
Cũng trong những năm qua, mặc dù chiếm tới hơn 38% vốn đăng ký nhưng rõ
ràng tỷ lệ này chưa đáp ứng được yêu cầu của ngành cơng nghiệp cịng nh chưa
tương xứng với vai trị của nó. Tuy nhiên trong một số ngành sản xuất cơng
nghiệpnh sản xuất và lắp ráp xe máy, ô tô, điện tử, tủ lạnh khu vực các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã chiếm tới từ 80% đén 100% tổng giá trị sản
phẩm. Bên cạnh đó, một số ngành sản xuất vật chất khác nh nông lâm nghiệp
,thuỷ sản hay tài chính – ngân hàng cũng chiếm một tỷ trọng hết sức khiêm tốn
trong thu hót đầu tư. Hay trong một số lĩnh vực xã hội như văn hoá giáo dục, y
tếthì vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi vào cũng hết sức nhỏ bé do các ngành này
đều có một đặc điểm trung là đọ rủi ro cao, lợi nhuận thấp hoặc thời gian hoàn vốn
đầu tư lâu. Đây cũng là một vấn đề đặt ra trong hoạt động đầu tư nước ngoài.
Cơ cấu đầu tư theo lãnh thổ:
Trong những năm qua, sự phân bố nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ
yếu tập trung vào một số địa phương phương có cơ sở hạ tầng tương đối tốt, điều
kiện mơi trường kinh tế thuận lợi, có nhiều chính sách ưu đãi với hệ thống các khu
cơng nghiệp – khu chế xuất (KCN-KCX) có cơ sở vật chất tốt, giá thuê đất rẻ. Các
địa phương này chủ yếu thuộc các vùng Đông nam bộ, Đồng bằng sông Hồng(hai
vùng kinh tế trọng điểm của cả nước), chiếm tới 82,74% vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài của cả nước.
Một số tỉnh tuy có ít số dự án nhưng số vốn đăng ký tương đối lớn. Đó là tỉnh Bà
Rịa – Vũng Tàu, với 96 dự án nhưng số vốn lên tới 2.515,9 tr.USD. Số vốn này

chủ yếu tập trung và một số dự án thăm dò và khai thác dầu khí. Hay tỉnh Quảng
Ngãi, với dự án xây dựng nhà máy lọc dầu Dung Quất dự án lớn nhất từ trước tới
nay (với hơn 1,3 tỷ USD) đã nâng tổng số vốn lên 1,333 tỷ USD trong khi chỉ có 8
dự án .
Tuy nhiên, bên cạnh những tỉnh, thành phố nêu trên, một số vùng như Tây
Nguyên và Tây Bắc chỉ thu hót đước rất ít dự án với số vốn cũng hết sức khiêm
tốn, lần lượt chiếm 0,16 và 0,15% tỏng vốn đầu tư nước ngoài trên phạm vi cả


nước. Hầu hết các tỉnh thuộc các vùng này đèu hết sức khó khăn trong việc phát
triển cơ sở hạ tầng các dự án đầu tư chủ yếu tập trung vào công nghiệp khai thá
hoặc một số dự án về phát triển, khia thác nơng,lâm nghiệp. Chính vì vậy, việc
khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngồi vào các vùng này có ý nghĩa hết sức to
lớn trong cơng tác xoá, thu hẹp khoảng cách về phát triển kinh tế giữa các địa
phương trong cả nước .
Như vậy xu hướng đầu tư vào một số vùng kinh tế trọng điểm là một xu hướng
mạnh. Đây cũng là một vấn đề đang đặt ra trong hoạt đọng thu hót vốn đầu tư trực
tiếp nước ngồi tại Việt Nam .
Các hình thức đầu tư:
Trong Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987, chúng ta đề cập tới 3
hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài là: Hợp đồng hợp tác kinh doanh ,Liên
doanh và 100% vốn nước ngoài. Tuy nhiên, trong q trình thu hót vốn FDI đã
xuất hiện một hình thức đầu tư mới, đó là BOT (Build- Operate – Transfer: Xây
dựng- Kinh doanh – Chuyển giao).
Về hình thức liên doanh, đây là hình thức liên kết kinh tế phổ biến nhất mà
các cơng ty nước ngồi khi đầu tư vào nước ta thường lựa chọn.Hình thức này hiện
chiếm khoảng 70% lượng vốn đầu tư vào nước ta. Do có những ưu điểm nhất định,
như: thuận lợi trong xin cấp phép, nhanh chóng trong việc thăm dị khai thác thị
trườngnước bản xứ... nên hình thức này ngày càng phát ra tăng về số lượng.
Về hình thức 100% vốn nước ngồi: đây là hình thức phổ biến thứ hai sau hình

thức liên doanh . Các cơng ty 100% vốn nước ngồi thường có một số khó khăn
bước đầu song đèu là các công ty hết sức linh hoạt , tuy có một số ít do khơng nắm
bắt kỹ và xu hướng vận động của thị trường Việt Nam nên đã dẫn tới việc giải thể
trước hạn. Nhưng cũng có nhiều cơng ty tìm thấy cơ hội thành cơng ở Việt Nam.
1.2. Đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam.
Đối với Việt Nam, thu hút nguồn vốn FPI mang một ý nghĩa rất quan trọng. Để
thực hiện thành công sự nghiệp Cơng Nghiệp Hóa –Hiện Đại Hóa đất nước, Việt
Nam cần một lượng vốn đầu tư rất lớn (khoảng 140 tỷ USD) cho giai đoạn (20062010) để xây dựng, từng bước hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế và hạ tầng xã
hội. Các doanh nghiệp Việt Nam đang trong q trình cải cách và cổ phần hóa
nhằm gia tăng năng lực và hiệu quả cạnh tranh khi gia nhập WTO. Cổ phần hóa
phải đi đơi với việc hình thành các thị trường vốn, các kênh huy động vốn (hạt
nhân là thị trường chứng khoán (TTCK).Các mối quan hệ kinh tế gia tăng, dịng
vốn lưu chuyển nhanh sẽ góp phần tạo ra các hiệu ứng tốt tác động đến các doanh
nghiệp.Lợi ích của hội nhập khơng những được đánh giá thông qua sự luân


chuyển (vào, ra) dễ dàng của dịng hàng hóa, dịng người mà cịn có cả dịng
vốn.Việc tham gia của các nhà đầu tư FPI sẽ có tác động mạnh mẽ đến thị trường
tài chính, giúp cho thị trường tài chính minh bạch và hoạt động hiệu quả hơn, xác
lập giá trị thị trường của các cổ phiếu niêm yết một cách chuyên nghiệp, giảm
thiểu những dao động “phi thị trường” và góp phần giải quyết một cách cơ bản
các mối quan hệ kinh tế (vốn, công nghệ, quản lý…).
Hơn nữa, FPI có thể giúp vốn cho doanh nghiệp trong nước, giúp doanh nghiệp
tăng trưởng và nâng cao năng lực cạnh tranh, do vậy FPI rất quan trọng đối với các
doanh nghiệp trong nước đang thiếu vốn.
Nguồn vốn FPI đã và đang trở lại được Ngân hàng Nhà nước đánh giá là một yếu
tố thuận lợi góp phần cho việc cân đối cán cân thanh toán, ổn định cung - cầu
ngoại tệ và tỷ giá trên thị trường, bên cạnh các nguồn vốn khác.
Giai đoạn 1: (1998-2002): Đây là thời kỳ Việt Nam chịu nhiều tác động từ cuộc
khủng hoảng tài chính châu Á và suy thối kinh tế tồn cầu. Trong giai đoạn 19982002, khơng có quỹ đầu tư mới nào được thành lập ở Việt Nam.Ngược lại, các quỹ

đầu tư đều có xu hướng rút vốn khỏi Việt Nam. Trong số 7 quỹ được thành lập, có
5 quỹ rút khỏi Việt Nam, 1 quỹ thu hẹp quy mô tới 90%, chỉ còn duy nhất quỹ
Vietnam Enterprise Invesment Fund (Veil) – là quỹ nhỏ nhất trong số 7 quỹ trên,
có số vốn đầu tư 35 triệu USD - còn duy trì hoạt động.
Giai đoạn 2: (2003-2007): Đây là giai đoạn phục hồi và bùng nổ vốn FPI tại Việt
Nam. Trong giai đoạn này, một loạt các chính sách, nghị định, Luật lệ đã được ban
hành, tạo hành lang pháp lý thơng thống, minh bạch, rõ ràng hơn cho dịng vốn
FPI. Hàng loạt các định chế thị trường tài chính, trong đó có việc thành lập Sàn
giao dịch chứng khốn TP Hồ Chí Minh (tháng 7/2000) và Sàn giao dịch chứng
khốn Hà Nội (tháng 3/2005), đặc biệt là những chủ trương, quyết tâm của chính
phủ trong việc đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp, nới lỏng tỷ lệ nắm
giữ cổ phần, cổ phiếu của các nhà đầu tư nước ngồi trong các doanh nghiệp nhà
nứơc và trong các cơng ty niêm yết trên thị trường chứng khoán đã khiến dòng vốn
FPI vào Việt Nam tăng mạnh. Theo báo cáo của Ngân hàng ANZ (tập đoàn ngân
hàng hữu hạn Úc và New Dilân), trong giai đoạn 2001-2006, vốn FPI vào Việt
Nam đạt 12 tỷ USD, năm 2007 đạt khoảng 5,7 tỷ USD. Còn theo báo cáo của Bộ
ngoại giao, vốn FPI vào Việt Nam năm 2007 đạt 7,414 tỷ USD, tăng gấp 5 lần so
với con số 1,313 tỷ USD của năm 2006. Tính đến tháng 6 năm 2006, cả nước có 19
quỹ đầu tư nước ngồi với tổng số vốn là 1,9 tỷ USD đang hoạt động ở Việt Nam.
Vào năm 2005, Việt Nam có khoảng 436 nhà đầu tư gián tiếp nứơc ngồi, trong đó
có 38 nhà đầu tư nứơc ngồi có tổ chức và 389 nhà đầu tư nước ngoài cá nhân.


Và đặc biệt năm 2006 đánh dấu thời điểm Việt Nam gia nhập WTO, là một dấu
mốc quan trọng cho đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam.ở giai đoạn 20062008 cùng với sự đi lên của thị trường chứng khoán, luồng vốn liên tục tăng nhanh
và liên tục thu hoạch thành công và lượng đầu tư chủ yếu vào thị trường trái phiếu.
Việc bùng nổ FPI góp phần thúc đẩy hệ thống ngân hàng ở Việt Nam phát triển
mạnh
Giai đoạn 3: (2008-nay): Đây là thời kỳ dòng vốn FPI vào Việt Nam có xu
hướng chững lại do tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Trên

thị trường chứng khoán Việt Nam, kể từ tháng 8 năm 2008 các nhà đầu tư nước
ngoài bắt đầu bán rịng, khiến thị trường chứng khốn bị rối loạn, gây tác động tâm
lý không tốt đối với các nhà đầu tư trong nước. Chỉ số VN-Idex giảm gần 70% giá
trị trong tháng 8 năm 2008.Trong hai năm 2008-2009, thị trường chứng khoán Việt
Nam bị coi là thị trường tồi tệ nhất thế giới. Trong giai đoạn khủng hoảng tài chính
thế giới 2008-2009, dịng vốn đầu tư gián tiếp nước ngồi vào Việt Nam có dấu
hiệu chững lại, khối lượng khơng nhiều, với khoảng 13.000 tài khoản giao dịch,
trong đó có trên 1.200 tài khoản là của các tổ chức và quỹ đầu tư nước ngoài, nhà
đầu tư nước ngoài chỉ chiếm khoảng 1,5% số nhà đầu tư tham gia thị trường chứng
khốn. Cả năm 2008, dịng vốn FPI chảy ra ước khoảng 558 triệu USD. Trong quý
I năm 2009, luồng vốn FPI sụt giảm mạnh, chỉ còn khoảng 3,7 tỷ USD trong giá trị
danh mục trên thị trường chứng khoán. Việc huy động vốn trên thị trường chứng
khoán giảm khoảng 70-80% so với năm 2008. Tuy nhiên, trong quý II năm 2009,
dịng vốn FPI có dấu hiệu tăng trở lại nhưng khơng nhiều khi các nhà đầu tư nước
ngồi mua rịng trên thị trường chứng khốn khoảng 500 triệu USD Tính cho cả
năm 2009, vốn FPI rút khỏi Việt Nam đạt trị giá 600 triệu USD, tương đươg với
mức của năm 2008. Năm 2009 được đánh giá là năm khó khăn trong thu hút FPI
và tổng FPI vào Việt Nam trong năm 2009 chỉ đạt khoảng 5 tỷ USD. Trong 6
tháng đầu năm 2010, vốn FPI bắt đầu phục hồi ở mức nhẹ, đạt thặng dư khoảng 1,8
tỷ USD. Tính ở thời điểm hiện tại vào cuối năm 2010, chỉ số chứng khoán của Việt
Nam (VN Index) vẫn liên tục sụt giảm, ở mức dưới 500 điểm kể từ tháng 8 năm
2010 đến tháng 11 năm 2010. Những dự báo lạc quan về việc thị trường chứng
khoán Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trong xu thế giới hạn tỏ ra khơng hiệu quả. Vịng
luẩn quẩn của thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn 2008-2010 là một
điều đáng lo ngại, khiến dòng vốn ngoại vào thị trường chứng khoán liên tục tháo
lui. Và năm 2011 là năm thất vọng nhất đối với dòng vốn đầu tư gián tiếp (FPI)
chảy vào Việt Nam kể từ khi chúng ta trở thành viên của Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO). Chứng khoán và bất động sản liên tục đi xuống, chưa thấy điểm dừng.
Thị trường vay nợ bên ngoài gần như đóng băng do sự rắc rối từ khoản nợ của
Vinashin.

2, Tình hình viện trợ ODA vào Việt Nam


Mặc dù, mức cam kết ODA năm sau luôn cao hơn năm trước, song việc giải ngân
nguồn vốn này chưa được như mong muốn. Dự tính kết thúc năm 2011, tổng vốn
giải ngân chỉ đạt 33,414 tỷ USD, chiếm trên 61% tổng vốn ODA ký kết. Đáng chú
ý là, trong khi tỷ lệ vốn vay tăng từ 80% (1993 - 2000) lên mức 81% (2001 - 2005)
và đạt mức cao nhất 93% (2006 - 2009) thì vốn viện trợ khơng hoàn lại giảm từ
20% và 19% (1993 - 2000 và 2001 - 2005) xuống còn 7,1% (2006 - 2010). Thực tế
này đặt ra yêu cầu cho thời gian tới là phải sử dụng nguồn vốn ODA một cách hiệu
quả cao nhất, phải lựa chọn được mục tiêu và lĩnh vực ưu tiên đầu tư, đồng thời
phải có các chính sách, giải pháp về an toàn nợ nước ngoài.Đề cập tới vấn đề trên,
Bộ KH&ĐT thừa nhận, mặc dù các chỉ tiêu về cam kết, ký kết và giải ngân nguồn
vốn ODA đều đạt và vượt kế hoạch đề ra, nhưng tiến độ thực hiện và giải ngân
nguồn vốn ODA vẫn chưa đạt yêu cầu và đối với một số nhà tài trợ cịn thấp hơn
với mức bình qn của khu vực và thế giới. Đơn cử như, với vốn của WB, tỷ lệ của
Việt Nam là 11,6% so với 19,4% của khu vực; với vốn của JICA, tỷ lệ của Việt
Nam là 13,6% so với 16,6% của quốc tế. Nhiều chương trình, dự án đầu tư bằng
vốn vay ODA phải gia hạn, dẫn đến hiệu quả đầu tư giảm, do các cơng trình này
chậm đưa vào khai thác, sử dụng.
Sự chậm trễ trong triển khai và giải ngân thấp thời gian qua không những chưa
đem lại hiệu quả cao mà cịn gây khó trong việc thuyết phục các nhà tài trợ đưa ra
các khoản cam kết mới hoặc tăng vốn ODA cho Việt Nam. Hiện nay, số vốn ODA
đang ký kết, có hiệu lực là 26,383 tỷ USD, tuy nhiên giá trị giải ngân mới đạt được
6,965 tỷ USD, còn 19,418 tỷ USD chưa được giải ngân. Một số nhà tài trợ còn tồn
đọng vốn lớn như Ngân hàng thế giới (6,128 tỷ USD), Nhật Bản (5,981 tỷ USD),
Ngân hàng Phát triển châu Á (4,575 tỷ USD)....
Các số liệu của Bộ KH&ĐT cũng cho thấy, khoảng cách giữa tổng giá trị giải ngân
tính đến ngày 31/8/2011 so với tổng giá trị ODA ký kết theo từng nhà tài trợ cụ thể
của các chương trình, dự án ODA chủ yếu đang triển khai thực hiện là rất lớn.

Nhận thức rõ vấn đề này, thời gian qua, Bộ KH&ĐT đã phối hợp chặt chẽ với các
cơ quan Việt Nam và các nhà tài trợ, đặc biệt nhóm 6 Ngân hàng Phát triển (ADB,
AFD, JICA, KFW, KEXIM, WB) trong việc xác định, giải quyết, tháo gỡ các khó
khăn, vướng mắc nảy sinh trong quá trình chuẩn bị và thực hiện các chương trình,
dự án ODA. Tuy nhiên, tình hình giải ngân nguồn vốn ODA vẫn chưa đạt kết quả
như mong muốn, do đó rất cần có sự vào cuộc mạnh mẽ từ phía các cơ quản chủ
quản.
Theo số liệu của Bộ KH&ĐT, hiện nay tổng giá trị các chương trình, dự án ODA
chủ yếu đang được triển khai thực hiện là trên 26,383 tỷ USD (25,600 tỷ USD ODA


vốn vay và 782.89 triệu USD viện trợ khơng hồn lại),song tổng mức giải ngân của các
chương trình, dự án này tính đến ngày 31/8/2011 chỉ đạt 6,965 tỷ USD (6,796 tỷ
USD ODA vốn vay và 169 triệu USD viện trợ khơng hồn lại), chiếm 26,4% tổng vốn đã ký

kết. Với tình hình này, rõ ràng việc hồn thành các mục tiêu theo hiệp định đã ký
kết với khoảng 50% các chương trình, dự án phải kết thúc trong năm 2012; khoảng
30% phải kết thúc trong các năm 2013 – 2014; và 20% còn lại phải kết thúc trong
các năm 2015 - 2017 là rất khó khăn. Đặc biệt đối với một số bộ, ngành, địa
phương còn nguồn vốn lớn chưa được giải ngân, như: Bộ Công thương (5,017 tỷ
USD), Bộ Giao thông vận tải (4,652 tỷ USD), Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
(1,002 tỷ USD), Bộ Nông nghiệp và phát triển nơng thơn (1,361 tỷ USD), thành
phố Hồ Chí Minh (1,304 tỷ USD).
Theo đánh giá của Bộ KH&ĐT, nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên là do hiện
vẫn còn xung đột về mặt pháp lý, đặc biệt trong lĩnh vực đầu tư và xây dựng.
Ngoài sự khác biệt về quy trình, thủ tục giữa Việt Nam và nhà tài trợ (đặc biệt
trong lĩnh vực đấu thầu) thì chính sách về an sinh xã hội (đền bù, giải phóng mặt
bằng và tái định cư...) cũng đã gây khó khăn cho các bộ, ngành và địa phương
trong quá trình thực hiện, từ đó làm chậm tiến độ thực hiện và giải ngân.
Bên cạnh đó cũng phải kể đến một số dự án thiết kế quá phức tạp với sự tham

gia của nhiều bộ, ngành, địa phương trong khi năng lực điều phối, quản lý và thực
hiện của cơ quan chủ quản còn hạn chế; hay việc thay đổi quy hoạch ở các địa
phương, đặc biệt về quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch đô thị đã dẫn đến việc
thay đổi thiết kế và điều chỉnh dự án; chất lượng khảo sát, thiết kế chưa cao dẫn
đến nhiều phát sinh trong quá trình thực hiện. Trước bối cảnh trên, để đạt được các
mục tiêu dự kiến về thu hút, vận động và thực hiện nguồn vốn ODA trong thời
gian tới, Bộ KH&ĐT đã kiến nghị Thủ tướng Chính phủ có ý kiến chỉ đạo các bộ,
ngành và địa phương thực hiện các giải pháp cụ thể để cải thiện tình hình thực hiện
và tạo bước đột phá về giải ngân các chương trình, dự án ODA trong năm 2011 và
cả năm 2012.
Bộ KH&ĐT cũng sẽ chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương và các nhà
tài trợ trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Đề án: “Định hướng thu hút, quản
lý và sử dụng nguồn vốn ODA và các khoản vay ưu đãi khác của các nhà tài trợ”
để qua đó hỗ trợ thực hiện thành cơng Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ
2011 - 2015 và tạo đà cho giai đoạn phát triển sau năm 2015. Đồng thời, trình Thủ
tướng Chính phủ ban hành Nghị định mới thay thế Nghị định 131/2006/NĐ-CP
theo hướng tinh giản và hài hịa tối đa các quy trình thủ tục giữa Việt Nam với các
nhà tài trợ, đáp ứng tốt những thay đổi về viện trợ phát triển khi Việt Nam đã trở
thành quốc gia đang phát triển có mức thu nhập trung bình thấp, mở rộng sự tham


gia của các đối tượng, đặc biệt là từ khu vực tư nhân, theo hình thức đối tác cơng tư (PPP). Phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng cơ chế tài chính trong nước đối với
nguồn vốn này để đảm bảo hiệu quả sử dụng nguồn vốn; xây dựng cơ chế phân bổ
và giám sát việc giải ngân vốn đối ứng cấp phát từ ngân sách (nguồn vốn xây dựng
cơ bản và hành chính sự nghiệp) nhằm đảm bảo đáp ứng đầy đủ và minh bạch việc
sử dụng nguồn vốn này một cách công khai và hiệu quả.


III. Giải pháp
1. Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa Việt Nam:

Để thúc đẩy xuất khẩu thì cần phải thực hiện các biện pháp sau:
1.1. Xây dựng một cơ cấu kinh tế theo mơ hình cơng nghiệp hóa hướng về xuất
khẩu:
Các ngành định hướng vào xuất khẩu được phát triển mạnh. Các sản phẩm xuất
khẩu của các ngành nông, lâm, ngư nghiệp trong những năm gần đây luôn chiếm
khoảng 50% tổng giá trị xuất khẩu 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là
dầu thô, cà phê, gạo, giày da, than đá, cao su, hạt điều và lạc.Các công nghệ mới
phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu nói riêng và cơng nghệ mới nói chung được
khuyến khích đưa vào Việt Nam thông qua chế độ ưu đãi trong việc đánh thuế
nhập khẩu. Chính phủ Việt Nam chủ trương xây dựng một hệ thống kinh tế theo
mơ hình cơng nghiệp hóa hướng về xuất khẩu, khai thác lợi thế so sánh của nền
kinh tế Việt Nam và tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên
thị trường thế giới. Việc xác định các ngành trọng điểm của nền kinh tế Việt Nam
có ý nghĩa quan trọng và cần phải được cân nhắc kĩ càng.
1.2. Xây dựng các khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung và khu cơng nghệ cao:
Chính phủ đã cấp giấy phép thành lập 6 khu chế xuất với các qui chế đầu tư ưu đãi
và bước đầu một số khu vực đã hoạt động và đem lại kết quả đáng khích lệ.Các
khu công nghiệp tập trung, khu công nghệ cao cũng được thành lập ở Việt Nam và
được sự quan tâm của chính phủ. Tháng 4/97 thủ tướng chính phủ đã ban hành qui
chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao ở Việt Nam. Đây là bước đi
rất quan trọng của quá trình thay thế nhập khẩu và khuyến khích xuất khẩu ở nước
ta.
3.3. Hồn thiện cơng tác quản lý Nhà nước đói với hoạt động xuất khẩu:
Thực chất của chiến lược kinh tế hướng về xuất khẩu là đặt nền kinh tế quốc gia
trong quan hệ cạnh tranh trên thị trường quốc tế nhằm phát huy lợi thế so sánh.
Trước u cầu đó, địi hỏi nền sản xuất trong nước phải không ngừng đổi mới về
công nghệ, khả năng quản lý, trình độ tay nghề của người lao động, nâng cao khả
năng cạnh tranh. Đích cuối cùng là đáp ứng nhanh nhậy nhu cầu của thị trường về



chất lượng và giá cả kể cả thị trường trong nước và quốc tế.Hướng về xuất khẩu
khơng có nghĩa là xem nhẹ nhu cầu trong nước, không chú ý thay thế nhập khẩu.
Do vậy, vấn đề then chốt là Nhà nước phải chủ động trong định hướng tạo môi
trường hành chính pháp lý, kinh tế sử dụng hiệu quả các biện pháp cơng cụ hành
chính cũng như các cơng cụ, biện pháp kinh tế để tác động vào quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng có hiệu quả nhất. Trong đó việc tăng cường vai trị
quản lý Nhà nước về thương mại, nhất là quản lý xuất nhập khẩu, sử dụng các biện
pháp phi thuế quan, các biện pháp khơng chính thức có ý nghĩa quan trọng hàng
đầu để thực hiện quá trình trên.Việc quản lý của Nhà nước đối với hoạt động xuất
khẩu ngày càng được cải tiến và hồn thiện theo hướng khuyến khích xuất khẩu.
Vừa qua Quốc hội đã thông qua luật thương mại, tạo nên khuôn khổ pháp lý ổn
định cho hoạt động xuất nhập khẩu.Nhà nước tập trung quản lý xuất khẩu vào một
đầu mối đó là Bộ thương mại. Bộ thương mại thực hiện chức năng thống nhất quản
lý Nhà nước và phối hợp với các Bộ, các cơ quan ngang Bộ và cơ quan thuộc
Chính phủ để quản lý hoạt động thương mại nói chung và hoạt động xuất nhập
khẩu nói riêng.
3.4. Chính phủ hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc phát triển thị trường xuất khẩu:
Nhà nước và các nhà doanh nghiệp Việt Nam phải tìm kiếm và khai thác các thị
trường mới.Bằng các nỗ lực ngoại giao và chính sách kinh tế đối ngoại đúng đắn
nhằm mở đường và kích thích quan hệ bn bán của các doanh nghiệp.Chính phủ
Việt Nam đã kí trên 70 hiệp định thương mại và hiện nay có quan hệ bn bán với
trên 110 quốc gia. Trong đó đáng lưu ý là hiệp định khung hợp tác kinh tế với liên
minh châu Âu kí ngày 17/07/95 tham gia vào AFTA (khu mậu dịch tự do
ASEAN), bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, đang đàm phán với
Mỹ về hiệp định thương mại và chế độ tối huệ quốc. Chính phủ Việt Nam cũng đã
nộp đơn gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC) và
tổ chức thương mại thế giới WTO. Cơ cấu thị trường xuất khẩu hiện nay của Việt
Nam là Châu á 80%, châu Âu 15%, châu Phi 3%, châu Mỹ 2%. Để khuyến khích
xuất khẩu ngành thương mại đã tổ chức khoảng 100 hội chợ, triển lãm và hội thảo
thương mại tại Việt Nam. Việt Nam đã cử 55 đoàn cán bộ thương mại ra nước

ngồi và đón 50 đồn nước ngồi vào Việt Nam. Gần 200 doanh nghiệp Việt Nam
đã đặt văn phịng đại diện và chi nhánh ở nước ngồi.


3.5. Chính sách tỷ giá hối đối linh hoạt tạo điều kiện thuận lợi cho việc thúc đẩy
xuất khẩu:
Từ năm 1987, Việt Nam bắt đầu cải cách trong cơ chế điều hành tỷ giá đồng Việt
Nam với đồng đô la Mỹ (đồng tiền đóng vai trị quan trọng trong quan hệ thanh
tốn của Việt Nam với nước ngồi). Chính sách tỷ giá hối đối góp phần giữ vững
được giá trị đồng Việt Nam cả về danh nghĩa và giá trị thực, ổn định mặt bằng giá
cả trong nước và kiềm chế lạm phát, khuyến khích được xuất khẩu tăng lên hàng
năm.
3.6. Thành lập các tổng công ty lớn và các tập đoàn kinh doanh lớn để tăng sức
cạnh tranh trên thị trường quốc tế:
Trong những năm gần đây hàng loạt các tổng cơng ty, các tập đồn đã được thành
lập.Trong điều kiện thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm quản lý và khả năng vươn tầm
hoạt động ra thị trường thế giới của từng doanh nghiệp cịn hạn chế thì việc này đã
giúp các doanh nghiệp trong cùng ngành liền kết để phát huy sức mạnh tổng hợp.
Với tầm vóc (thế và lực) đủ lớn thì khả năng cạnh tranh ở thị trường trong nước và
khả năng thâm nhập thị trường nước ngoài đã và sẽ tăng lên đáng kể.
3.7. Nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu Việt Nam:
Mặc dù đã có sự chuyển biến theo hướng xuất khẩu hàng chế biến, nhưng nhìn
tổng thể thì hàng xuất khẩu của Việt Nam phần lớn cịn ở dạng thơ và nguyên liệu,
được thu gom ở nhiều vùng lãnh thổ khác nhau nên chất lượng không đồng đều,
chưa chú trọng qui hoạch vùng sản xuất hàng xuất khẩu lớn và đồng bộ, chưa có
mặt hàng xuất khẩu chủ lực đạt trị giá hàng tỷ USD, hàng chế biến sâu và tinh
chiếm tỷ trọng thấp.
Do vậy, để nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu Việt Nam phải thực
hiện:
 Đẩy mạnh xuất khẩu phải có chiến lược xây dựng các ngành hàng xuất khẩu

chủ lực để tạo ra nguồn hàng lớn và ổn định. Chiến lược này dựa trên cơ sở xây
dựng cơ cấu ngành kinh tế, các mặt hàng phù hợp với nhu cầu người tiêu dùng
của thị trường trong nước và thị trường thế giới.
 Tăng cường đầu tư đổi mới công nghệ hiện đại để sản xuất chế biến hàng xuất
khẩu, mở rộng đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài để phát triển các khu


vực công nghiệp tập trung, khu chế xuất, khu mậu dịch tự do, vùng sản xuất
nông-lâm-thủy sản lớn và tập trung. Nâng cấp hoặc xây dựng mới các xí nghiệp
vừa và nhỏ bằng những công nghệ hiện đại và phù hợp với điều kiện Việt Nam,
đổi mới kiều dáng công nghiệp, mẫu mã hàng hóa, áp dụng các phương pháp
quản lý tiên tiến, nâng cao tay nghề của người lao động. Chú trọng phát triển
các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, khôi phục và phát triển các làng nghề
truyền thống, dần dần hình thành và phát triển cơng nghiệp nơng thơn và thực
hiện cơng nghiệp hóa nơng nghiệp nhằm chuyển bớt lao động nông nghiệp sang
các ngành công nghiệp và dịch vụ.
 Nâng cao vai trò quản lý điều hành của Nhà nước, đổi mới cơ chế xuất nhập
khẩu theo hướng thực hiện thị trường mở, phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần tự do hóa ngoại thương, khuyến khích các doanh nghiệp và các thành phần
kinh tế tham gia xuất khẩu, tiến tới loại bỏ dần những hạn chế định lượng trong
nhập khẩu và thay thế bằng những mức thuế quan giảm dần để chỉ đến năm
2000 thuế nhập khẩu chỉ cịn 0-5% theo qui định của chương trình thuế quan
mang lại hiệu quả chung của các nước ASEAN. Nâng cao trình độ quản lý của
các viên chức nhà nước để đáp ứng tốt nhu cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
nền kinh tế.
 Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh
hàng xuất khẩu, nâng cao trình độ tổ chức quản lý và tiếp thị của các doanh
nghiệp để phù hợp với nền kinh tế thị trường. Quan tâm phát triển các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, thường xuyên lắng nghe ý kiến của họ để đề ra các chính
sách phát triển kinh tế phù hợp với từng thời kì kinh tế của đất nước.

 Phát triển công nghiệp theo hướng xuất khẩu, đẩy nhanh tốc độ cơng nghiệp
hóa hiện đại hóa các ngành kinh tế xã hội, từng bước nâng cao tỷ trọng ngành
công nghiệp. Phấn đấu đạt tốc độ phát triển công nghiệp hàng năm từ 15% trở
lên.

2. Giải pháp giảm nhập siêu
2.1Trong ngắn hạn:
Việt Nam nên tăng các rào cản thuế và phi thuế đối với hàng nhập khẩu. Tuy
nhiên việc tăng thuế phải được xem xét trong bối cảnh Việt Nam đã là thành viên
của WTO và phải tuân thủ lộ trình giảm thuế đã cam kết. Cụ thể cần:


- Rà sốt lại tất cả các khoản thuế, dịng thuế đối với các hàng hóa nhập khẩu,
đặc biệt là nhóm hàng hạn chế nhập khẩu và áp dụng đến mức cao nhất mà
lộ trình đã cam kết cho phép;
- Nghiên cứu áp dụng các rào cản phi thuế như các rào cản kỹ thuật, biện pháp
vệ sinh và an toàn thực phẩm, biện pháp tự vệ, trợ cấp hoặc biện pháp đối
kháng theo đúng các điều kiện do WTO quy định.
2.2 Về lâu dài:
Việt Nam nên kìm chế nhập siêu bằng cách đẩy mạnh xuất khẩu, thay đổi cơ
cấu nhập khẩu, đồng thời với thúc đẩy phát triển cả thị trường hàng hóa lẫn thị
trường yếu tố đầu vào nội địa thông qua mở rộng sản xuất thay thế hàng nhập khẩu
và chú trọng phát triển công nghiệp phụ trợ.
Thứ nhất, không chỉ đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng truyền thống trước đây
mà cần phải thay đổi quan điểm xuất khẩu:
Hướng vào các hàng hóa đem lại giá trị gia tăng cao như phần mềm, linh
kiện điện, điện tử...; hướng vào các dịch vụ phi hàng hóa như du lịch, xuất khẩu lao
động... Đối với du lịch, những việc cần làm ngay phải là làm du lịch theo hướng
chun mơn hố và có quy hoạch dài hạn: vừa tạo nhiều sân chơi đa dạng vừa cung
cấp các mặt hàng lưu niệm vừa giới thiệu những đặc trưng của đất nước và con

người Việt Nam chứ không phải làm du lịch chỉ có nhà hàng và khách sạn. Đối với
xuất khẩu lao động, việc cần làm nhất là ngăn chặn làn sóng lao động bỏ việc trốn
ra ngồi làm bằng cách ban hành nghị định quy định rõ trách nhiệm liên đới giữa
ngân hàng cho vay vốn, địa phương, gia đình, cơng ty mơi giới trong việc quản lý
lao động và các biện pháp chế tài tương xứng; tăng cường khâu tuyển chọn, đào
tạo và minh bạch hóa thơng tin tuyển dụng.
Đa dạng hóa thị trường, đặc biệt là các thị trường tiềm năng như châu Phi,
Trung Đông để giảm bớt sự phụ thuộc vào một vài nền kinh tế và cũng qua đó chia
sẻ được rủi ro. Để đa dạng hóa thị trường cần lập các kênh thơng tin thương mại,
củng cố vai trò của các đại diện thương mại ở nước ngồi, đẩy mạnh cơng tác xúc
tiến thương mại, tham gia, tổ chức hội chợ triển lãm giới thiệu sản phẩm, tìm đối
tác, hỗ trợ và thúc đẩy các công ty Việt Nam tham gia vào các hội chợ quốc tế
chuyên ngành.
Thứ hai, thay đổi quan điểm về phát triển ngành, từ đó thay đổi cơ cấu nhập
khẩu cho phù hợp. Cơ cấu ngành cần cân nhắc các nhân tố:


×