Thời kì Bắc thuộc lần 1
Thời Bắc thuộc lần thứ 1 trong lịch sử Việt Nam kéo dài từ năm 207
TCN hoặc 179 TCN hoặc 111 TCN đến năm 39, dưới sự cai trị của phong
kiến Trung Quốc.
Thời điểm bắt đầu
Dấu mốc xác định thời Bắc thuộc đầu tiên chưa thống nhất giữa các sử
gia, do quan niệm khác nhau về nước Nam Việt và Triệu Đà.
• Quan điểm thừa nhận Triệu Đà là vua chính thống của Việt Nam
(Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương
mục, Việt Nam sử lược) xác định rằng khi nhà Triệu bị Hán Vũ Đế
diệt năm 111 TCN lúc bắt đầu thời Bắc thuộc. Theo mốc thời gian
này, thời Bắc thuộc lần 1 kéo dài 150 năm. Theo quan điểm này,
thời Bắc thuộc lần 1 thực chất là thời thuộc Hán.
• Quan điểm không thừa nhận Triệu Đà là vua chính thống của Việt
Nam (Việt sử tiêu án, các sách Lịch sử Việt Nam của các sử gia
hiện đại) xác định thời Bắc thuộc bắt đầu từ khi Triệu Đà diệt An
Dương Vương:
o Sử cũ thường xác định An Dương Vương và nước Âu Lạc bị
tiêu diệt năm 207 TCN. Theo mốc thời gian này, thời Bắc
thuộc lần 1 kéo dài 246 năm.
o Sử hiện đại căn cứ theo ghi chép của Sử ký Tư Mã Thiên là
Triệu Đà diệt nước Âu Lạc "sau khi Lã Hậu mất", tức là
khoảng năm 179 TCN. Theo mốc thời gian này, thời Bắc
thuộc lần 1 kéo dài 218 năm.
Sự cai trị của Trung Quốc
Sau khi chiếm Âu Lạc, Triệu Đà chia lãnh thổ làm 2 quận Giao Chỉ và
Cửu Chân. Trông coi 2 quận này là hai viên quan sứ (đại diện cho triều
đình Phiên Ngung). Theo ý kiến các sử gia, điều này chứng tỏ nhà Triệu
không trực tiếp cai trị Giao Chỉ và Cửu Chân, người Âu Lạc chỉ mất một
triều đình độc lập (nhà Thục), chế độ Lạc tướng cha truyền con nối vẫn
được duy trì và tổ chức vùng (bộ hay bộ lạc) của người Việt vẫn chưa bị
xóa bỏ
[1]
. Thậm chí, trong vùng đất cũ của vua Thục vẫn còn vương hiệu
(Tây Vu vương).
Các sử gia cũng đánh giá: việc thừa nhận chế độ Lạc tướng của người
Việt là chính sách cai trị khôn ngoan của Triệu Đà, vì triều đình Nam Việt
sở dĩ tồn tại được, ngoài sự phù trợ của một số người Hán còn có sự ủng
hộ của các tù trưởng địa phương người Việt
[1]
. Các tù trưởng người Việt,
Lạc tướng vẫn cai trị, hàng năm nộp cống cho nhà Triệu thông qua hai
quan sứ. Giúp việc cho hai quan sứ có một số quan chức cả người Hán lẫn
Việt
[2]
.
Biến cố đáng kể nhất của thời Bắc thuộc lần 1 là cuộc chiến giữa nhà Hán
và nhà Triệu cuối thế kỷ 2 TCN, dẫn tới sự thay đổi chủ quyền cai trị lãnh
thổ miền Bắc và Bắc Trung Bộ Việt Nam từ tay nhà Triệu sang tay nhà
Hán.
Cuối thế kỷ 2 TCN, nhân lúc nhà Triệu suy yếu, Hán Vũ Đế định dùng
phương pháp ngoại giao để thu phục đất Nam Việt nhưng không thành
công vì gặp sự chống đối của tể tướng Lữ Gia. Hán Vũ Đế quyết định sử
dụng quân sự và mở cuộc tấn công quy mô vào năm 111 TCN. Do lực
lượng chênh lệch, nhà Triệu nhanh chóng thất bại.
Tướng Hán là Lộ Bác Đức hạ được kinh thành Phiên Ngung của Nam
Việt nhưng chưa tiến vào lãnh thổ Âu Lạc cũ. Thủ lĩnh người Việt là Tây
Vu vương định nổi dậy chống Hán nhưng bị tả tướng Hoàng Đồng giết
chết để hàng Hán. Nước Nam Việt, trong đó bao gồm lãnh thổ Việt Nam,
từ đó thuộc quyền cai quản của nhà Hán.
Nhà Hán xác lập bộ máy cai trị chặt chẽ hơn so với nhà Triệu, thiết lập
đơn vị cai trị cấp châu và quận. Tại các huyện, chế độ Lạc tướng cha
truyền con nối của người Việt vẫn được duy trì, nhà Hán “dùng tục cũ để
cai trị”
[3]
.
Khi Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán lập nhà Tân (năm 8), thứ sử Giao
Châu là Đặng Nhượng và thái thú Tích Quang theo các thái thú ở Giang
Nam, cùng nhau cát cứ chống nhà Tân. Năm 29, Hán Quang Vũ Đế cơ
bản thống nhất trung nguyên. Theo lời dụ của tướng Đông Hán là Sầm
Bành, Tích Quang và Đặng Nhượng cùng hàng Đông Hán.
Hành chính và dân số
Thời Triệu
Triệu Đà chia lãnh thổ Âu Lạc cũ làm 2 quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Bên
dưới cấp quận không có đơn vị hành chính khác. Sử sách ghi nhận tại hai
quận này có 40 vạn dân thời Triệu
[1]
.
Thời Hán
Nhà Hán đánh chiếm Nam Việt năm 111 TCN, chia lãnh thổ Nam Việt
làm chín quận là Nam Hải, Hợp Phố (Quảng Đông), Thương Ngô, Uất
Lâm (Quảng Tây), Chu Nhai, Đạm Nhĩ (đảo Hải Nam), Giao Chỉ, Cửu
Chân, Nhật Nam (Âu Lạc cũ).
Riêng đối với quận Nhật Nam, khi Lộ Bác Đức đánh bại nhà Triệu, lãnh
thổ Nam Việt chưa bao gồm quận Nhật Nam (từ Quảng Bình tới Bình
Định)
[3]
. Vùng đất này được nhập vào lãnh thổ chung với miền Bắc và
miền Trung Việt Nam ngày nay lần đầu tiên sau khi các quan cai trị Giao
Chỉ tiến xuống thu phục các bộ tộc phía Nam dãy Hoành Sơn trong thời
thuộc Hán và hình thành quận Nhật Nam
[3]
.
Năm 106 TCN, Hán Vũ Đế đặt bộ Giao Chỉ, thống suất 7 quận ở lục địa,
trị sở đặt tại quận Giao Chỉ là quận lớn và quan trọng nhất
[3]
.
Hán thư ghi nhận quận Giao Chỉ gồm có 10 huyện: Liên Lâu, An Định,
Câu Lậu, Mê Linh, Khúc Dương, Bắc Đái. Kê Tử, Tây Vu, Long Biên,
Chu Diên. Theo Hán thư, quận Giao Chỉ thời Hán có 92.440 hộ - 746.237
người
[4]
.
Về quận trị của Giao Chỉ, các sách sử cũ của Trung Quốc ghi không
thống nhất. Hán thư ghi huyện Liên Lâu đứng đâu, về nguyên tắc đó là
quận trị. Sách Giao châu ngoại vực ký cũng chép tương tự. Sách Thủy
kinh chú lại xác định quận trị Giao Chỉ là huyện Mê Linh
[5]
.
Quận Cửu Chân gồm có 7 huyện: Tư Phố, Cư Phong, Đô Lung, Dư Phát,
Hàm Hoan, Vô Thiết (hay Vô Biên), Vô Biên. Quận trị Cửu Chân đặt tại
huyện Tư Phố, thời Vương Mãng đổi gọi Tư Phố là Hoan Thành. Cửu
Chân thời Hán có 35.743 hộ - 166.013 người
[4]
.
Quận Nhật Nam do nhà Hán mới đặt sau khi đánh chiếm Nam Việt, gồm
có 5 huyện: Chu Ngô, Tây Quyển, Lô Dung, Ty Ảnh và Tượng Lâm.
Quận trị của Nhật Nam tại Tây Quyển. Thời nhà Tân, Vương Mãng đổi
gọi là Nhật Nam đình. Nhật Nam thời thuộc Hán có 15.460 hộ và 69.485
người
[4]
.
Như vậy tổng số hộ tại 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam là
142.823 với 981.735 người. So với thời Triệu, dân số tăng gấp khoảng 2,5
lần.
Kinh tế
Nông nghiệp
Cơ sở kinh tế thời kỳ này là nông nghiệp với tàn dư của nông cụ đá (rìu,
cuốc đá), gỗ (mai, vồ...), nhiều công cụ đồng thau (lưỡi cuốc, cày, xẻng,
rìu, hái...) và một số nông cụ sắt (có rìu sắt lưỡi xéo phỏng chế rìu đồng
Đông Sơn)
[6]
. Từ khi Nhâm Diên sang trấn trị (năm 29) đã áp dụng kỹ
thuật Hán vào sản xuất nông nghiệp để hướng dẫn người Việt
[7]
.
Lúa nước vẫn là cây trồng chủ đạo. Bên cạnh đó, có nghề trồng dâu nuôi
tằm, trồng bông, đay, gai để có cái mặc và có nhiều hoa quả như nhãn,
vải, quýt, chuối...
[8]
. Trong chăn nuôi, người Việt có 5 giống gia súc là
trâu, lợn, gà, dê, chó.
Thủ công nghiệp
Nhờ học được một số kỹ thuật và kinh nghiệm từ người Hoa, nền sản
xuất thủ công nghiệp Giao Chỉ có những bước phát triển, trên cơ sở thủ
công nghiệp truyền thống của Âu Lạc
[8]
.
Đồ đồng Đông Sơn vẫn được sản xuất bên cạnh đồ đồng Hán (đỉnh, biển
hồ, gươm, qua, gương đồng...). Các sản phẩm gốm gồm gốm cổ truyền
còn có những sản phẩm chịu ảnh hưởng của phong cách Nam Việt (như
gốm văn in hình học, bình 4-5 thân dính liền nhau) và Hán (đỉnh, bình,
vò...)
[8]
.
Người Việt có nghề dệt cửi làm vải, nổi tiếng là vải cát bá (vải bông) nhỏ
sợi và rất mịn
[9]
.
Thương mại
Từ khi nhà Hán chinh phục Nam Việt, người Việt tham gia hoạt động
thương mại nhiều hơn so với trước, do tác động của các thương nhân
người Hán. Điểm xuất phát của các thương nhân người Hán từ phương
Bắc, khi đi và về đều qua Nhật Nam mua bán thổ sản sau khi vòng qua
trao đổi hàng ở các quốc gia ngoài biển.
Nhiều lái buôn người Hán đến buôn bán và trở nên giàu có. Sản vật địa
phương buôn bán trao đổi bao gồm vải cát bá, đồi mồi, ngọc, voi, tê, vàng
bạc, hoa quả...
[9]
.
Việc buôn bán ở phương Đông thời Tây Hán đã phát triển. Do có vị trí
thuận lợi và phong phú sản phẩm nhiệt đới, Giao Chỉ trở thành một trạm
quan trọng về giao thông biển với các nước phía nam ngoài biển. Hán thư
ghi lại tên một số quốc gia có thông thường thời kỳ đó, được xác định ở
Nam Á và Đông Nam Á như Hoàng Chi, Đô Nguyên, Âp Lô Một, Sâm
Ly, Phù Cam Đô Lô, Bì Tông...
[10]
.