CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Một số biện pháp nâng cao hiệu quả
nghiệp vụ khai thác vốn tại chi nhánh Ngân
Hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Láng Hạ
ĐỀ TÀI:
……….., tháng … năm …….
LỜI NÓI ĐẦU
Hoạt động của Ngân hàng gắn liền với cơ chế quản lý kinh tế việc
chuyển từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước đòi hỏi hoạt động của Ngân Hàng phải là địn bảy kinh tế, là cơng
cụ kiềm chế và đầy lùi lạm phát nhằm thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Hệ thống Ngân hàng đã được cải tổ và hoạt động có hiệu quả, đóng vai trị
nịng cót trên thị trường tiền tệ. Chiến lược kinh tế của Nhà nước đã chỉ rõ
“Tiếp tục đổi mới và lành mạnh hố hệ thống tài chính, tiền tệ nhằm thực hiện
tốt các mục tiêu kinh tế xã hội đến năm 2010”
Chức năng nhiệm vụ to lớn trên của Ngân hàng đặt ra cho ngân hàng
phải kành mạnh về tài chính, vững chắc về quản lý của mình. Hoạt động của
ngân hàng chủ yếu là huy động vôn và sử dụng nguồn, nên việc nghiên cứu
nghiệp vụ khai thác vốn nhằm nâng cao hịêu quả sản xuất kinh doanh của
ngân hàng luôn là vấn đề đặt ra trong công tác quản lý của cán bộ lãnh đạo
ngân hàng.
Với mục tiêu gắn liền với lý luận khoa học và thực tiễn qua quá trình
thực tập thại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp Láng hạ, được sự giúp đỡ của
ban lãnh đạo, của cán bộ nhân viên phòng kinh doanh và phịng kế tốn, đồng
thời có sự góp ý kiến tận tình của cơ giáo Trần Thị Th Sửu, tôi đã cân nhắc
và chọ đề tài “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả nghiệp vụ khai thác vốn
tại chi nhánh Ngân Hàng Nông nghiệp và phát triển nông thơn Láng Hạ.”
I / Tính cấp thiết của đề tài.
Thực hiện nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và nghị
quyết đạt hội VII Đảng bộ thành phố Hà Nội về phát triển kinh tế nisc ta theo
theo hướng CNH HĐH, duy trì nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm từ
9 10% hàng năm Việt Nam cần huy động vốn lớn chiếm từ 25 30% GDP.
Trong đó nguồn ngân hàng đóng vai trị to lớn đáp ứng nhu cầu về vốn của
nền kinh tế.
Nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa có sự điều tiết của nhà nướ, nhu cầu về vốn là rất lớn để thực hiện cơng
nghiệp hố hiện đại hố đất nước. Vì vậy vấn đề cần thít đặt ra là, một mặt ra
sức tận khai mọi nguồn vốn có thể có trong nước đến mức cao nhất, coi đây là
nguồn vốn có tính chất cơ bản cho sự phát triển, mặt khác thu hút một cách có
hiệu quả nguồn vốn từ nước ngoài để bổ xung cho việc thiếu hụt của nguồn
vốn trong nước.
Để tồn tại và phát triển Ngân hàng nơng nghiệp Láng Hạ phải có chiến
lược phát triển nguồn vốn có sức hấp dẫn và phong phú đủ sức cạnh tranh trên
thị trường, trước tình hình đó đề tài đã được lựa chọn nghiên cứu.
II/ Mục đích nghiên cứu.
+ Hệ thống hoá những vấn đề cơ bản về nghiệp vụ khai thác vốn.
+ Phân tích thực trạng nghiệp vụ khai thác vốn tại ngân hàng nông
nghiệp Láng Hạ và có định hướng cho những năm tới.
+ Nêu lên những giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao khả năng đáp
ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế của các ngân hàng thương mại nói chung
và ngân hàng nơng nghiệp nói riêng, trong mối quan hệ hài hoà với các
phương thức tạo vốn khác.
III/ Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
1/ Đối tượng nghiên cứu.
Ngiên cứu những nội dung chủ yếu của nghiệp vụ khai thác vốn tại chi
nhánh ngân hàng nông nghiệp Láng Hạ.
2/ Phạm vi nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu tác động của nghiệp vụ khai thác vốn đối với hạot
động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng thương mại nói chung và ngân hàng
nơng nghiệp Láng Hạ nói riêng, mối quan hệ của nghiệp vụ này với sự phát
triển của nền kinh tế, từ đó rút ra những mặt hạn chế, nêu lên những kiến nghị
nhằm hoàn thiện và mở rộng nghiệp vụ khai thác vốn tại ngân hàng nông
nghiệp Láng Hạ.
Về thời gian nghiên cứu: nghiên cứu nghiệp vụ khia thác vốn trong
điều kiện thứ tế hiện nay và đề ra phương hướng trong thời gian tới.
IV/ Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử trên cơ sở các học thuyết kinh tế, đặc biệt là học thuyết chính
trị Mac LêNin: Sử dụng phương pháp chỉ số, phương pháp so sánh khái quát
hoá và phương pháp tổng hợp. Sử dụng số liệu thống kê và mơ hình ước
lượng để luận chứng.
V/ Những đóng góp mới của đề tài:
Đề tài đã làm sáng tỏ những luận cứ khoa học mang tính lý luận thực
tiễn về hoạt động tạo vốn của ngân hàng thương mại trong cơ chế thị trường.
Đề tài đã phân tích và chứng minh được thực trạng về hoạt động tạo
vốn của ngân hàng nông nghiệp Láng hạ và những vấn đề tồn tại cần được
tiếp tục giải quyết để hoàn thiện trong tương lai.
Đề tài đã đưa ra những giải pháp về vĩ mô, vi mô để nhằm hoàn thiện
và nâng cao hiệu quả của hoạt động tạo vốn của ngân hàng thương mại nói
chung và ngân hàng nơng nghiệp Láng Hạ nói riêng.
VI/ Danh mục các từ viết tắt trong bài viết này.
NH: Ngân hàng
NHTM: Ngân hàng thương mại
Chương I: Những vấn đề cơ bản về nghiệp vụ khai thác vốn của ngân
hàng thương mại
I/ Khái niệm cơ bản về vốn
1/ Vốn hiện vật .
Vốn hiện vật là các hàng hoá đã được sản xuất và được sử dụng đẻ sản
xuất ra các hàng hố và dịch vụ khác có lợi hơn.
Vốn hiện vật bao gồm máy móc, thiết bị, nhà xưởng, nghuyên nhiên vật
liệu dự trữ do quá trình sản xuất và kinh doanh. Vốn hiện vật và đất đai gộp
lại tạo nên tài sản hữu hình của doanh nghiệp. Chúng là của cải hoặc tài sản
bởi vì chúng có tính lâu bền. Chúng là hữu hình bởi vì chúng là hàng hố hiện
vật có thể sờ thấy được. Lao động kết hợp với tài sản sẽ tạo ta các sản phẩm
cầnthiết cho xã hội.
2/ Vốn nhân lực
Vốn nhân lực là toàn bộ trình độ chun mơn mà một người lao động
tích luỹ được. Nó được đánh giá cao vì có tiềm năng đem lại thu nhập trong
tương lai. Cũng như vốn vật chất, vốn nhân lực là kết quả đầu tư trong quá
khứ với mực đích tạo ra thu nhập trong tương lai.
3/ Vốn tài chính
Vốn tài chính khơng phải là tài sản hữu hình. Nó khơng thể trực tiếp
tham gia vào q trình sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ mặc dù chúng được sử
dụng để mua các yếu tố dùng để sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ.
Như vậy sự kết hợp hài hoà giữa vốn nhân lực, vốn vật chất và vốn tài
chính giúp cho các doanh nghiệp tiến hành sản xuất ra những sản phẩm cần
thiết cho xã hội. Bất cứ một quá trình sản xuất nào cũng cần phải có vốn. Vốn
là khâu mắt xích quan trọng đầu tiên của một q trình sản xuất và lưu thơng
hàng hố .
Vốn tài chính được thể hiện dưới các hình thức tiền tệ. Tiền tệ trong tuỹ
nghiệp vụ của Ngân hàng, tiền tồn quỹ tại các đơn vị và các tổ chức kinh tế,
tiền tiết kiệm trong dân cư. Nguồn vốn này rất phong phú và đa dạng nhưng
chúng ta chưa khai thác hết để phục vụ cho việc phát triển kinh tế.
II/ Vốn và các hình thức tạo vốn của ngân hàng thưong mại trong nền
kinh tế thị trường.
1/ Khái niệm cơ bản về vốn của Ngân hàngthương mại.
Vốn của Ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do NH tạo lập
hoặc huy động, dùng để cho vay, đầu tư hoặc hiện các dịch vụ kinh doanh
khác.
Thực chất, nguồn vốn NHTM là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm
thời sản xuất trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng, mà người chủ
sở hữu chúng gửi vào NH với các mục đích khác nhau. Hay nói cách khác, họ
chỉ có quyền sở hữu cịn quyền sử dụng vốn tiền tệ họ chuyển nhượng cho
NH, để rồi ngân hàng phải trả lại cho họ một khảon thu nhập. Và như vậy
ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung và phân phối lại dưới hình thức tiền
tệ, làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, phục vụ và kích tích mọi hoạt
động kinh tế phát triển. Đồng thời, chính các hoạt động đó lại quyết định đến
sự tồn tại và hoạt động kh của ngân hàng nông nghiệp. Nhìn chung, vốn chi
phối tồn bộ các hoạt động của ngân hàng thương mại.
2/ Két cấu và tính chất vốn kinh doanh của NHTM.
2.1/ Vốn tự có.
Vốn tự có củan NHTM là những giá trị tiền tệ của NHTM tạo lập được,
thuộc sở hữu của ngân hàng. Vốn này chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng
nguồn vốn của ngân hàng song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi mới thành
lập một ngân hàng. Do tích chất thường xuyên ổn định của vốn tự có, ngân
àhng có thể chủ động sử dụng vào các mục đích khác nhau như; trang bị cơ sở
vật chất, tạo tái tài sản cố định (văn phòng, kho tàng, trang thiết bị ...) phục vụ
cho bản thân Ngân hàng, cho vay và đặc biệt là tham gia đầu tư, góp vốn liên
doanh. Mạt khác, với chức năng bảo vệ, vốn tự có được coi như tài sản đảm
bảo gây lịng tin với khách hàng, duy trì khả năng thanh toán trong trường
hợp Ngân hàng gặp nhiều thua lỗ. Nó cịn là một trong những căn cứ quyết
định đến quy mô và khối lượng vốn huy động của Ngân hàng (theo pháp lệnh
ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và Cơng ty tài chính quy định vốn huy động
khơng được vượt q 20 lần vốn tự có). Như vậy, quy mo và sự tăng trưởng
của vốn tự có sẽ quyết định đến năng lực và ưu thế phát triển của NH. Về bản
chất, vốn tự có là một bộ phận của tài sản nợ, mà mỗi thành phần của nó gắn
liền với một loại nghiệp vụ nhất định.
Vốn tự có của NHTM gồm những thành phần cơ bản sau:
- Vố cơ bản là vốn pháp định - vốn điều lệ. Trong đó mức vốn pháp
định là mức vốn tối thiểu phải có để thành lập Ngân hàng do pháp luật quy
ddịnh. Khác với vốn pháp định, vốn điều lệ lại là vốn do các cổ đơng đóng
góp và được ghi vào trong điều lệ hoạt động của Ngân hàng và theo quy định
tối thiểu phải bằng vốn pháp định. Đối với các Ngân hàng tư Ngân hàngân,
đây là vốn sở hữu riêng của doanh nghiệp và được hìNgân hàng thàNgân
hàng sau một q trìNgân hàng tích tụ tập trung vốn lại, đối với các Ngân
hàng quốc doanh được phép hoạt động trên cơ sở vốn ban đầu do ngân sách
cấp. Vốn điều lệ của các Ngân hàng cổ phần do các cổ đơng đóng góp dưới
hình thức mua cổ phiếu, cịn với Ngân hàng liên doanhlà sự góp vốn từ các
bên liên doanh.
- Vố tự có bổ sung: Vốn của các NHTM không ngừng được tăng lên
theo thời gian nhờ có nguồn vốn bổ sung. Vố tự có bổ sung bao gồm:
+ Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, có mục đích tăng cường vốn tự có
ban đầu.
+ Quỹ dự trữ đặc biệt để dự phòng bù đắp rủi ro trong quá trình hoạt
động kinh doanh của Ngân hàng nhằm bảo toàn vốn điều lệ.
+ Ngoài các quỹ trên, vốn tự có bổ sung cịn bao gồm phần lợi nhuận
chưa phân bổ hoặc các quỹ nghiệp vụ khác như: Quỹ phát triển kỹ thuật
nghiệp vụ Ngân hàng, quỹ phúc lợi, khen thưởng, khấu hao...
2.2. Vốn huy động.
Vốn lưu động là những giá trị tiền tệ mà Ngân hàng huy động được từ
các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội thơng q q trình thực hiện
các nghiệp vụ tín dụng, thanh tốn các nghiệp vụ kinh doanh khác và được
làm vốn để kinh doanh.
Bản chất của vốn huy động là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau,
Ngân hàng chỉ có quyền sử dụng mà khơng có quyền sở hữu và có trách
nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi đến kỳ hạn (đối với tiền gửi có kỳ hạn) hoặc khi
họ có nhu cầu rút vốn để chi trả (đối với tiền gửi khơng có kỳ hạn). Vốn huy
động đóng vai trị rất quan trọng đối với mọi hoạt động kinh doanh của
NHNN.
Vốn huy động luôn biến động, nên Ngân hàng không được phép sử
dụng hết số vốn đó vào kinh doanh mà phải dự trữ với một tỷ lệ hợp lý để
đảm bảo khả năng thanh toán. Vốn huy động bao gồm:
- Tiền gửi: tiền gửi tại NHTM bao gồm tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi
khơng kỳ hạn.
+ Tiền gửi có kỳ hạn: là khoản tiền gửi mà người sử dụng có thể rút ra
bằng séc hay tiền mặt để có thể sử dụng chúng báat cứ lúc nào và Ngân hàng
phải thoả mãn yêu cầu đó của khách hàng. Tiền gửi khơng kỳ hạn có mức lãi
suất thấp hoặc không được trả lãi và bao gồm hai loại:
i. Tiền gửi thanh tốn: Đó là các khoản tiền gửi khơng kỳ hạn trước hết
được sử dụng để tiến hành thanh tốn, chi trả bằng vốn trên tài khoản vãng
lai. Thơng thường tiền gửi có kỳ hạn là khoản tiền có thời hạn và lãi suất cao.
Tiền gửi có kỳ hạn giữ vai trị trung gian giữa tiền gửi thanh tốn và
tiền gửi tiết kiệm. Đây là nguồn tiền tương đối ổn định, Ngân hàng có thể sử
dụng phần lớn tồn khoản vào kinh doanh. Chính vì vậy, các ngân hàng
Thương mại ln tìm cách đa dạng hố loại tiền gửi này bằng cách áp dụng
nhiều kỳ hạn khác nhau với các mức lãi suất khác nhau nhằm đáp ứng nhu
cầu của mọi khách hàng.
- Tiền gửi tiết kiệm.
Xét về bản chất, đây là một phần thu nhập của cá nhân người lao động
chưa sử dụng vào tiêu dùng. Họ gửi vào Ngân hàng với mục đích tích luỹ tiền
một cách an tồn và hưởng lãi từ số tiền đó. Tiền gửi tiết kiệm là một dạng
đặc biệt để tích luỹ tiền tệ trong tiêu dùng cá nhâ. Trên thực tế, trong nền kinh
tế thị trường tiền gửi tiết kiệm được phát triển dưới hai loại hình tiết kiệm sau:
+ Tiền gửi tiết kiệm khơng kỳ hạn là khoản tiền gửi có thể rút ra bất cứ
lúc nào nhưng không được sử dụng vào các cơng cụ thanh tốn để chi trả cho
người khác.
+ Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là khoản tiền gửi có sự thoả thuận về
thời hạn gửi và có rút tiền, có mức lãi suất cao hơn với tiền gửi không kỳ hạn.
- Các nguồn huy động khác:
Bên cạnh phương thức nhận tiền gửi, các Ngân hàng Thương mại còn
phát hành chứng chỉ tiền gửi và trái phiếu. Thực chát các nghiệp vụ này là
Ngân hàng huy động vốn tiền tệ bằng việc phát hành chứng từ có giá. Trong
đó, chứng chỉ tiền gửi là phiếu nợ ngắn hạn với mệnh giá quy định, trái phiếu
là loại phiếu nợ trung và dài hạn. Hai loại phiếu này được Ngân hàng phát
hành từng đợt, tuỳ theo mục đích với sự chấp nhận của Ngân hàng trung ương
hoặc hội đồng chứng khoán quốc gia.
Tổng huy động vốn dưới hình thức phát hành chứng chỉ tiền gửi trái
phiếu Ngân hàng, các Ngân hàng Thương mại phải trả lãi suất cao hơn so với
lãi suất huy động.Nhgiệp vụ này cjỉ được tiến hành khi Ngân hàng thiếu vốn
mà vốn tự có và vốn huy động không đủ trang trải. Như vậy, khi huy động
vốn dưới hình thức này, cac Ngân hàng phải căn cứ vào đầu ra để quyết định
về khối lượng huy động, mức lãi suất và thời hạn, phương pháp huy động, khi
đã huy động đủ khối lượng theo dự kiến các ngân hàng sẽ dừng việc huy động
(bán) kỳ phiếu, trái phiếu.
Tóm lại vốn huy động là cơng cụ chính đối với hoạt động kinh doanh
của các NHTM. Nó là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn
vốn của Ngân hàng, giữ vị trí quan trọng trong hoạt động kinh doanh của
Ngân hàng, NHTM tuân thủ theo quy luật về mức vốn huy động tối đa không
được vượt quá 20 lần vốn tự có, đồng thời mở tài khoản tiền gửu tại NHNN
để duy trì ở đó khối lượng bắt buộc. Song nếu một Ngân hàng kinh doanh tiền
tệ có hiệu qảu thì khơng những nguồn lợi của Ngân hàng được tăng lên mà
cịn làm cho uy tín của nó trên thị trường cũng tăng theo, chính vì thế nguồn
vốn huy động vào Ngân hàng ngày càng tăng theo, mở rộng quy mô hoạt
động để phục vụ cho phát triển kinh tế.
2.3. Vốn đi vay.
Vốn đi vay là quan hệ vay mượn giữa Ngân hàng Thương mại với
NHNH, hoặc giữa các NHTM với nhau hay các tổ chức tín dụng khác. Các
NHTM sẽ đi vay vốn để bổ sung vào vốn hoạt động của mình khi Ngân hàng
đã sử dụng hết vốn khả dụng mà vẫn không đủ hoạt động vốn, hay nói cách
khác Ngân hàng tạm thời thiếu vốn khả dụng. Trong trườn hợp vốn vay trên
mà không đáp ứng được nhu cầu sử dụng vốn của NHTM thì NHTM sẽ đi
vay của NHNN.
Tuỳ theo mục đích sử dụng và hình thức vay vốn, vốn vay NHTM
được chia thành hai loại: Vốn vay ngắn hạn bổ sung, vay để thanh toán và vay
để tái cấp vốn.
+ Vốn vay ngắn hạn bổ sung là hình thứcmmà NHTM xin vay vốn
nganứ hạn bổ sung của mình. Trong hình thức này, các Ngân hàng chỉ được
vay khi còn hạn mức dụng hoặc trong hạn mức tín dụng mà Ngân hàng đã
thoả thuận.
+ Vố vay để thanh toán: Các Ngân hàng Thương mại vay Ngân hàng
nhà nước nhằm bù đắp thiếu hụt tạm thời trong thanh toán (thời hạn vay
thường ngắn).
+ Tái cấp vốn. Ngân hàng nhà nước cho Ngân hàng Thương mại vay
trên cơ sở chứng từ có giá. Các chứng từ phải đảm bảo tính hợp lệ, hợp pháp
đảm bảo an tồn. Tái cấp vốn gồm hai hình thức:
i. Cho vay chiết khấu: Ngân hàng nhà nước nhận các chứng từ có giá
mà NHTM đã chiết khấu trước đây để thực hiện các nghiệp vụ giống như các
NHTM đã làm. Tuy nhiên, việc cho vay tái chiết khấu đôiư với Ngân hàng
Thương mại đã được giứoi hạn trong mức cho phép (hạn mức tía chiéet
khấu) để thực hiện chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước.
ii. Cho vay bản đảm: là hình thức các NHTM đem các chứng từ có giá
đến Ngân hàng nhà nước để làm vật tư bảo đảm xin vay vốn. Căn cứ trên tổng
mệnh giá các chứng từ có giá làm vật tư bảo đảm, Ngân hàng nhà nước sẽ cho
vay theo tỷ lệ nhất định tuỳ theo chính sách quản lý giá của Ngân hàng nhà
nức trong từng thời kỳ.
Vốn vay Ngân hàng nhà nức là quan hệ trực tiếp giữa các NHTM nằm
trong sự điều tiết của chính sách tiền tệ. Khi Ngân hàng nhà nước sử dụng
công cụ thị trường mở mua bán các trái phiếu, kỳ phiếu ngắn hạn, hệ thống
ngân hàng Thương mại phải chịu sự kiểm soát gắt gao của Ngân hàng nhà
nước.
2.4. Vốn khác.
Trong quá trình làm trung gian thanh toán, NHTM cũng tạo được một
khoản vốn trong thanh tốn: vốn trên tài khoản mở thư tín dụng, tài khoản
tiền gửi séc bảo chi, sséc định mức và các khoản tiền phong toả do Ngân hàng
chấp nhận hối phiếu Thương mại . Các khoản tiền tạm thời được trích khỏi tài
khoản này nhập vào tài khoản khác chờ sử dụng, nên được coi là tiền nhàn
rỗi.
Thông qua nghiệp vụ đại lý, NHTM cũng thu hút được một lượng vốn
đáng kể trong quá trình thu hoặc chi hộ khách hàng, làm đại lý cho tổ chức tín
dụng khác, nhận vận chuyển cho một kách hàng hoặc một dự án đầu tư. Do
việc phát tiến được thực hiện theo tiến độ cơng việc, nên Ngân hàng cịn có
thể sử dụng tạm thời tồn khoản đó vào kinh doanh.
3. Vai trị của vốn đối với hoạt động kinh doanh Ngân hàng.
3.1. Vốn là cơ sở để Ngân hàng Thương mại tổ chức mọi hoạt động
kinh doanh.
Đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào, muốn hoạt động kinh doanh
được thì phải có vốn, bởi vì vốn phản ánh năng lực chủ yếu để quyết đinhj
khả năng kinh doanh. Riêng đối với Ngân hàng, vốn là cơ sở để Ngân hàng tổ
chức mọi hoạt động kinh doanh của mình. Nói cách khác, NHTM khơng có
vốn thì khơng thực hiện được các nghiệp vụ kinh doanh. Bởi vì dặc trưng của
Ngân hàng, vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh mà còn là phương tiện
kinh doanh chủ yếu của NHTM. Ngân hàng là đơn vị tổ chức kinh doanh loại
hàng hoá đặc biệt trên thị trường tiền tệ (thị trường vốn ngắn hạn) và trên thị
trường chưngs khoán (thị trường vốn dài hạn). Những Ngân hàng nhiều vốn
là những Ngân hàng có thế mạnh trong kinh doanh. Chính vì thế, có thể nói
vốn là điểm đầu tiên trong chu kỳ kinh doanh của Ngân hàng. Do đó, ngồi
vốn ban đầu cần thiết (tức là đủ vốn theo điều lệ luật định) thì Ngân hàng phải
thường xuyên chăm lo tới việc tăng trưởng vốn trong suốt quá trình hoạt động
kinh doanh của mình.
3.2. Vốn của Ngân hàng sẽ quyết định quy mo hoạt động tín dụng và
các hoạt động khác của Ngân hàng.
Vốn của Ngân hàng sẽ quyết định đến việc mở rộng hay thu hẹp khối
lượng tín dụng. Thơng thường, nếu so với các Ngân hàng lớn thì Ngân hàng
nhỏ có khoản mục đầu tư cho vay kém đã dạng hơn, phạm vi cho vay của các
Ngân hàng này cũng nhỏ hơn. Trong khi, các Ngân hàng lớn cho vay được tại
các thị trường trong vùng, thậm chí trong nước và quốc tế, thì các Ngân hàng
nhỏ bị giới hạn về phạm vị hoạt động hẹp, mà chủ yếu trong cộng đồng.
Thêm vào đó, do khả năng hạn hẹp nên các Ngân hàng nhỏ không phản ứng
nhạy bén với sự biến động của lãi suất gây khả năng thu hút vốn đầu tư từ
các tầng lớp dân cư và các thành phần kinh tế. Nếu khả năng của Ngân hàng
đó dồi dào, thì chắc chắn Ngân hàng sẽ mở rộng thị trường tín dụng và các
dịch vụ Ngân hàng.
Thật vậy, trong nền kinh tế thị trường, để mở rộng quy hoạt động đòi
hỏi các Ngân hàng lớn phải đủ lớn trên thị trường là điều trọng yếu. Uy tín đó
phải được thể hiện trước hết ở khả năng thanh toán chi trả cho khách hàng,
khả năng thanh toán càng cao thì vốn khả dụng của Ngân hàng càng lớn. Vì
vậy loại trừ nhân tố khác, khả năng thanh toán của Ngân hàng tỷ lệ thuận với
vốn của Ngân hàng nói chung và vốn khả dụng nói riêng. Với tiềm năng vốn
lớn, Ngân hàng có thể hoạt động kinh doanh với quy mô hoạt động ngày càng
mở rộng, tiến hành các hoạt động cạnh tranhcó hiệu quả nhằm vừa giữ uy tín,
vừa nâng cao thanh thế của Ngân hàng trên thương trường.
3.3. Vốn của Ngân hàng quyết định năng lực cạnh tranh.
Thực tế đã chứng minh: quy mơ, trình độ nghiệp vụ, phương tiện kỹ
thuật hiện đại của Ngân hàng là tiền đề cho việc thu hút nguồn vốn. Đồng
thời, với khả năng vốn là điều kiện thuận lợi đối với Ngân hàng trong việc mở
rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế xét cả về quy mô, khối
lượng tín dụng, chủ động về thời gian, thời hạn cho vay, thậm chí quyết định
mức lãi suất vừa phải trả cho khách hàng. Điề đó sẽ thu hút ngày càng nhiều
khách hàng, doanh số hoạt động của Ngân hàng sẽ tăng nhanh chóng và Ngân
hàng có nhiều thuận lợi trong kinh doanh. Đây cũng là điều kiện bổ sung
thêm vốn tự có của Ngân hàng, tăng cường cơ sở vật chất và quy mô hoạt
động của Ngân hàng trên mọi lĩnh vực.
Đồng thời, vốn ngân hàng lớn sẽ giúp cho Ngân hàng có đủ khả năng
tài chính để kinh doanh đa năng trên thị trường, không chỉ đơn thuần là cho
vay mà cịn mở rộng hình thức liên doanh, liên kết, kinh doanh trên thị trường
chứng khốn. Chính các hình thức kinh doanh đa năng này sẽ góp phần phân
tán rủi ro trong hoạt động kinh doanh và tạo thêm vốn cho Ngân hàng đồng
thoì tăng sức cạnh tranh của Ngân hàng trên thị trường.
4. Các hình thức tạo vốn của NHTM trong nền kinh tế thị trường.
Các NHTM làm nhiệm vụ vay tiền (hầu hết từ những gửi tiền) và cho
vay hoặc đầu tư với mục đích hưởng lợi qua lãi suất. Đây là công việc của
một trung gian tài chính, đóng vai trị giữa người có vốn và người cần vốn.
Quá trình tạo lập vốn của các NHTM được thực hiện dưới các hình thức sau:
4.1. Tạo vốn qua huy động tiền gửi không kỳ hạn.
Đây là loại tiền gửi mà chủ nhân của nó có thể rút tiền hoặc trả tiền cho
bên thứ ba bằng cáhc phát hành séc hoặc cơng cụ thanh tốn khơng dùng tiền
mặt khác.
Đối với khách hàng, việc dễ dàng chuyển nhượng được xem như là
một yếu tố quan trọng, còn việc hưởng lãi đối với số vốn dùng vào mục đích
giao dịch chỉ là thứ yếu. Do vây, loại tiền gửi này được mệnh danh là tiền gửi
theo yêu càu không đem lại lãi suất cụ thể. ở Việt Nam tiềng gửi thuộc loại
này được thể hiện dưới các hình thức như tài khoản tiền gửi không kỳ hạn của
các tổ chức kinh tế và tài khoản tiền gửi cá nhân. Do tỷ trọng thanh tốn
khơng dùng tiền mặt ở Việt Nam cịn q thấp, để khuyến khích việc thực
hiện thanh toán qua Ngân hàng, các NHTM ở Việt Nam đã tiến hành trả lãi
cho tiền gửi này (0,5% đối với tài khoản tiền gửi không kỳ hạn của các đơn
vị, tổ chức kinh tế và tiền gửi cá nhân). Trong tương lai gần, khi nhu cầu
thanh toán của dân cư phát triển, dịch vụ thanh toán của Ngân hàng sẽ thay
thế, khuyến khích bằng lãi suất tiền gửi. ở các nước phát triển loại tiền gửi
này chiếm một vị trí quan trọng trong kết câu nguồn vốn của NHTM.
4.2. Tạo vốn qua huy động tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm.
KHác với tiền gửi không kỳ hạn có số dư tăng giảm phụ thuộc vào tình
hình sản xuất kinh doanh của chủ tài khoản, cơng tác quản lý tiền mặt của
Ngân hàng, tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm mang tính nhạy cảm rất
cao đối với lãi suất. Quá trình tạo vốn này được thực hiện dưới hai hình thức
sau:
+ tiền gửi có kỳ hạn.
Mức lãi suất đối với các chứng chỉ tiền gửi có thể cố định hoặc linh hịat
tuỳ theo sự lựa chọn của khách hàng và đối với các chứng chỉ có lãi suất linh
hoạt, khách hàng có thể gửi thêm tiền trước hạn định. Các chứng chỉ tiền gửi
đã được đa dạng hoá nhằm đáp ứng được sự cạnh tranh trong huy động vốn
của các Ngân hàng. Ví dụ: Các chứng chỉ tiền gửi với mệnh giá cao do Ngân
hàng lớn phát hành có thể chuyển nhượng được, và chính những người mua
chứng khốn đã tạo ra một thị trường phụ cho các chứng chỉ này. Như vậy,
Ngân hàng có thể thu hút vốn thanh tốừ các nhà đầu tư lớn, mà lẽ ra các nhà
đầu tư này đã có thể đầu tư vào trái phiếu kho bạc hay vào thị trường tiền tệ.
Các chứng chỉ tiền gửi có khả năng chuyển nhượng tốt này thường được các
cơng ty, quỹ hưu trí và các tổ chữc chính quyền đầu tư với khối lượng lớn và
được giao dịch trên thị trường chứng khoán thứ cấp, trước hạn định thanh
toán.
ở Việt Nam, hình thức tiền gửi có kỳ hạn bằng các chứng chỉ tiền gửi
(kỳ phiếu ngân hàng có mục đích) đã xuất hiện với các thời hạn 3 tháng, 6
tháng, 9 tháng ... Tuy mới được sử dụng trong hai năm trở lại đây, song hình
thức huy động đã ngày càng phát huy vai trò trong việc tạo vốn của các Ngân
hàng. Trên thực tế, tỷ trọng huy động vốn bằng hình thức phát hành kỳ phiếu
Ngân hàng chiếm một tỷ lệ tương đối so với các hình thức huy động khác.
+ tiền gửi Ngân hàng.
Từ lâu tiền gửi tiết kiệm đã được coi là công cụ huy động vốn truyền
thống của các NHTM. Vốn huy động từ các tài khoản tiết kiệm chiếm một tỷ
trọng đáng kể trong tiền gửi Ngân hàng. Tiền gửi tiết kiệm bao gồnm các loại
sau: loại khơng kỳ hạn, có kỳ hạn và có kỳ hạn dài.
- Tiền gửi không kỳ hạn.
Thực chất đay là khoản tiền gửi tiết kiệm thông thường. Đối với khoản
tiền gửi này, chủ tài khoản có thể rút tiền ra bất ú lúc nào mà không phải báo
trước nhưng chỉ được rút bằng tiền mặt và người gửi tiền được hưởng lãi suất.
Tuy nhiên, số dư tài khoản này thường khơng lớn, nhưng có ưu điểm lớn hơn
so với các tài khoản tiền gửi giao dịch ở chỗ số dư này ít biến động. Chính vì
vậy, đối vối loại tiền gửi này, các NHTM thường trả lãi giống như tiền gửi
không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế. NHTM cần tạo điều kiện mở rộng khai
thác khoản vốn này.
- Tiết kiệm có kỳ hạn.
Các NHTM thường huy động tiết kiệm với kỳ hạn từ 3 tháng đến 1
năm. Về nguyên tắc, một khi khách hàng đã gửi tiền vào tài khoản này, thì
khơng được rút ra (cả gốc và lãi) trừ khi đã hết hạn tiền gửi. Để tăng sức cạnh
tranh trong thu hút tiền gửi, một số NHTM đã cho phép khách hàng rút tiền
trước hạn, một phần trong tiền lãi là khách hàng được hưởng đã bị khấu
trừ(có thể Ngân hàng khơng được trả lãi trong một thời điểm nào đó hoạc
khách hàng chỉ được hưởng mức lãi suất không kỳ hạn cho khoản thời gian
khách hàng gửi tiền).
- Tiết kiệm dài hạn: So với các loại hình tiết kiệm khác, đối với tài
khoản này, bất cứ lúc nào chủ tài khoản cũng có thể gửi tiền vào tài khoản
này với số lượng không hạn chế nhưng chỉ được rút ra khi đến hạn. Đây là
loại hình tiết kiệm mà Ngân hàng cần tận dụng nhằm tạo ra nguồn vốn có tính
chất ổn định cao phục vụ cho hoạt động cấp tín dụng dài hạn của mình.
4.3. Tạo vốn qua phát hành chứng chỉ tiền gửi tiết kiệm có mệnh giá
lớn.
Việc huy động các chứng chỉ tiền gửi thuộc loại này có ý nghĩa quan
trọng trong việc quản tài sản nợ hơn là các biện pháp để các NHTM huy động
vốn. Chẳng hạn, ở Mỹ các chứng chỉ tiền gửi có mệnh giá lớn hơn
100.000USD hoặc nhiều hơn đã trở thành công cụ đáng chú ý trong việc quản
lý tài sản nợ ở các Ngân hàng lớn.
Thời hạn các chứng chỉ tiền gửi này được xác định dựa trên cơ sở vốn
trung dài hạn của NHTM, thông thường thời hạn đó khơng dưới một năm.
Mức lãi được trả cho các chứng chỉ tiền gửi loại này được quy định
bằng cách thoả thuận trực tiếp giữa Ngân hàng và người gửi tiền hoặc quy ở
mức mà người gửi chấp nhận được.
Xuất phát từ thực tế kách quan: những người mua chứng chỉ tiền gửi
này rất nhạy cảm với sự thay đổi của lãi suất. Để huy động vốn nhằm đáp ứng
các nhu cầu thanh tốn hay nhu cầu về tín dụng, các Ngân hàng Thương mại
có thể đưa ra các mức lãi suấtcao hơn so với các loại chứng chỉ tiền gửi khác.
4.4. Tạo vốn qua đi vay.
Các khoản vay ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong hoạt động của
các NHTM không chỉ về quy môđơ thuần mà chủyêú mang ý nghĩa như là
một biện pháp quản lý các mục tài sản nợ. Các Ngân hàng có thể đi vay từ
nhiều nguồn khác nhau:
+ Vay Ngân hàng nhà nước Hình thức thường gặp là vay tái chiết khấu
với vai trò là người cho vay cuối cùng, Ngân hàng nhà nước vay từ các tổ
chức tín dụng khác ln cho các Ngân hàng Thương mại vay với một giá
nhất định - đó là lãi suất tái chiết khấu. Lãi suất tái chiết khấu được Ngân
hàng nhà nước sử dụng như một công cụ điều tiết vĩ mô, tuỳ theo yêuc ầu
đièu tiết của nền kinh tế mà lãi suất này có thể cao hay thấp. Các NHTM có
thể vay NHNN khi có nhu cầu, nhưng hầu hết các nước Ngân hàng nhà nước
đều không cho phép các NHTM lạm dụg khả năng đó bằng cơng cụ như hanj
chế mức tái chiết khấu. Tuy nhiên đay alf giải pjháp cuối cùng của NHTM
trong công tác điều hành kinh doanh.
+ Vay từ các tổ chức tín dụng khác: Đó là khoản vay thơng thườn mà
các NHTM vay lẫn nhau trên thị trường tiền tệ.
Tuy nhiên, các NHTM thường sử dụng tới hai giải pháp trên trong các
trường hợp sau:
- Thứ nhất, Các Ngân hàng thườn chỉ vay từ các Ngân hàng nhà nước
khi khơng cịn giải pháp nào khác nhằm tránh việc sử dụng tối đa hạn ức chiết
khấu, mà qua đó có thể gây sự chú ý của Ngân hàng nhà nước.
- Thứ hai, khi một khách hàng tốt trả một khoản nợ cũ và yêu cầu vay
tiếp một khoản khác mà bị từ chối vì Ngân hàng đang gặp khó khăn về vốn
thì có thể Ngân hàng sẽ mất vĩnh viễn khách hàng đó vào tay các đối thủ cạnh
tranh.
4.5. Tạo vốn qua phát hành trái phiếu.
Trái phiếu Ngân hàng là một công cụ dài hạn trên thị trường vốn dưới
hình thức giấy nhận nợ do các tổ chức tín dụng phát hành để huy động vốn,
trong đó cam kết trả lãi và gốc cho người mua hoặc người sở hữu trong một
thời gian cố định. Về phía người mua trái phiếu Ngân hàng là giấy chứng
nhận giấy đầu tư vốn và quyền được hưởng thu nhập của người mua trên số
tiền mua trái phiếu của Ngân hàng.
Thực chất, hình thức tạo vốn dã giúp cho các Ngân hàng Thương mại
chủ độg trong việc huy động vốnđể thực hiện các dự án đâù tư dài hạn và vốn
này có tính chất ổn định cao về thời gian sử dụng và lãi suất.
Theo kinh nghiệm tại Đức, trái phiếu Ngân hàng được phát hành với
mức lãi suất cố định và mức lãi suất này được xác định theo mưc lãi suất trên
thị trường vốn tại thời điểm phát hành. Hầu hết các trái phiếu Ngân hàng đều
được đưa vào các giao dịch chính thức hay giao dịch tự do trên một hay nhiều
sở giao dịch chứng khoán Đức. Do đó những người đầu tư vào trái phiếu
Ngân hàng có thể thu hồi vốn vào bất cứ lúc nào. Chính vì vậy, điều đó khơng
chỉ tạo điều kiện cho Ngân hàng trong việc thu hút vốn mà còn thuận lợi cho
cả khách hàng.
Ngoài ra kinh nghiệm cho thấy: việc huy động vốn từ trái phiếu Ngân
hàng khá phổ biến ở các nước, nó được xuất hiện và phát triển từ các nước
Châu Âu trong những năm 1960 của thế kỷ XX và ngày nay các giao dịch đã
phát triển với quy mô quốc tế bao gồm nhiều Ngân hàng và Cơng ty tài chính
tham gia. Nghiệp vụ huy động vốn qua trái phiếu đã đem đến cho Ngân hàng
những khoản lợi nhuận cao bởi khả năng “tiêu thụ” các khoản vốn huy động
này đã được nhanh chóng chuyển đến các nước đang “khát vốn” để phát triển
ở Châu á, Nam Mỹ.
4.6. Các hình thức tạo vốn khác.
NHTM có thể sử dụng thu hút vốn từ các nguồn vốn nhàn rỗi, từ các
hoạt động uỷ thác về các dịch vụ xã hội như dịch vụ: câu lạc bộ giáng sinh,
nghỉ hè và các kế hoạch khác được mệnh danh là các “Câu lạc bộ tiết kiệm”.
Các kế hoạch này được tạo ra để khuyến khích những người tiết kiệm ký thác
mỗi tuần một số tiền nhất định tại Ngân hàng. Số tiền này sau một thời gian
nhất định sẽ là một số tiền đủ lớn để người giữ tiền có thể trang trải được các
khoản chi phí cho các khảon dịch vụ trên.
III. Vai trò của NHTM trong chiến lược tạo vốn.
NHTM là một tổ chức đặc biệt. Điểm đặc biệt là : vừa tổ chức tài chính
trung gian và là tổ chức tài chính thơng thường. Khi đóng vai trị tổ chức
trung gian, NHTM thực hiện vai trò thu hút các nguồn vốn trong nền kinh tế
để thực hiện các hoạt động của các chủ thể khác thiếu vốn dưới các hinh fthức
như tín dụng đầu tư. Cịn khi đóng vai trị tổ chức tài chính thơng thường thì
các NHTM thực hiện vai trị làm người mơi giới để người thừa vốn và người
thiếu vốn trực tiếp gặp nhau thông qua các hình thức như mơi giứoi chứng
khốn, thực hiện cho th trọn gói.
Đối với nền kinh tế nước ta hiện nay, khi mà hệ thống tài chính cịn
kém phát triển, chủng loại các tổ chức cịn nghèo nàn, quy mơ của các tổ chức
đó cịn nhỏ bé, hoạt động chưa phong phú thì có thể nói vai trị của NHTM
đối với nền kinh tế là rất lớn. Vai trò nổi bật nhất của NHTM hiện nay là góp
phần tạo vốn cho nền kinh tế, tạo điều kiện cho việc đạt được các mục tiêu
phát triển đến năm 2010 và các năm tiếp theo mà Đảng và Nhà nước đã đặt
ra.
1. Tạo điều kiện gia tăng tích luỹ cho nền kinh tế, thu hút các khoản
vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi, làm gia tăng dầu tư cho nền kinh tế.
Tích luỹ và tiêu dùng là hai hoạt động đối lập nhau, đều có nguồn gốc
từ thu nhập. Ngồi yếu tố quy mô của thu nhập, tiêu dùng trước tiên phụthuộc
vào nhu cầu cuộc sống và kế đến lựi ích của tích luỹ. Mục đích cuối cùng của
tích luỹ là tiêu dùng cho tương lai.
Tích luỹ của cơng chúng có thể tồn tại dưới các hoạt động của tài sản
nợ của NHTM. Đó là các khoản tiết kiệm hoặccác khoản đầu tư vào trái phiếu
Ngân hàng. Một khi hiệu quả hoạt động của Ngân hàng cao, lãi suất huy động
thoả đáng thì tích luỹ của công chúng qua Ngân hàng sẽ gia tăng do lợi ích
của tích luỹ so với lợi ích của tiêu dùng. Bên canh yếu tố lãi suất có tính chất
kích thích, chất lượng hoạt động của NHTM: thanh tốn chi trả nhanh, đảm
bảo thuận tiện an tồn thì khơng những tích luỹ của cong chúng tập trung vào
Ngân hàng mà các khoản vốn này là nguồn vốn giúp cho Ngân hàng thực hiện
các khoản mục đầu ra bên tài sản có tạo nên đầu tư cho kinh tế.
2. Tạo điều kiện chuyển tải một cách tối ưu vốn tích luỹ thành vốn đầu
tư cuối cùng cho nền kinh tế.
NHTM tạo đềi kiện và mơi trường thích hợp cho đầu tư tài chính trực
tiếp. NHTM tham gia vào q trình phát hành chứng khoán cho thị trường, và
trở thành cầu nối trực tiếp giữa người thừa vốn và người thiếu vốn trên thị
trường.
Chủ động thu hút vốn tích luỹ và vốn chi tiêu có tính chất nhà rỗi trong
nền kinh tế và hiệu quả hoạt động của Ngân hàng. Khi nền kinh tế có nhu cầu
vốn đầu tư, hiệu quả các vốn đầu ra cao và an tồn thì ngân hàng chủ động
tăng huy động vốn và ngược lại khi nền kinh tế suy thoái, Ngân hàng sẽ giảm
các khoản huy động hoặc chuyển vốn đầu tư sang cho vay tiêu dùng. Chủ
động điều tiết và phân phối vốn đầu tư trong nền kinh tế. Ngân hàng sẽ đầu tư
vốn vào những ngành nghề phát triển và thu hút vốn đầu tư đối với những
ngành nghề suy thoái.
IV. Hiệu quả nghiệp vụ khai thác vốn.
1. Khái niệm:
Nghiệp vụ khai thác sử dụng vốn bao gồm huy động vốn và sử duụng
vốn, hai vấn đề này có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Đối với từng Ngân hàng cơ sở cũng như toàn bộ hệ thống Ngân hàng
kinh doanh đều hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận tối đa và sự tăng trưởng
không ngưngf của nguồn vốn kinh doanh. Muốn đạt được những mục tiêu đó,
địi hỏi Ngân hàng phải tự vạch cho mình một chiến lược vốn đúng đắn, phù
hợp với kế hoạch sử dụng vốn trongtừng thời kỳ. Vì vậy:
Hiệu quả nghiệp vụ khai thác vốn là Ngân hàng phải đảm bảo sử dụng
kết hợp hài hoà các nguồn vốn có được sao cho việc sử dụng các nguồn vốn
đó mang lại hiệu quả cao nhất.
Hoạt động nói trên của Ngân hàng là hoạt động cân đối vốn, là công
việc rất cần thiết đối với mọi Ngân hàng, là một biện pháp nghiệp vụ, là công
cụ quả lý của các nhà lãnh đạo Ngân hàng.
2. Cơng thức tính (đối với Ngân hàng Láng Hạ năm 2000).
Huy động vốn
1 Tiền gửi tiết kiệm
Sử dụng vốn
1103 1 Vốn bảo đảm thanh toán 531
2 Tiền gửi của các tổ chức kinh 800
2 Dư nợ cho vay
661
3 Sử dụng khác
808
tế
3 Tiền gửi khác
Tổng
97
2000
Tổng
2000
Chương II. Thực trạng nghiệp vụ khai thác vốn tại chi nhánh Ngân
hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Láng Hạ.
I. Quá trình hình thành và phát triển của chi nhánh Ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn Láng Hạ.
1. Sơ lược về q trình hình thành.
Ngân hàng Nơng nghiệp Việt Nam (gọi tắt là Ngân hàng nong nghiệp)
là doanh nghiệp nhà nước, kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ Ngân hàng
đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước,
làm uỷ thác các nguồn vốn trung và dài hạn, ngắn hạn của chính phủ, các tổ
chức kinh tế, xã hội, cá nhân trong và ngồi nước, thực hiện tín dụng tài trợ
chủ yéu cho nông nghiệp và nông thôn. Ngân hàng nông nghiệp được thành
lập theo Quyết định số 400 - Công ty ngày 14/11/1990 của Chủ tịch hội đồng
bộ trưởng (nay là Thủ tướng chính phủ).m nơng nghiệp là một pháp nhân bao
gồm hội sở (trung tâm điều hành), các chi nhánh, văn phòng đại diện được
Nhà nước cấp vốn lần đầu 200 tỷ đồng vốn điều lệ (tương đương 30 triệu
USD), tự chủ tài chính, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh và những
cam kết của mình, có bản tơng rkết tài sản và con dấu riêng, hoạt động trong
khuôn khổ pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và Cơng ty tài chính.
Trước những khó khăn chung của nền kinh tế những năm đầu thập kỷ
90, Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam khi mới thành lập đã phải đối đầu với
nhiều gia khó, phải “gồng mình”trước những thua lỗ trong hoạt động kinh
doanh. Nhưng khi nền kinh tế đất nước đã ổn định và phát triển, đặc biệt kể từ
năm 1995, Ngân hàng nông nghiệp đã không ngừng vươn lên khẳng định vị
trí của mình, hoạt động ln có lãi và có sự tăng trưởng mạnh. Đứng trước
những nhu cầu ngày càng tăng của nền kinh tế, nhu cầu sử dụng vốn và các
dịch vụ Ngân hàng của các doanh nghiệp ngày càng tăng, bên cạnh đó nhằm
mở rộng mạng lưới hoạt động đa dạng hoá các nghiệp vụ Ngân hàng, nâng
cao uy tín hiệu quả hoạt động của mình và nhận thấy vị trí trụ sở 24 Lnág Hạ
có nhiều thuận lợi. Ngày 18/03/1997 Ban lãnh đạo Ngân hàng nông nghiệp
Việt Nam đã quyết định thành lập chi nhánh mới trực thuộc trung tâm điều
hành Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam tại địa điểm này, chi nhánh Ngân
hàng nông nghiệp và phát triển nơng thơn (NHNN&PTNT) Láng Hạ được
hình thành trên tiền đề đó.
Với tư cách là một chi nhánh trực thuộc Ngân hàng nông nghiệp Việt
Nam (NHNN&PTNT) Láng Hạ là một đại diện uỷ quyền của Ngân hàng
nông nghiệp Việt Nam, có quyền tự chủ kinh doanh theo phân cấp của
NHNN&PTNT, chịu sửàng buộc về nghĩa vụ và quyền lợi với
NHNN&PTNT. Về pháp lý, chi nhánh Láng Hạ cũng có con dấu riêng, được
ký kết các hợp đồng kinh tế, dân sự, chủ động kinh doanh, tổ chức theo phân
cấp uỷ quyền của nh nông nghiệp Việt Nam.
Chi nhánh NHNN&PTNT Láng Hạ có nhiệm vụ khai thác và huy động
vốn trong và ngoài nước, huy động các nguồn vốn ngắn hạn, trung và dài hạn
từ các thành phần kinh tế như: chính phủ, các tổ chức tín dụng, các doanh
nghiệp, dân cư, các tổ chức nước ngoài bằng USD và VNĐ để tiến hành các
hoạt động cho vay ngắn, trung, và dài hạn, đầu tư và tham gia hoạt động trên
thị trường chứng khoán.
2. Cơ cấu tổ chức của chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn.