Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Tài liệu Loạn 12 sứ quân ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.82 KB, 6 trang )

Loạn 12 sứ quân
Loạn 12 sứ quân là một giai đoạn loạn lạc của lịch sử Việt Nam, xen
giữa nhà Ngô và nhà Đinh. Giai đoạn này hình thành mầm mống kể từ khi
Dương Tam Kha cướp ngôi nhà Ngô, các nơi không chịu thuần phục, các
thủ lĩnh nổi lên cát cứ một vùng và đem quân đánh chiếm lẫn nhau. Loạn
12 sứ quân kéo dài hơn 20 năm (944-968) và kết thúc khi Đinh Bộ Lĩnh
thống nhất đất nước, lập ra nhà nước Đại Cồ Việt trong lịch sử.
Bối cảnh
Năm 944, Ngô Quyền mất, uỷ thác con trưởng là Ngô Xương Ngập cho
Dương Tam Kha - em của Dương hậu, vợ của Ngô Quyền. Dương Tam
Kha cướp ngôi, tự lập mình làm vua, xưng Dương Bình Vương. Ngô
Xương Ngập chạy về nhà một hào trưởng - Phạm Lệnh Công ở làng Trà
Hương - Nam Sách (Hải Dương). Phạm Lệnh Công che chở cho Ngô
Xương Ngập, đã ba lần đưa Ngô Xương Ngập vào rừng núi Hun Sơn đào
mà trú ẩn, Dương Tam Kha ba lần sai quân đi bắt Ngô Xương Ngập mà
không được. Dương Tam Kha lấy Ngô Xương Văn, con thứ hai của Ngô
Quyền và Dương Như Ngọc, làm con nuôi. Từ khi Dương Tam Kha lấy
ngôi của nhà Ngô, nhiều nơi không chịu thuần phục, các thủ lĩnh nổi lên
cát cứ một vùng thường đem quân đánh chiếm lẫn nhau.
Năm 950, Dương Tam Kha sai Ngô Xương Văn đi đánh Thái Bình. Ngô
Xương Văn dẫn quân quay lại lật đổ Dương Tam Kha. Xương Văn không
giết Tam Kha, chỉ giáng xuống làm Chương Dương công.
Năm 950, Ngô Xương Văn tự xưng làm Nam Tấn Vương, đóng đô ở Cổ
Loa. Ngô Xương Văn cho người đón anh trai Ngô Xương Ngập về. Được
Dương thái hậu chuẩn tấu, Ngô Xương Ngập cũng làm vua, là Thiên Sách
Vương. Lúc đó cùng tồn tại hai vua Nam Tấn Vương và Thiên Sách
Vương. Sử sách gọi là Hậu Ngô Vương.
Nhưng năm 954, Ngô Xương Ngập bị thượng mã phong mà chết, chỉ còn
một vua là Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn. Năm 965, Ngô Xương Văn
đi đánh thôn Đường và Nguyễn ở Thái Bình bị phục binh bắn nỏ chết.
Con của Ngô Xương Ngập là Ngô Xương Xí nối nghiệp, nhưng thế lực


ngày càng yếu kém phải lui về giữ đất Bình Kiều.
12 sứ quân
Từ 966 hình thành đầy đủ 12 sứ quân chiếm giữ các địa phương:
1. Ngô Xương Xí giữ Bình Kiều (Triệu Sơn - Thanh Hóa)
[1]
.
2. Đỗ Cảnh Thạc tự xưng là Đỗ Cảnh Công, giữ Đỗ Động Giang
(Thanh Oai, Hà Nội)
3. Trần Lãm tự xưng là Trần Minh Công, giữ Bố Hải Khẩu - Kỳ Bố
(Thái Bình)
4. Kiều Công Hãn tự xưng Kiều Tam Chế, giữ Phong Châu - Bạch
Hạc (Việt Trì-Lâm Thao, Phú Thọ)
5. Nguyễn Khoan tự xưng Nguyễn Thái Bình, giữ Tam Đái (Vĩnh
Tường, Vĩnh Phúc)
6. Ngô Nhật Khánh tự xưng là Ngô Lãm Công, giữ Đường Lâm (Sơn
Tây, Hà Nội)
7. Lý Khuê tự xưng là Lý Lãng, giữ Siêu Loại (Thuận Thành, Bắc
Ninh)
8. Nguyễn Thủ Tiệp tự xưng là Nguyễn Lệnh Công, giữ Tiên Du (Bắc
Ninh)
9. Lã Đường tự xưng là Lã Tá Công, giữ Tế Giang (Văn Giang, Hưng
Yên)
10. Nguyễn Siêu tự xưng là Nguyễn Hữu Công, giữ Tây Phù Liệt
(Thanh Trì, Hà Nội)
11. Kiều Thuận tự xưng là Kiều Lệnh Công, giữ Hồi Hồ - Cẩm
Khê (Phú Thọ)
12. Phạm Bạch Hổ tự xưng là Phạm Phòng Át, giữ Đằng Châu
(Hưng Yên)
Trong các sứ quân trên:
• Ngô Xương Xí và Ngô Nhật Khánh là quý tộc nhà Ngô; Phạm Bạch

Hổ, Đỗ Cảnh Thạc, Kiều Công Hãn là tướng nhà Ngô; các sứ quân
còn lại được xác định là các thủ lĩnh địa phương
[2]
.
• Một số trong 12 thủ lĩnh cát cứ có gốc là người Trung Hoa: Đỗ
Cảnh Thạc gốc người Quảng Lăng, Trần Lãm là người gốc Quảng
Đông; Nguyễn Khoan, Nguyễn Siêu, Nguyễn Thủ Tiệp là 3 anh em
gốc người Phúc Kiến
[3]
.
• Lực lượng sứ quân Trần Lãm sau khi sứ tướng mất hợp nhất về với
sứ quân Đinh Bộ Lĩnh.
• Kiều Công Hãn, Kiều Thuận là 2 anh em, cháu nội Kiều Công Tiễn.
Vị trí và nguyên nhân
Với giả thiết xác định vị trí Bình Kiều của Ngô Xương Xí tại Hưng Yên,
Lê Văn Siêu chỉ ra rằng hầu hết lãnh địa của các sứ quân đều dọc theo
sông Hồng và sông Đuống, nơi có ruộng đất phì nhiêu, dân cư đông đúc
và thuận tiện giao thông đường thủy
[4]
.
Lê Văn Siêu cho rằng loạn 12 sứ quân trong đó nhiều sứ quân nổi dậy
không phải vì lý do tranh bá đồ vương mà vì lý do kinh tế
[5]
; Đại Việt sử
ký toàn thư ghi về sự kiện này:
Nam Tấn [Vương] mất, các hùng trưởng đua nhau nổi dậy chiếm
cứ quận ấp để tự giữ
[6]

Nguyên nhân chính là các sứ quân người gốc Hoa - những người mà Lê

Văn Siêu đánh giá là hảo hán "muỗi tép" ở phương Bắc chạy loạn về phía
nam để thử thời vận và không được sự hậu thuẫn nào từ chính quốc. Các
sứ quân này cũng như các sứ quân người Việt khác, không chủ trương mở
đất làm rộng căn cứ mà chỉ cố thủ ở nơi hiểm yếu để chờ biến cố từ
phương Bắc
[7]
.
Chỉ có hai sứ quân họ Ngô thực sự có ý đồ khôi phục nhưng lực lượng
nhỏ yếu không đủ để thống nhất
[8]
.
Các sứ quân chiếm đóng các vùng và lập căn cứ, xây thành lũy. Một vài
thành lũy trong số đó còn tồn tại lâu dài về sau, thậm chí được sử dụng
lại. Chẳng hạn như thành đất của Đỗ Cảnh Thạc tại Thanh Oai sau này
được quân Minh sử dụng trong cuộc chiến chống phong trào khởi nghĩa
Lam Sơn vào cuối năm 1426
[9]
.
Đinh Bộ Lĩnh thống nhất đất nước
Đinh Bộ Lĩnh là con nhà quan. Cha mất sớm, ông theo mẹ về quê sinh
sống nương nhờ người chú ruột. Lớn lên, Đinh Bộ Lĩnh cũng tập hợp dân
chúng ở vùng Hoa Lư chờ thời cơ đến. Đầu tiên ông mở rộng căn cứ của
mình từ vùng rừng núi Hoa Lư ra vùng đồng bằng ven biển sông Hồng,
bằng cách cùng con trai là Đinh Liễn sang đầu quân trong đạo binh của sứ
quân Trần Minh Công, tức Trần Lãm, ở Bố Hải Khẩu (Thái Bình). Sau đó
ông được Trần Minh Công trao binh quyền, đưa quân về Hoa Lư, chiêu
mộ binh lính, chống nhà Ngô và các sứ quân khác.
Trong nhiều trường hợp, hoàn cảnh, tùy vào thực trạng mỗi sứ quân mà
Đinh Bộ Lĩnh tìm cách đánh thích hợp, hoặc bằng quân sự, hoặc bằng liên
kết, hay dùng mưu dụ hàng. Mở đầu sự nghiệp dẹp loạn, Đinh Bộ Lĩnh đã

đánh đám loạn thần Lữ Xử Bình và Kiều Tri Hựu ở triều đình Cổ Loa
[10]
.
Với 2 sứ quân họ Ngô là Ngô Nhật Khánh (Hà Nội) và Ngô Xương Xí
(Thanh Hóa), Đinh Bộ Lĩnh không tiêu diệt mà dùng kế dụ hàng. Sứ quân
Phạm Bạch Hổ (Hưng Yên) cũng tự nguyện về quy phục.
Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc là một sứ quân mạnh, có cung thành chắc chắn và
hào sâu bao quanh. Theo thần phả Độc nhĩ đại vương ở Thanh Oai, Đỗ
Cảnh Thạc là người trí dũng mưu lược, Đinh Bộ Lĩnh phải bàn mưu tính
kế mà đánh. Ban đêm, Đinh Bộ Lĩnh cho quân bao vây 4 mặt thành và
tiến đánh bất ngờ vào Trại Quyền. Bấy giờ Đỗ Cảnh Thạc đang ở đồn
Bảo Đà, quân tướng không ứng cứu được nhau, bị mất cả thành luỹ, đồn
trại, lương thực bèn bỏ thành chạy. Hai bên giao tranh hơn một năm sau,
Đinh Bộ Lĩnh hạ được thành. Đỗ Cảnh Thạc bị trúng tên chết.
Sứ quân Nguyễn Siêu chiếm Tây Phù Liệt (Thanh Trì, Hà Nội). Được tin
Đinh Bộ Lĩnh sắp đánh. Nguyễn Siêu đem 1 vạn quân đóng ở Thanh Đàm
dùng Nguyễn Trí Khả làm tiên phong, Trần Côn làm tá dực, Nguyễn Hiền
làm tổng quản các đạo quân, ngày đêm luyện tập, đào hào đắp luỹ để
phòng bị. Trong trận giao tranh đầu tiên Đinh Bộ Lĩnh bị mất 4 tướng là
Nguyễn Bồ, Nguyễn Phục, Đinh Thiết và Cao Sơn. Lần thứ 2 Đinh Bộ
Lĩnh bày binh bố trận giao chiến. Nguyễn Siêu chia một nửa quân ở lại
giữ thành, một nửa cùng sứ tướng vượt sông tìm viện binh của các sứ
tướng khác. Gần tới bờ bắc, gặp gió lớn, thuyền bị đắm. Đinh Bộ Lĩnh
biết tin, bèn sai võ sĩ nửa đêm phóng lửa đốt doanh trại. Quân Nguyễn
Siêu tan. Nguyễn Siêu tử trận.
[11]
Sứ quân Kiều Công Hãn đóng tại Phong Châu. Trước thế mạnh của sứ
quân Đinh Bộ Lĩnh, Kiều Công Hãn đem quân xuống phía nam để hợp
sức với Ngô Xương Xí. Khi đến thôn Vạn Diệp (Xã Nam Phong, Nam
Trực, Nam Định) bị một hào trưởng địa phương là Nguyễn Tấn đem quân

chặn đánh, Kiều Công Hãn bị thương chạy đến Lũng Kiều thì mất.
[12]
Theo thần tích làng Tiên Xá thì Nguyễn Thủ Tiệp ở Tiên Du cũng không
chống nổi Đinh Bộ Lĩnh, bỏ chạy về Cần Hải (Cửa Cồn, Quỳnh Lưu,
Nghệ An) đánh nhau vài trận rồi chết ở trang Hương Ái.
Theo thần tích ở xã Bình Sơn (Thuận Thành, Bắc Ninh) thì Lý Khuê đánh
nhau với Đinh Bộ Lĩnh bị thua và mất ở làng Dương Xá. Căn cứ vào
chính sử và các nguồn tài liệu của các nhà nghiên cứu thì các sứ quân
Nguyễn Khoan, Lã Đường được xác định là lực lượng tự tan rã, không rõ
kết cục của chủ tướng
[13]
.
Chiến tranh kết thúc năm 968. Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế, tức là
Đinh Tiên Hoàng, lập ra nhà Đinh. Thắng lợi của Đinh Bộ Lĩnh là thắng
lợi của xu hướng thống nhất quốc gia, của tinh thần dân tộc và ý chí độc
lập trong nhân dân.

×