Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Quan điểm của mác lenin về tri thức, vai trò của tri thức và vận dụng vào học tập nghiên cứu của sinh viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.34 KB, 18 trang )

LỜI NĨI ĐẦU
Lồi người đã trải qua hai nền văn minh và ngày nay, chúng ta đang đứng
trước ngưỡng cửa của nền văn minh thứ ba -văn minh trí tuệ. Trong nền văn
minh này, bộ phận quan trọng nhất là nền kinh tế tri thức - có thể nói là hết
sức cơ bản của thời đại thông tin.Đặc biệt là trong thập niên 90 các thành tựu
về công nghệ thông tin như: công nghệ Web, Internet, thực tế ảo, thương mại
tin học.... Cùng với những thành tựu về công nghệ sinh học: cơng nghệ gen,
nhân bản vơ tính... đang tác động mạnh mẽ, sâu sắc làm đảo lộn toàn bộ nền
kinh tế thế giới và toàn bộ xã hội loài người đưa con người đi vào thời đại
kinh tế tri thức.Rất nhiều nước trên thế giới đều có tăng trưởng kinh tế từ tri
thức.Việt Nam vẫn đang là một trong những nước nghèo và kém phát triển so
với khu vực và trên thế giới.Do đó phát triển kinh tế là chiến lược cấp bách
hàng đầu.Hơn nữa chúng ta đang trên con đường tiến hành cơng nghiệp
hố,hiện đại hố đất nước nên khơng thể khơng đặt mình vào tri thức, phát
triển tri thức để đưa nền kinh tế nước nhà bắt kịp và phát triển cùng thế giới.
Góp phần vào chiến lược phát triển kinh tế,tiến nhanh trên con đường công
nghiệp hoa,hiện đại hoá chúng ta cần phải nghiên cứu tri thức,tìm hướng đi
đúng đắn cho nền kinh tế tri thức,phù hợp với điều kiện,hoàn cảnh đất
nước,phù hợp với khu vực,với thế giới và thời đại trong tổng thể các mối liên
hệ,trong sự phát triển vận động không ngừng của nền kinh tế tri thức. Vì vậy
em quyết định chọn đề tài Quan điểm của mác lenin về tri thức, vai trò của
tri thức và vận dụng vào học tập nghiên cứu của sinh viên để làm đề tài
nghiên cứu của mình.


CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG
1.1 Khái niệm về tri thức
Tri thức đã có từ lâu trong lịch sử, có thể nói từ khi con người bắt đầu có tư
duy thì lúc đó có tri thức.Trải qua một thời gian dài phát triển của lịch sử, cho đến
những thập kỷ gần đây tri thức và vai trị của nó đối với sự phát triển kinh tế-xã hội


mới được đề cặp nhiều.Vậy tri thức là gì?
Có rất nhiều cách định nghĩa về tri thức nhưng có thể hiểu “Tri thức là sự
hiểu biết, sáng tạo và những khả năng, kỹ năng để ứng dụng nó(hiểu biết sáng tạo)
vào việc tạo ra cái mới nhằm mục đích phát triển kinh tế -xã hội.
Tri thức bao gồm tất cả những thông tin,số liệu,bản vẽ,tưởng tượng (sáng
tạo), khả năng,kỹ năng quan niệm về giá trị và những sản phẩm mang tính tượng
trưng xã hội khác.Tri thức có vai trị rất lớn đối với đời sống –xã hội.
Kinh tế thế giới đang bước vào một thời đại mới,một trình độ mới.Đó là
trình độ mà”nhân tố quan trọng nhất là việc chiếm hữu, phân phối nguồn trí lực và
việc sáng tạo,phân phối và sử dụng tri thức trong các ngành kĩ thuật cao”.Tiêu chí
chủ yếu của nó là lấy tri thức,trí óc làm yếu tố then chốt để phát triển kinh tế và tồn
tại trực tiếp giống như các yếu tố sức lao động và tài nguyên.Đó là thời đại mà “Tri
thức đã trở thành động lực chủ yếu của sự phát triển xã hội”, ”Tri thức là tài
nguyên là tư bản”, “Tri thức là tâm điểm của cạnh tranh và là nguồn lực dẫn dắt


cho sự tăng trưởng dài hạn..dẫn tới những thay đổi lớn trong cách tổ chức sản xuất,
cấu trúc thị trường, lựa chọn nghề nghiệp…
1.2 Vai trò của tri thức trong đời sông-xã hội
Tri thức đã và đang ngày càng trở lên quan trọng đối với đời sống xã hội. Nó
tác động trực tiếp đến các lĩnh vực của xã hội :kinh tế,chính trị,văn hố giáo dục..
1.2.1 Vai trị của tri thức đối với Kinh tế-Kinh tế tri thức
Nền kỉnh tế tri thức là nền kinh tế trong đó q trình thu nhận truyền bá, sử
dụng, khai thác,sáng tạo tri thức trở thành thành phần chủ đạo trong quá trình tạo
ra của cải.
Kinh tế tri thức có nhiều đặc điểm cơ bản khác biệt so với các nền kinh tế
trước đó:
Tri thức khoa học-công nghệ cùng với lao động kỹ năng cao là cơ sỏ chủ yếu
và phát triển rất mạnh
-Nguồn vốn quan trọng nhất,quý nhất là tri thức,nguồn vốn trí tuệ.

-Sáng tạo và đổi mới thướng xuyên là động lực chủ yếu nhất thúc đẩy sự
phát triển.
-Nền kinh tế mang tính học tập.
-Nền kinh tế lấy thị trường tồn cầu là mơi trường hoạt động chính.
-Nền kinh tế phát triển bền vững do được nuôi dưỡng bằng nguồn năng
lượng vô tận và năng động là tri thức.
Thực tiễn hai thập niên qua đã khẳng định,dưới tác động của cách mạng
khoa học –cơng nghệ và tồn cầu hố,kinh tế tri thức đang hình thành ở nhiều nước
phát triển và sẽ trở thành một xu thế quốc tế lớn trong một,hai thập niên tới.
Sự xuất hiện của các hoạt động sản xuất kinh doanh dựa trên tri thức.
Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế lấy sản xuất và kinh doanh tri thức làm nội
dung chủ yếu.Tương lai của bất cứ doanh nghiệp nào cũng không chỉ phụ thuộc


vào việc sử dụng tiền bạc, nguyên vật liệu,nguồn nhân lực và máy móc thiết bị…
mà cịn phụ thuộc vào việc xử lý và sử dụng những thông tin nội bộ và thông tin từ
môi trường kinh doanh.Cách tốt nhất để tăng năng suất là tìm hiểu kiến thức
chun mơn mà hãng có được,sử dụng vì mục đích thương mại và những kiến thức
này cần được phát triển không ngừng.
Giá trị của những công ty công nghệ cao như các công ty sản xuất phần mềm
và các công ty công nghệ sinh học không chỉ nằm trong những tài sản vật chất hữu
hình, mà cịn nằm trong những tài sản vơ hình,như tri thức và các bằng sáng
chế.Để trở thành một công ty được dẫn dắt bởi tri thức, các công ty phải biết nhận
ra những thay đổi của tỉ trọng vốn trí tuệ trong tổng giá trị kinh doanh.Vốn trí tuệ
của cơng ty, tri thức, bí quyết và phương pháp đội ngũ nhân viên và công nhân
cũng như khả năng của cơng ty để liên tục hồn thiện phương pháp sản xuất là một
nguồn lợi thế cạnh tranh.Hiện có các bằng chứng đáng lưu ý chỉ ra phần giá trị vơ
hình của các cơng ty cơng nghệ cao và dịch vụ đã vượt xa phần giá trị hữu hình của
các tài sản vật thể của các cơng ty đó,như các tồ nhà hay thiết bị.Ví dụ như các tài
sản vật thể của công ty Microsoft chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng giá trị

được vốn hoá trên thị truờng của cơng ty này.Phần lớn là vốn trí tuệ.Sau hai mươi
năm thành lập, số nhân viên công ty tăng 6 nghìn lần, thu nhập tăng 370 nghìn
lần,1/10 số nhân viên trở thành triệu phú.Nguồn vốn con người là một thành tố giá
trị cơ bản trong một công ty dựa vào tri thức.
Nền kinh tế tri thức sẽ ngày càng làm xuất hiện nhiều sản phẩm thơng
minh.Đó là những sản phẩm có khả năng gạn lọc và giải thích các thơng tin để
người sử dụng có thể hành động một cách hiệu quả hơn.Ngay cả một chiếc bánh
kẹp thịt cũng có thể trở thành một sản phẩm mới dựa trên tri thức bằng cách làm
cho khách hàng biết cách sử dụng những thông tin về dinh dưỡng.Số lượng ka-lo
và chất béo được in lên hố đơn hoặc thậm chí trình bày thơng tin đó trước khi


khách đặt hàng.Thậm chí có những sản phẩm thơng minh vừa có thể truyền đạt
thơng tin về sản phẩm vừa khuyên khách hàng nên làm gì từ tình hình vừa được
thơng tin.
Vốn tri thức –vai trị của nó trong kinh tế tri thức
Vốn tri thức là tri thức được dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh với
mục đích sinh lợi(tăng thêm giá trị).
Vốn tri thức là một yếu tố nổi bật nhất trong hàm sản xuất.Trong văn minh
nông nghiệp thì sức lao động, đất đai và vốn là những yếu tố của sản xuất công
nghiệp,vốn,đất đai và nhất là sức lao động trở thành hàng hoá với tư cách là những
yếu tố quan trọng trong sự phát triển kinh tế-xã hội,góp phần chuyển xã hội phong
kiến thành xã hội tư bản trong lịch sử.Còn trong kinh tế tri thức,yếu tố của sự phát
triển nền kinh tế-xã hội không chỉ bao gồm vốn tiền tệ,đất đai và dựa trên lao động
giản đơn mà chủ yếu dựa trên lao động trí tuệ gắn với tri thức.Như vốn tri thức trở
thành yếu tố thứ nhất trong hàm sản xuất thay vì yếu tố sức lao động vốn tiền tệ và
đất đai.
Vốn tri thức thực sự trở thành nguồn gốc động lực cho sự phát triển kinh tếxã hội.Nước Mỹ nói riêng và các nước thuộc tổ chức OECD nói chung nhiều năm
qua tăng trưởng ổn định với tốc độ cao là nhờ có sự phát triển của các ngành kinh
tế dựa trên tri thức như các ngành công nghệ thông tin,viễn thông, vũ trụ,đầu

tư,ngân hàng,tài chính,chứng khốn,bảo hiểm…Đồng thời chuyển đầu tư vốn tri
thức từ các ngành truyền thống sang các ngành có hàm lượng tri thức cao.ở các
nước có nềnkinh tế đang phát triển,đầu tư càng nhiều vốn tri thức thì mang lại giá
trị gia tăng cang lớn,tỷ xuất lợi nhuận càng cao.
Vốn tri thức trong kinh tế tri thức đóng vai trị quyết định sự thành cơng hay
thất bại của doanh nghiệp.Vốn tri thức ở đây bao gồm các công nhân tri thức,các
nhà quản lý có trình độ cao,các cơng nghệ mới.


Vốn tri thức đóng vai trị to lớn trong việc rút ngắn khoảng cách phát triển
giữa các nước đang phát triển và các nước phát triển.Sự xuất hiện kinh tế tri thức
vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với các nước kém và đang phát triển,trong đó
có Việt Nam.Các quốc gia kém và đang phát triển phải nhanh chóng tiếp cận với
kinh tế tri thức,thơng qua tri thức hố các ngành cơng nghiệp,nơng nghiệp,dịch
vụ,đặc biệt sớm hình thành các cơng nghệ cao để nhanh chóng đưa nền kinh tế đất
nước đuổi kịp các nước phát triển.
1.2.2 Vai trò tri thức đối với chính trị
Tri thức đem lại cho con người những sự hiểu biết, kiến thức.Người có tri
thức là có khả năng tư duy lý luận,khả năng phân tích tiếp cận vấn đề một cách sát
thực,đúng đắn.Điều này rất quan trọng,một đất nước rất cần những con người như
vây để điều hành cơng việc chính trị.Nó quyết định đến vận mệnh của một quốc
gia.Đại hội VI của Đảng đã đánh dấu một sự chuyển hướng mạnh mẽ trong nhận
thức về nguồn lực con ngươì.Đại hội nhấn mạnh:”Phát huy yếu tố con người và lấy
việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt đơng”chiến lược phát
triển con người đang là chiến lược cấp bách.Chúng ta cần có những giải pháp trong
việc đào tạo cán bộ và hệ thống tổ chức :
Tuyển chọn những người học rộng tài cao,đức độ trung thành với mục tiêu
xã hội chủ nghĩa,thuộc các lĩnh vực,tập trung đào tạo,bồi dưỡng cho họ những tri
thức cịn thiếu và yếu để bố trí vào các cơ quan tham mưu hoạch định đường lối
chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước với những qui định cụ thể về chế

độ trách nhiệm quyền hạn và lợi ích.
Sắp xếp các cơ quan nghiên cứu khoa học –công nghệ và giáo dục-đào tạo
thành một hệ thống có mối liên hệ gắn kết với nhau theo liên ngành,tạo điều kiện
thuận lợi tối đa cho hợp tác nghiên cứu và ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực
tĩên. Hợp nhất các viện nghiên cứu chuyên ngành vào trường đại học và gắn kết
trường đại học và các cơng ty,xí nghiệp.Các cơ quan nghiên cứu và đào tao được


nhận đề tài, chỉ tiêu đào tạo theo chương trình,kế hoạch và kinh phí dựa trên luận
chứng khả thi được trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan.
Hàng năm theo định kỳ có những cuộc gặp chung giữa những người có trọng
trách và các nhà khoa học đầu nganh của các cơ quan giáo dục-đào tạo và trung
tâm khoa học lớn của quốc gia,liên hiệp các hội khoa học Việt Nam…với sự chủ tri
của đồng trí chủ tịch,sự tham gia của các thành viên Hội đồng giáo dục -đào tạo và
khoa học-công nghệ quốc gia về những ý kiến tư vấn,khuyến nghị của tập thể các
nhà khoa học với Đảng và nhà nước về định hướng phát triển giáo dục-đào
tạo.Phát triển khoa học –công nghệ,cách tuyển chon và giao chương trình đề
tài,giới thiệu những nhà khoa học tài năng để viết giáo khoa,giáo trình,làm chủ
nhiệm chương trình,đề tài và tham gia các hội đồng xét duyệt,thẩm định nghiệm
thu các chương trình,đề tài khoa học cấp Nhà nước.
Liên hiệp các hội khoa học Việt Nam cần thường xuyên và phát huy trí tuệ
của các nhà khoa học,dân chủ thảo luận để đưa ra được những ý kiến tư vấn,những
khuyến nghị xác thực có giá trị với Đảng,Nhà nước và động viên tập hợp lực lượng
các hội viên tiến quân mạnh mẽ vào các lĩnh vực khoa học và công nghệ mà đất
nước đang mong chờ để sớm thốt khỏi tình trạng nghèo và kém phát triển.
1.2.3 Vai trò tri thức đối với văn hố-giáo dục
Tri thức cũng có vai trị rất lớn đến văn hoá -giáo dục của một quốc gia. Nó
giúp con người có được khả năng tiếp cận,lĩnh hội những kiến thức ,ý thức của con
người được nâng cao.Và do đó nền văn hố ngày càng lành mạnh.Có những hiểu
biết về tầm quan trọng của giáo dục.Từ đó xây dựng đất nước ngày càng lớn

mạnh,phồn vinh.


CHƯƠNG II
Vai trò của tri thức khoa học
đối với thực tiễn nước ta hiên nay
2.1. Vai trò của tri thức khoa học trong công cuộc đổi mới của Việt
Nam.
Trong công cuộc đổi mới, tri thức khoa học được xem là nền tảng
và động lực của sự phát triển đất nước. Những cơ sở khoa học cùng
những luận cứ khoa học đã giúp Đảng có một sự định hướng đúng đắn
về đuường lối chính sách phát triển của đất nước; vạch ra kế hoạch phát
triển cho từng lĩnh vực cụ thể: Công nghiệp, Nông nghiệp, du lịch dịch
vụ, Khoa học công nghệ...Nói đến vai trị nền tảng và động lực của tri
thức Khoa học trong công cuộc đổi mới là nối đến con đường cơng
nghiệp hố hiện đại hố dựa trên cơ sở Khoa học và công nghệ, coi khoa
học-công nghệ là lực lượng sản xuất trực tiếp và hàng đầu. Quan điểm
này cho tấy rõ sự quyết tâm và lựa chọn sáng suốt của đảng ta trong đổi
mới tư duy, đổi mới quan niệm và đổi mới phương thức phát triển phù
hợp với những địi hởi phải tiến hành cơng nghiệp hố đi đơi với hiện
đại hố với tốc độ nhanh nhưng vẫn đảm bảo tính bền vững trong những
thập niên đầu của thế kỷ 21.
Nhìn lại thế kỷ 20 đã qua chúng ta thấy có những đổi thay to lớn
do khoa học-công nghệ mang lại. Trên thế giới sự xuất hiện các nhóm
nước mới cơng nghiệp hố( NIC ) sau chiến tranh thế giới tthứ 2 cũng


khơng nằm ngồi ảnh hưởng lan toả của các thành tựu khoa học - cơng
nghệ thơng qua q trình chuyển giao cơng nghệ tiến bộ bằng các chính
sách cơng nghiệp và nông nghiệp khôn ngoan, các nước NIC đã tận

dụng được cơ hội tiếp thu nhanh chóng các cơng nghệ mới, thay đổi
phương thức sản xuất cũ vốn dựa trên lao động thủ công và tài nguyên
chủ yếu để chuyển sang aps dụng các kỹ thuật cơ khí hố, tự động hoá
theo hướng tạo ra các giá trị gia tăng cao thúc đẩy sự phát triển, tăng
trưởng kinh tế. Nhờ đi theo con đường cơng nghiệp hố dự hẳn vào
Khoa học-công nghệ mà một số nước đã rút ngán được thời gian cần
thỉ\ết để làm tăng gấp đôi thu nhập bình quân đầu người. Trước kia,
nước Anh phải mất 58 năm, Mỹ mất 47 năm thì giờ đây Braxin chỉ mất
18 năm, Hàn Quốc 11 năm và Trung quốc chỉ trong vịng 10 năm. Ta có
thể so sánh Hàn Quốc và Gana vào những năm 60 và bây giờ. Điểm xuất
phát hai nước đều có mức thu nhập bình qn đầu người như nhau, đều
là các quốc gia chậm phát triển. Vậy mà ngày nay, thu nhập đầu người
của Hàn Quốc đã gấp 6 lần của Gana. vì sao có sự cách biệt lớn lao như
vậy? Đó là do Hàn Quốc đã thu nhận và sử dụng trí thức Khoa học sáng
tạo và phù hợp với thực tiễn hơn.
Thực tiễn trong những năm qua ở Việt Nam cho thấy: ở đâu có sự
sáng tạo trong cơng cuộc đổi mới các giải pháp về Khoa học-cơng nghệ
thì ở đó có sự tiến bộ vượt bậc. Thử hỏi nếu Việt Nam vẫn giữ nền kinh
tế tập trung bao cấp chưa chuyển sang nền kinh ế hàng hố nhiều thành
phần thì hiện giờ đất nước chúng ta sẽ ra sao.


Về Nơng nghiệp sự sáng tạo của Đảng trong chính sách khốn áp
dụng trong nơng nghiệp những năm 80 là một ví dụ điển hình cho thấy
vai trị của chính sách trong việc tạo ra mức tăng trưởng sản lượng kỷ
lục về lương thực mà khơng có một yếu tố sản xuất thông thường nào
như: vốn, lao động, vật tư có thể mang lại. Chính sách mới làm cho
người lao động làm việc có trách nhiệm và năng nổ sáng tạo hơn. Đảng
đẩy mạnh và khuyến khích nơng dân đưa khoa học-công nghệ vào sản
xuất như: sử dụng các loại giống mới, phân bón, máy móc sản xuất theo

cơng nghệ cao của thế giới; nâng cấp hệ thống thuỷ lợi bằng cách đầu tư,
cải tạo, nâng cấp hệ thống sông, đê ngăn chặn nước mặn lên biển. ứng
dụng các tiến bộ kỹ thuật và vật liệu mới trong thiết kế và thi cơng cơng
trình là cho việc thực hiện cơng trình xảy ra nhanh chóng đáp ứng kịp
thời nhu cầu, lợi ích của bà con nơng dân.
Về cơng nghiệp qua trình sáng tạo và triển khai chính sách mở cửa
thu hút vốn đầu tư nước ngoài đã dẫn tới sự ra đời của một khu vực kinh
tế mới - Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi rất năng động đang
góp phần tạo ra trên 10% GDP, 30% kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Các cơng ty, xí nghiệp nhờ đi thẳng vào công nghệ hiện đại mà đã đạt
đước những thắng lợi ngoài cả sự mong đợi. Ví dụ điển hình là cơng ty
chế biến sữa Vinamilk từ tình trạng vơ cùng khó khăn đã vươn lên sản
xuất ra được những sản phẩm cạnh tranh được với hàng nhập ngoại.
Trong các ngành, Bưu chính viễn thơng, khia thác dầu khí và các
ngành nghề khác nhờ những quyết định táo bạo trong đầu tư vào Kỹ


thuật công nghệ hiện đại mà đạt được mức tăng trưởng cao trong thời
gian dài, ổn đinh. Văn hoá-giáo dục được nâng cấp, đầu tư cơ sở một
cách thoả đáng.
Thự tế cho thấy sau 15 năm đổi mới dựa vào tiềm năng của đất
nước và sự trợ giúp của Khoa học-Công nghệ chúng ta đã đạt được
những thành tựu đáng kể.
Về kinh tế tổng sản lượng trong nước năm 2000 tăng gấp đôi so
với năm 1990. Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội và năng lực sản xuất tăng
nhiều. Nền kinh tế từ tình trạng hàng hố khan hiếm nghiêm trọng nay
đã sản xuất đáp ứng nhu cầu thiết yếu của nhân dân. Nền kinh tế từ cơ
chế tập trung quan liêu, bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường định
huqướng XHCN. Đời sống của nhân dân dần được cải thiện. Đất nước
đã ra khỏi khủng hoanmgr kinh tế-xã hội, vượt qua được cơn chấn động

chính trị và sự hụt hẫng về thị trường. kinh tế tăng trưởng tương đối cao:
Tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân 7% trong một năm; giá trị
nơng -lâm-ngư ngiệp tăng bình qn 5,7%/ năm. trong đó: Nơng nghiệp
tăng 5,6%, lâm nghiệp 0,4% và ngư nghiệp tăng 8,9%. Công nghiệp đã
đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Nhịp độ tăng giá trị sản xuất hàng
năm 13,5%. Dầu tư sản xuất ra sản phẩm có triều sâu, đáp ứng được nhu
cầu trong nước và xuất khẩu. dịch vụ phát triển vứi giá trị trung bình là
6,8%/ năm. Lạm phát giảm đáng kể: Năm 1986 là 587,2% thì năm 1990
chỉ cịn 52,8%.
Về chính trị xã hội nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn trong


giai đoạn 1996-2000 đã có đóng góp tích cực trong phát triển lí luận và
tổng kết thực tiễn xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thế kỷ
20. Nhờ kết quả nghiên cứu đã đóng góp cho quá trình chuẩn bị các văn
kiện hội nghị trung ương khố VIII, xây dựng chiến lược phát triển kinh
tế xã hội những năm sau và đonmgs góp cho việc chenr bị văn kiện Đại
hội IX vừa qua. Khoa học xã hội cịn đóng góp quan trọng và việc xây
dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật, ban hành các văn bản dưới luật,
các chính sách và hiệp định quốc tế, trong đó có hiệp định thương mại
Việt-Mỹ, khoa học xã hội còn hướng vào giải quyết nhiều vấn đề cụ thể
bức xúc trong thực tiễn phát triển kinh tế xã hội như: Vấn đề tồn cầu
hố, quốc tế hố, cơng nghiệp hố-hiện đại hố... Các vấn đề tơn giáo,
phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Do
vậy văn hoá phát triển lành mạnh với phương châm " Hồ nhập nhưng
khơng hồ tan ". Bên cạnh việc tiếp thu văn hoá thế giới chúng ta khơng
qn giữ gìn và phát huy nền văn hố đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam.
Giáo dục ngày càng được chú trọng. Các quốc gia phát triển đã rút ra
một điểm quan trọng là: Giáo dục là con đường ngắn nhất để phát triển
để tiến tới nền kinh tế trí thức hay cịn gọi là nền kinh tế chất xám. ở

Việt Nam từ năm 1997 đến nay, nhân lực Khoa học-Công nghệ cả nước
đã tăng 1,5 lần. Cán bộ Khoa học-Cơng nghệ có trình độ đại học đạt xấp
xỉ 1,3 triệu và hàng năm bổ xung thêm khoảng 180 nghìn người. Cán bộ
có trình độ tiến sĩ đã tăng lên gần 13 nghìn vào năm 2000. Trình độ,
năng lực cán bộ trong một số lĩnh vực như nông nghiệp, xây dựng, giao


thơng vận tải, cơng trình điện, bưu chính viễn thơng, thăm dị và khai
thác dầu khí đạt mức trung bình tiên tiến trong khu vực. Bắt đầu từ năm
2000 chính phủ đã bố trí khoản ngân sách riêng để hàng năm chủ động
gửi sinh viên cán bộ Khoa học-Công nghệ có năng lực đi đào tạo dài hạn
tại các nước có nền Khoa học tiên tiến.
Khoa học-Cơng nghệ đã có khả năng làm chủ và thích nghi nhiều
cơng nghệ tiên tiến của nước ngoài trong các lĩnh vực như viễn thơng,
khai thác dầu khí, năng lượng...Nhiều vấn đề cấp bách, có ý nghĩa quan
trọng đối với đất nước do thực tiễn đặt ra được các lực lượng Khoa họcCông nghệ nghiên cứu và giải quyết như: Cơ sở khoa học cho các
phương án phòng chống thiên tai, các phương pháp sản xuất Vacxin
phòng bệnh...
Rõ ràng, quan niệm về vai trò nền tảng và động lức phát triển của
Khoa học - Cơng nghệ đối với sự phát triển vừa có cơ sở thực tiễn trong
nước vừa hợp với xu thế phát triển chung của thế giới, khi lợi thế tương
đối của các yếu tố lao động rẻ và tài nguyên thiên nhiên đang chuyển
dần sang các yếu tố tri thức Khoa học - Công nghệ.
2.2. Những yếu kém và hạn chế của Khoa học-Công nghệ ở nước
ta hiện nay.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được hoạt động Khoa học-Công
nghệ ở nước ta cũng còn nhiều hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu của
sự phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn đẩy mạnh cơng nghiệp hố hiện đại hố đất nước và chưa thực sự đóng vai trị động lực- nền tảng



cho phát triển. Sau đây là một số biểu hiện:
- Tiềm lực Khoa học-Cơng nghệ vẫn cịn ở mức thấp so với thế
giới và khu vực chưa đáp ứng được đòi hỏi của nhu câù phát triển. Tỉ lệ
cán bộ Khoa học - Công nghệ trên tổng số dân chưa cao so với các nước
trong khu vực và trên thế giới. Đặc biệt, còn thiếu rất nhiều chuyên gia
đầu ngành, việc đào tạo và đào tạo lại tiến hành chậm, nguy cơ hụt hẫng
trong đội ngũ rất lớn, nhất là trong những ngành mũi nhọn như công
nghệ tin học, sinh học, cơ khí, chế tạo máy. Việc xếp loại các cơ quan
Khoa học-Cơng nghệ cịn lúng túng, việc sử dụng đội ngũ trí thức cịn
lãng phí cơ sở vật chất, trang thiết bị cho nghiên cứu khoa học còn thấp
xa so với nhu cầu thực tiễn.
- Cơ chế quản lí kinh tế chưa thực sự gắn kết các hoạt động Khoa
học-Công nghệ với kinh tế xã hội, tạo động lực thực sự và nguồn lực dồi
dào cho hoạt động Khoa học-Cơng nghệ phát triển.
- Cơ chế quản lí Khoa học-Cơng nghệ chậm và chưa được đổi mới
một cách căn bản mặc dù tư tưởng đổi mới cơ chế quản lí đã xuất hiện từ
rất sớm. Chưa có sự liên thơng giữa cơ chế quản lí kinh tế và cơ chế
quản lí Khoa học - Cơng nghệ. Chưa đảm bảo được quyền lợi vật chất và
tôn vinh xứng đáng đối với các nhà khoa học có cống hiến lớn. Cơ chế
hình thành, quản lí, đánh giá các đề tài Khoa học-Cơng nghệ vẫn cịn
nhiều khó khăn để có thể chuyển đổi theo tinh thần đổi mới của luật
Khoa học-Công nghệ.
- Thị trường Khoa học-Cơng nghệ cịn manh nha chưa phát triển.


Mặc dù giá trị các hợp đồng kí kết giữa các cơ quan Khoa học-Công
nghệ với các tổ chức kinh tế xã hội, giữa trong nước và nước ngoài đang
tăng lên nhưng vẫn chưa xứng đáng với tiềm năng.
2.3. Vận dụng vào học tập nghiên cứu của sinh viên
Để trở thành SINH VIÊN có tri thức tốt khơng phải ngày một

ngày hai, mà cần một quá trình dài, cần sự quyết tâm cao, có
được tri thức cho bản thân là một lợi thế tốt để mọi người có
nhiều cơ hội trong cuộc sống tốt đẹp, lợi thế đi kèm có kết quả,
phải biết vận dựng lợi thế đó như thế nào là đúng là chính xác
thì khó khăn đối với thế hệ trẻ cũng như cha mẹ càng nâng cao.
Tiêu chí để trở thành con người tri thức là quan trọng, các bạn
nhìn vào đó để rèn luyện bản thân mình hơn và phụ huynh nhìn
vào tiêu chí đó để đánh giá con em mình khi có những suy nghĩ
trưởng thành và có sự tiến bộ cao.
+ Người có tri thức trước tiên là người biết được xã hội cần gì,
bản thân hồn cảnh của mình đáp ứng được bao nhiêu, sự nhìn
nhận vấn đề thực tế giúp các bạn hồn thành cơng việc một
cách nhanh hơn, con số, số liệu thực tế là những gì người ta
nhìn vào đó biết mình nên thay đổi gì, bổ sung gì để kết quả tốt
nhất.
+ Khi biết được bản thân muốn gì thì mọi người cần đặt ra
những mục tiêu cụ thể, đặt ra rồi thì phải bắt tay vào hành
động, thời gian không đợi chờ ai, khi bạn nghỉ ngơi là bạn mất
một khoảng thời gian dài lãng phí của mình trong khi mọi người
đang học tập hay làm việc miệt mà, tri thức con người là rộng
lớn, không ai quan tâm bạn lĩnh hội nó như thế nào, họ chỉ quan
tâm kết quả mọi người mang lại ra sao. Do đó, hành động và
đứng dậy thực hiện mục tiêu là cần thiết, dám hành động, dám
theo đam mê, theo sở thích là lúc các bạn đứng lại đấu tranh
cho quyền lợi bản thân, chứng tỏ tri thức của bản thân.
+ Tiêu chí về sức khỏe, nghị lực cũng quan trọng trong việc
phát triển tri thức của con người, sức khỏe tốt mọi người có thể


làm việc và cống hiến công sức vào công việc gì hay làm gì mà

mình muốn, đặc biệt góp phần trong việc học tập tri thức là
quan trọng. Nghị lực, lịng quyết tâm, sự kiên nhẫn, chịu khó là
điều cần có đối với mỗi người cơng dân, đặc biệt đối với các bạn
trẻ, khi học tập là nghĩa vụ mà các bạn phải hoàn thành và thực
hiện. Rèn luyện cho bản thân những kỹ năng thấu hiểu, cảm
thông, cảm nhận những vấn đề cũng là nền tảng phát triển về
tri thức cho các bạn trẻ.
+ Để con người có tri thức tốt thì việc điều chính về hành động
của bản thân là cần thiết, tri thức trong văn hóa ứng xử, giao
tiếp cũng như truyền đạt kiến thức cần có ở những con người có
tri thức chuyên sâu. Điều chỉnh hành động ở đây được hiểu là
bạn cần phải hoàn thiện được việc làm sai của bản thân một
cách chủ động, tự giác. Khơng ai là hồn hảo về mọi thứ, và
bạn khơng có trách nhiệm với bản thân khi bắt buộc các bạn
làm những điều vượt khỏi khả năng, vượt khỏi sự kiểm soát,
cuộc sống là sự ganh đua, người kém cỏi phải chấp nhận tụt lùi
phía sau, thay đổi bản thân là lúc mở ra cho mình con đường
mới tươi sáng hơn. Có bao giờ các bạn tự hỏi và tự trả lời rằng :
tại sao có người giàu, người nghèo, người hạnh phúc vui vẻ lại
có người hay than vãn, người có cơng việc ổn định, người lại
ngồi chơi tìm việc khơng. Khi các bạn tự ý thức được câu trả lời
trong việc tự hỏi bản thân thì các bạn đang dần trau dồi cho
bản thân về tri thức cuộc sống. Cần có sự nhìn nhận sâu rộng
trong các lĩnh vực của đời sống để phát triển bản thân hơn.

Kết luận
Vật chất và ý thức ta thấy rằng chúng cũng có tính độc lâp và tác
động qua lại với nhau.Nếu ta áp dụng những tri thức khoa học để cải
biến thế giới nó sẽ cho ta những kết quả như ý muốn, những tri thức sai
lầm luôn đưa ta đến thất bại.Vai trò của tri thức khoa học ngày càng

quan trọng. Đứng trước thế kỉ 21 - thế kỉ có nhiều biến đổi sâu sắc và


phổ biến trên tất cả các lĩnh vực của đồi sống xã hội trên phạm vi toàn
thế giới. Đây là thử thách đồng thời là thời cơ nghiệt ngã cho tất cả các
quốc gia, dân tộc trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Cả thế giới đang
dần tiến tới xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức. Nhờ áp dụng các
kỹ thuật Khoa học-Công nghệ của thế giới mà chúng ta có thể đi thẳng
tới nền kinh tế tri thức mà không qua kinh tế công nghiệp. Đó là sự lựa
chọn hợp lí và đúng đắn. Vấn đề là phải hiểu biết và vận dụng nó để đưa
tri thức khoa học vào tất cả các lĩnh vực hoạt động chứ không phải xây
dựng nền kinh tế tri thức riêng biệt cho một khu vực nào đó. Kinh tế tri
thức theo cách hiểu nào đó là của mọi người, nó phải được thẩm thấu
vào trong mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế và xã hội. Đất nước Việt Nam
đã đi qua chiến tranh thắng lợi rất vẻ vang, vậy tại sao chúng ta không
thể chiến thắng trong việc xây dựng và phát triển đất nước? Nhất định
chúng ta sẽ làm được và làm tốt bởi mang trong mình sức mạnh đồn kết
dân tộc và bản tính thơng minh lao động sáng tạo của con người Việt
Nam. Những thắng lợi bước đầu của công cuộc đổi mới đã cho thấy rõ
điều đó. Và bây giờ nhiệm vụ của chúng ta là:
Tìm hiểu những tri thức mới, cập nhật và làm chủ những tiến bộ
khoa học của loài người
tài liệu tham khảo
1. Giáo trình triết học Mac-Lênin (Tập 2 )
Nhà xuất bản chính trị quốc gia


2. Lí luận chính trị
Số 11( 2001)
Tạp chí nghiên cứu của học viện chính trị quốc gia

HCM
3. Sinh hoạt lí luận
Số 4( 47- 2001)
Học viện chính trị quốc gia HCM- phân viện Đà
Nẵng.
4. Tạp chí cộng sản
Số 3( 2- 1999 )
5. Tạp chí cộng sản
Số 10( 5-2001 )
6. Tạp chí cộng sản
Số 13( 7-2001 )
7. Tạp chí cộng sản
Số 19( 10-2001 )



×