Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tài liệu Những cấm kị trong ngày tết, ngày lễ ở Trung Quốc docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.84 KB, 7 trang )

Những cấm kị trong ngày tết, ngày lễ ở Trung Quốc


Dân gian cho ngày lập xuân là ngày đầu của một năm canh nông, vì vậy mà
có tập tục bói ngày này xem được mùa hay mất mùa. Tục cho rằng, ngày lập
xuân thì nên nắng chứ không nên mưa. Trời nắng thì có điềm là được mùa,
còn trời âm u thì báo điềm thiên tai. Ở vùng Sơn Đông, tục cho rằng, nếu
ngày lập xuân mà trời âm u thì sâu mọt sẽ làm hại lúa đậu. Ở khu vực Thái
Dương, người ta còn kỵ không được khấy nước và không được đào bới tro,
vì cho rằng, khuấy nước thì sẽ khiến cho tinh thần trong năm đó sẽ không
được phấn chấn, lúc nào cũng ngủ gà ngủ gật; không đào bới tro, vì như thế
tức là đào bỏ đi tất cả sự may mắn trong cả một năm.

Dân gian cho rằng, ngày kinh trập (tức là mùng năm hoặc mùng sáu tháng
ba) là thời khắc bắt đầu có sấm. Nếu ngày kinh trập và những ngày sau ngày
kinh trập mà nghe thấy tiếng sấm thì đó là điều bình thường, năm đó tốt, gió
thuận mưa hòa, ngũ cốc đầy bồ. Tục ngữ nói: “Sấm đánh kinh trập thóc lúa
rẻ”. Vì vậy, trước ngày kinh trập thì người ta kỵ nghe thấy tiếng sấm.

Ở vùng Sơn Đông, vào tiết xuân phân thì kỵ trời nắng. Dân gian thường
trồng cây vào ngày xuân phân, nếu ngày ấy trời sáng tỏ thì mọi việc không
thành. Vào tiết xuân phân, người Dư cấm không được khều phân, cấm mang
quần áo đến bên sông giặt giũ, và cũng cấm không được phơi đồ.

Trong dân gian, người Hán có tập tục trồng liễu vào ngày thanh minh. Vào
tiết thanh minh, người đi quét mộ cần phải cúng bái tổ tiên, và cũng phải
phòng sự quấy nhiễu của quỷ sùng. Vì trong dân gian, người ta tin rằng cây
liễu có pháp lực dùng để khu tà đuổi ma một cách có hiệu quả, vì vậy mà
người ta mới cắm liễu trên đất hay mang liễu bên mình nhằm để đề phòng
bất trắc. Do thanh minh là vào ngày tết hàn thực, nên trước đây, dân gian
không động đến bếp lò, kỵ ăn đồ nóng. Nếu không, sẽ bị thần phạt tội. Ngạn


ngữ có câu: “Thanh minh không ăn đồ nguội, mưa đá rơi đầy trên đất”.
Người vùng Sơn Đông còn có tập tục những người phụ nữ trẻ tuổi đi tránh
thanh minh, vì nghe rằng, vào ngày này thì hung thần sẽ hạ phàm và bắt các
cô gái xinh đẹp. Vào ngày này, phụ nữ kỵ không được thêu thùa, may vá, tất
cả đều phải đi ra ngoài đạp thanh, chơi đùa trong tiết xuân.

Ngoài ra, trên mối quan hệ với việc canh nông, trong tiết thanh minh thì
người ta còn kỵ trời âm u, mưa rơi hoặc mạnh. Tục cho rằng, nếu thanh
minh mà trời không trong sáng thì đó là điềm triệu của một năm mất mùa.
Nếu trong tiết thanh minh mà có gió lùa, thì đó là điềm trời hạn; nếu thanh
minh mà trời đổ mưa, thì lúa mạch sẽ không được tốt.

Vào ngày lập hạ thì kỵ không có mưa. Ở các vùng Hà Nam, Quý Châu, Vân
Nam, người ta đều cho rằng, vào ngày lập hạ mà không có mưa thì đó là
điềm hạn hán. Ngạn ngữ có câu: “Lập hạ không mưa, thật không có gạo”.
Ngày lập hạ là ngày bắt đầu của mùa hạ, mà dân gian lại sợ cái nóng nực của
mùa hạ nên mới có tập tục cân trọng lượng cơ thể. Nghe nói rằng, sau khi
cân trọng lượng cơ thể vào ngày hôm ấy, thì sẽ không sợ cái nóng nực của
mà hạ nữa, và cũng sẽ không gầy ốm nữa. Nếu không, họ sẽ rất sợ cái nóng
ấy, khiến ăn cơm không ngon, và sẽ ốm o đến nỗi thành bệnh. Ở vùng Giang
Tây, người ta còn có tập tục uống trà vào ngày lập hạ, nếu như không uống
thì sẽ phải khổ cả mùa hè. Ở vùng Đông Đài Giang Tô, vào ngày lập hạ thì
cấm không được để trẻ em ngồi ở ngạch cửa, vì người ta bảo rằng “ngày lập
hạ ngồi trên ngạch cửa thì dễ ngủ gật”.

Tiết hạ chí là tiết khí quan trọng nhất đối với việc canh nông. Người ta cho
rằng, sự thay đổi xấu của ngày hạ chí sẽ ảnh hưởng rất lớn đối với việc làm
nông. Vì vậy mà vào ngày hạ chí, nhà nông có rất nhiều kiêng kỵ. Trong
“Thanh Gia Linh” có viết: “Hạ chí là thời khắc chuyển giao,…” cư dân có
rất nhiều kiêng kỵ như cấm nguyền rủa, kiêng hớt tóc…”, vào kỵ nhất là có

mưa có sấm vào ngày hạ chí. Ngạn ngữ nói: “Hạ chí có sấm thì tháng sáu
hạn, hạ chí có mưa thì ba tháng nóng”. Trước đây, nhà nông còn phân mười
lăm ngày từ hạ chí đến tiểu thử ra thành ba thời đoạn là thời đầu (thượng
thời), thời hai (trung thời) và thời cuối (hạ thời), gọi là tam thời, với cách
chia là ba ngày vào thời đầu, năm ngày vào thời hai và bảy ngày vào thời
cuối. Tục kỵ mưa vào thời hai và kỵ sấm vào thời cuối, vì sẽ ảnh hưởng đến
lượng thu hoạch. Vì vậy, tốt nhất là không nên mưa và không nên sấm vào
suốt khoảng thời gian từ của tiết hạ chí.

Lập thu cũng là một tiết khí lớn đối với nhà nông, dân gian rất xem trọng nó.
Thời xưa, người vùng Vân Nam cấm kỵ đi đứng giữa đồng vào ngày lập thu,
nếu không, người ta cho rằng sẽ gây bất lợi cho vụ thu hoạch mùa thu.
Những người có học thức thì thường dùng giấy đỏ viết lên câu cầu sự tốt
lành “hôm nay lập thu, trăm bệnh đều khỏi” để dán lên trên vách. Phụ nữ
cũng dùng vải đỏ để cắt thành hình quả hồ lô (bầu), đính lên phía sau quần
của trẻ để khu trừ bệnh tật. Ở vùng Thái Dương tỉnh Sơn Đông, cấm kỵ tắm
rửa vào ngày lập thu, nếu không, người ta cho rằng trên người sẽ mọc rôm
sảy. Ở Hoàng Huyện, người ta cho rằng nếu tắm vào ngày lập thu thì sau khi
qua ngày lập thu sẽ bị tiêu chảy. Ở vùng Hà Nam, Giang Tô, Hồ Bắc, vào
ngày lập xuân còn kỵ sấm, mưa, gió. Tục có câu: “Trước thu gió bắc sau thu
mưa, sau thu gió bắc khô tận đáy”
.
Tiết lập đông báo hiệu một mùa đông đã đến. Trong dân gian, người ta kỵ
không được ăn đồ nguội lạnh, như củ cải, trái cây. Nếu không, sẽ gây tổn
thường đến sức khỏe. Ngày lập đông cũng kỵ không có mưa, ngạn ngữ có
câu: “Tiết Trùng Dương mà không mưa thì lập đông nắng, tiết lập đông
không mưa thì nắng cả năm”.

Mùng một tháng giêng, tục gọi là “mùng một của năm”, “đầu năm”,
“nguyên đán” v.v, ở đây có nghĩa là ngày thứ nhất trong năm, vì vậy mà dân

gian rất xem trọng ngày này. Những cấm kỵ phát sinh trong ngày này là rất
nhiều. Ví dụ như tộc người Choang, vào mùng một tháng giêng thì phải thức
dậy lúc trời vừa sớm, nam thì đọc sách ngâm thơ, nữ thì tưới nước thêu hoa,
sau khi thức dậy rồi thì không được ngủ lại, cho rằng, nếu ngủ lại thì sẽ
khiến cho căn cơ ruộng đất, tường nhà bị sụp đổ; vào mùng một không được
sát sinh, cũng không được ăn thịt lợn. Vào ngày này, chủ yếu là ăn đồ ngọt,
như bánh trôi, bánh tét, cháo gạo…, hoặc là vào buổi chiều thì có thể ăn một
ít đồ mặn. Không được nói tục, vì cho rằng nếu ăn nói tục tĩu vào ngày này
thì cả năm sẽ rất hay nói tục, và cũng không được đánh mắng người khác,

×