Thời kì Bắc thuộc lần 4
Thời Bắc thuộc lần 4 hay thời thuộc Minh trong lịch sử Việt Nam bắt
đầu từ năm 1407 khi nhà Minh đánh bại nhà Hồ và chấm dứt năm 1427
khi Lê Lợi đánh đuổi được quân Minh ra khỏi bờ cõi, giành thắng lợi
hoàn toàn trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Thời kỳ thuộc Minh kéo dài
20 năm.
Nhà Minh xâm chiếm Đại Ngu
Cuối thế kỉ 14 nhà Trần sa sút, Hồ Quý Ly dần dần kiểm soát cả triều
đình, ra nhiều biện pháp thanh trừng những người trung thành với triều
Trần. Ông lên ngôi vua năm 1400, đặt tên nước là Đại Ngu, bắt đầu thực
hiện nhiều cải tổ trong hệ thống chính trị và xã hội. Tuy nhiên, do thực
hiện quá nhiều thay đổi trong thời gian ngắn, lại không được nhiều cựu
thần nhà Trần cũng như dân chúng ủng hộ, lại thêm tình hình kinh tế và
xã hội toàn quốc suy yếu vì nhiều nguyên nhân, nên đất nước rơi vào
khủng hoảng. Nhân cơ hội đó, năm 1406 nhà Minh ở Trung Quốc dùng
chiêu bài “phù Trần diệt Hồ” để mang quân sang xâm lược nước Đại
Ngu. Nhà Hồ nhanh chóng thất bại hoàn toàn vào giữa năm 1407. Nước
Đại Ngu bị tiêu diệt và bị sát nhập vào lãnh thổ Trung Quốc. Việt Nam bị
Trung Quốc đô hộ trở lại sau 500 năm độc lập tự chủ.
Tướng nhà Minh là Trương Phụ xui giục một số người Việt đến trước
quân doanh xin được trở lại làm quận huyện của nhà Minh vì nhà Trần đã
tuyệt tự
[1]
. Minh Thành Tổ nhân đó đổi gọi An Nam thành quận Giao Chỉ,
kinh đô Thăng Long trước đây đổi gọi là thành Đông Quan.
Bộ máy cai trị
Quận Giao Chỉ được thiết lập bộ máy cai trị giống như các đơn vị hành
chính của nhà Minh khi đó, gồm có 3 ty trực tiếp thuộc vào triều đình
Yên Kinh:
1. Đô chỉ huy sứ ty phụ trách quân chính
2. Thừa tuyên bố chính sứ ty phụ trách dân sự và tài chính
3. Đề hình án sát sứ ty phụ trách tư pháp
Các quan chánh, phó các ty đều là người phương bắc sang. Một số người
Việt được trọng dụng vì có công với nhà Minh như Nguyễn Huân, Mạc
Thúy, Lương Nhữ Hốt, Trần Phong, Đỗ Duy Trung…
Để duy trì bộ máy cai trị, năm 1407, nhà Minh thiết lập các vệ quân
(5.000 quân) bản xứ, gồm Tả, Hữu, Trung đóng trong thành Đông Quan,
Tiền quân đóng ở phía bắc sông Phú Lương, và các thiên hộ sở (1.000
quân), đóng đồn ở những nơi xung yếu, như Thị Cầu cần hai thiên hộ sở,
Ải Lưu một thiên hộ sở. Đặt tại Xương Giang một vệ, và Qiu-wen(?) một
vệ quân canh giữ. Trong đạo quân viễn chinh, 2.500 quân Quảng Tây,
4.750 quân Quảng Đông, 6.750 quân Hồ Quảng, 2.500 quân Triết Giang,
1.500 quân Giang Tây, 1.500 quân Phúc Kiến, hơn 4.000 quân Vân Nam
được lệnh ở lại. Việc bắt lính bản địa được xúc tiến để hỗ trợ quân Minh
đóng đồn giữ.
[2]
Dân số, hành chính
Năm 1408, nhà Minh kiểm soát được dân số 3.120.000 người, người
“man” 2.087.500 người thì sau 10 năm chỉ còn quản lý được 162.558 hộ
với 450.288 nhân khẩu
[3]
.
Cao Hùng Trưng, tác giả sách An Nam chí cho biết: Nhà Minh chia quận
Giao Chỉ làm 17 phủ là:
• Giao Châu
• Bắc Giang
• Lạng Giang
• Tam Giang
• Thái Nguyên
• Tuyên Hóa
• Kiến Bình
• Tân An
• Kiến Xương
• Phụng Hóa
• Thanh Hóa
• Trấn Man
• Lạng Sơn
• Tân Bình
• Nghệ An
• Thuận Hóa
• Thăng Hoa
Dưới 17 phủ là 47 châu, 154 huyện, 1 vệ, 13 sở, 1 thuyền chợ
[4]
.
Trong 17 phủ trên, phủ Thăng Hoa thực chất chỉ đặt khống vì khi quân
Minh tiến đến Hóa châu thì vua Chiêm Thành là Ba Đích Lại đã mang
quân chiếm lại những vùng đất phải nộp cho nhà Hồ trước đây (năm
1402) là 4 châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa. Do đó trên thực tế nhà Minh chỉ
cai quản Giao Chỉ gồm 16 phủ, địa giới phía nam chỉ đến Hóa châu
[5]
.
Năm 1408, Trương Phụ tâu về nhà Minh: Giao Chỉ đông tây dài 1760
dặm, nam bắc dài 2700 dặm.
Để tăng cường quản lý Giao Chỉ, năm 1419, theo đề nghị của Lý Bân, nhà
Minh tổ chức lại hệ thống xã thôn thành lý và giáp. Cứ 10 hộ thành 1 giáp
do Giáp trưởng đứng đầu; 110 hộ thành 1 lý do lý trưởng đứng đầu.
Tương đương với lý, tại nội thành gọi là phường, tại ngoại thành gọi là
sương.
Chức năng chính của Lý trưởng và Giáp trưởng là thu thuế cho chính
quyền đô hộ. Họ thường bị o ép và đánh đập nên khi được giao chức đều
rất lo sợ
[4]
.
Để đảm bảo giao thông liên lạc giữa các phủ, châu, huyện của Giao Chỉ
với Trung Quốc, năm 1415, nhà Minh cho mở đường thủy Vĩnh An, Vạn
Ninh, đặt trạm tiếp đón tận Khâm châu; đồng thời cho đặt trạm ngựa đến
thẳng phủ Hoành châu. Trên toàn địa bàn Giao Chỉ có 374 nhà trạm,
nhiều nhất là phủ Giao Châu có 51 nhà trạm.
Giáo dục
Năm 1407, khi mới chiếm được Giao Chỉ, nhà Minh sai lùng tìm người
tài năng, có sức khỏe, các thợ giỏi bắt mang về Trung Quốc. Kết quả bắt
được 7000 người về phục vụ cho triều đình nhà Minh. Nhiều người tài,
nghệ nhân của Đại Việt bị bắt đem sang Trung Hoa phục dịch cho Minh
triều, mà nổi bật nhất còn lưu lại trong sử sách nước này phải kể đến các
vị Hồ Nguyên Trừng, Nguyễn An...
Từ năm 1410, nhà Minh cho lập trường học ở các châu, phủ, huyện theo
quy chế của Trung Quốc. Đến năm 1417 có 161 trường học. Tuy mở
trường nhưng nhà Minh không tổ chức cho người Giao Chỉ thi mà chỉ để
lựa chọn các nho sinh có học vấn để sung vào lệ tuyển cống cho triều
đình hằng năm.
Những người hợp tác với quân Minh được đưa sang Trung Quốc để học
hành một thời gian rồi đưa về phục vụ trong bộ máy cai trị tại Giao Chỉ.
Điều đó nằm trong chính sách dùng người Việt trị người Việt của nhà
Minh.
Lao dịch và tô thuế
Năm 1407, sau khi đánh bại nhà Hồ, nhà Minh đã vơ vét mang về phương
bắc 235.900 con voi, ngựa, trâu bò; thóc gạo 13,6 triệu thạch, thuyền bè
8670 chiếc, binh khí hơn 2,5 triệu chiếc
[6]
.
Nhằm thực hiện nền thống trị lâu dài, nhà Minh không ngừng xây thành
lũy, cầu cống, đường xá. Hàng chục vạn dân đinh từ 16 đến 60 tuổi phải
ra các công trường với chế độ lao dịch cưỡng bức và sinh hoạt rất thiếu
thốn
[7]
.
Các công trường khai mỏ và mò ngọc trai cũng nhiều nhân công. Những
người thợ phải làm việc trong điều kiện khắc nghiệt, nguy hiểm đến tính
mạng.
Chính sách thuế khóa nhà Minh áp dụng với Giao Chỉ rất nặng nề, trong
đó có 2 ngạch chính là thuế ruộng đất và thuế công thương nghiệp
[8]
. Nhà
Minh cử nhiều hoạn quan sang Việt Nam để tiến hành thu thập thuế, cống
gửi về kinh đô, đồng thời vơ vét thêm chừng ấy nữa cho riêng mình.
[9]
.
Các viên quan này tham lam đến độ chính bản thân Hoàng đế nhà Minh
phải can thiệp vào việc chỉ định quan lại sang Giao Chỉ. Vua Minh Nhân
Tông phải bác việc Mã Kỳ tiếp tục muốn được bổ nhiệm quản lý việc thu
vàng, bạc, trầm hương, ngọc trai tại đây năm 1424.
Thuế ruộng
Do thường xuyên phải đối phó những cuộc chống đối của người Việt,
phạm vi kiểm soát ruộng đất của nhà Minh chỉ chủ yếu ở miền xung
quanh Đông Quan.
Từ năm 1407 – 1413, nhà Minh không có khả năng quản lý ruộng đất, số
ngạch khi tăng khi giảm không ổn định. Ruộng đất chỉ được trưng dụng
một phần để ban cấp cho các thổ quan người Việt thay cho lương. Để
cung ứng lương thực cho quân đội, nhà Minh không trông chờ vào nguồn
tô thuế ruộng mà phải cho lính mở đồn điền tự sản xuất hoặc dùng hình
thức trưng thu để vơ vét.
Năm 1414, sau khi dẹp xong nhà Hậu Trần, nhà Minh bắt dân Việt kê
khai số ruộng đất trồng rau, trưng thu lương thực, tơ tằm và bắt đầu định
ngạch thuế ruộng. Trên danh nghĩa thì lấy mức thu 5 thăng trên 1 mẫu
như thời nhà Hồ, nhưng bắt dân tự khai khống 1 mẫu thành 3 mẫu để thu
3 phần thuế. Do đó trên thực tế mức thu cao gấp 3 lần nhà Hồ
[10]
.
Thuế công thương nghiệp và thổ sản
Ngoài thuế ruộng, còn nhiều loại thuế thủ công nghiệp và thương mại.
Hàng loạt Ty Thuế khóa, Ty Hà bạc, Ty tuần kiểm được đặt ra để tận thu.
Để tăng cường khai thác tài nguyên, năm 1415 nhà Minh tiến hành khám
thu các mỏ vàng, mỏ bạc, mộ phu đãi vàng và mò trân châu. Năm 1418,
nhà Minh mở trường mò ngọc trai, tìm kiếm hương liệu; bắt người Việt
săn bắt những thú vật quý để nộp như rùa 9 đuôi, vượn bạc má, chồn
trắng, hươu trắng, voi trắng.
Đối với nghề nấu muối và bán muối, nhà Minh nắm quyền khai thác độc
quyền. Người đi đường chỉ được đem 3 bát muối và 1 lọ nước mắm.
Chính sách thuế khóa của nhà Minh làm người Việt kiệt quệ điêu đứng.
Việc làm sai dịch và nộp lương liên miên khiến năm 1418 từ Diễn châu
trở vào nam không được cày cấy
[11]
. Tuy nhà Minh thực hiện chính sách