Điện ảnh Nhật Bản
Điện ảnh Nhật Bản (tiếng Nhật:
映画
- Eiga) là nền nghệ thuật và công
nghiệp điện ảnh của Nhật Bản. Trong suốt hơn 100 năm qua kể từ ngày ra đời
(20/6/1899), điện ảnh Nhật Bản đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm nhưng vẫn
luôn có những tác phẩm đặc sắc và những thế mạnh riêng, trong đó phải kể tới các
bộ phim hoạt hình Nhật Bản, hay anime.
Lịch sử
Trước năm 1945
Hai bộ phim đầu tiên được làm tại Nhật Bản là Bake Jizo và Shinin no sosei,
đều được thực hiện năm 1898
[1]
. Bộ phim tài liệu đầu tiên, Geisha no teodori (
芸
者の手踊り
) được làm tháng 6 năm 1899.
Điểm khác biệt của các bộ phim câm Nhật Bản so với các nền điện ảnh
khác là bên cạnh đội ngũ tạo âm thanh và nhạc phim tại rạp chiếu, còn có sự xuất
hiện của các benshi (
弁士
), những người dẫn chuyện có nhiệm vụ đọc lời thoại và
các đoạn tường thuật cần thiết. Ngôi sao điện ảnh Nhật Bản đầu tiên là một diễn
viên kịch kabuki tên là Onoe Matsunosuke, ông này đã tham gia đóng hơn 1000
bộ phim (chủ yếu là phim ngắn) trong khoảng thời gian từ 1909 đến 1926. Onoe
và đạo diễn Makino Shozo là những người có công phổ biến thể loại jidaigeki
[2]
(những bộ phim lịch sử lấy bối cảnh Nhật Bản thời Edo) với công chúng Nhật. Nữ
diễn viên điện ảnh chuyên nghiệp đầu tiên của công nghiệp điện ảnh nước này là
Takagi Tokuko Nagai, bà đã xuất hiện trong 4 bộ phim của hãng phim do Hoa Kỳ
đầu tư Thanhouser Company thực hiện từ năm 1911 đến năm 1914
[3]
. Trong giai
đoạn này, có một số bộ phim câm đáng chú ý được sản xuất, đặc biệt là những tác
phẩm của đạo diễn Mizoguchi Kenji, tuy vậy đa số đã bị phá hủy trong Trận động
đất Kantō năm 1923 và sau đó là trong những cuộc không kích suốt Thế chiến thứ
hai của quân đội Đồng Minh xuống Nhật Bản.
Trong thập niên 1930, trong khi các bộ phim câm tiếp tục được sản xuất với
số lượng lớn thì các bộ phim có tiếng cũng bắt đầu xuất hiện. Các bộ phim có
tiếng đáng chú ý thời kì này là ba tác phẩm của Kenji Mizoguchi, Gion no shimai
(1936), Naniwa erejii (
浪華悲歌
, 1936) và Zangiku monogatari (
残菊物語
,,
1939). Ngoài ra còn có thể kể đến Ninjo kami fusen (
人情紙風船
, 1937) của đạo
diễn Yamanaka Sadao hay Tsuma Yo Bara No Yoni (1935) của Naruse Mikio, bộ
phim Nhật đầu tiên được phát hành rộng rãi tại Mỹ.
Cuối những năm 1930, sự kiểm soát của chính quyền đối với công nghiệp
điện ảnh càng bị siết chặt, các bộ phim bị kiểm duyệt kĩ lưỡng đặc biệt là các tác
phẩm có xu hướng thiên tả như phim của Daisuke Ito. Và Khi Thế chiến thứ hai
nổ ra thì ngành điện ảnh Nhật Bản lâm vào tình trạng hoạt động cầm chừng. Tuy
vậy đây lại là giai đoạn chứng kiến sự xuất hiện của một trong những nghệ sĩ điện
ảnh vĩ đại nhất của Nhật Bản, đạo diễn huyền thoại Kurosawa Akira, ông thực
hiện bộ phim đầu tay, Sanshiro Sugata vào năm 1943.
Thập niên 1950 và 1960
Thập niên 1950 chứng kiến giai đoạn phát triển đỉnh cao của điện ảnh Nhật
Bản với ba tác phẩm vào hàng kinh điển của điện ảnh thế giới, đó là Rashomon
(
羅生門
, 1950), Bảy Samurai (
七人の侍
,, 1954), cả hai đều do Kurosawa thực
hiện, và bộ phim của đạo diễn Ozu Yasujiro, Tokyo monogatari (
東京物語
, 1953).
Riêng Rashomon của Kurosawa Akira đã mang về cho Nhật Bản Giải Oscar cho
phim ngoại ngữ hay nhất đầu tiên và đem lại cho ngôi sao điện ảnh lớn của Nhật
sau này là Mifune Toshiro vai diễn đột phá. Trong thập niên này điện ảnh Nhật
Bản còn có hai giải Oscar phim nói tiếng nước ngoài khác, đó là Jigokumon (
地獄
門
, 1954) của đạo diễn Kinugasa Teinosuke và Miyamoto Musashi (
宮本
武蔵
,
1955) của đạo diễn Inagaki Hiroshi.
Năm 1954, đạo diễn Honda Ishirō giới thiệu bộ phim khoa học viễn tưởng
Gojira (
ゴジラ
), một tác phẩm có nội dung chống chiến tranh thông qua câu
chuyện của một con thú biến thành quái vật do vũ khí hạt nhân. Godzilla đã nhanh
chóng phổ biến ở các nước phương Tây và trở thành một biểu tượng quốc tế của
Nhật Bản, nó cũng mở đầu cho dòng phim rất đặc trưng của điện ảnh nước này,
dòng phim kaiju (phim quái vật).
Điện ảnh Nhật Bản tiếp tục có những bộ phim xuất sắc trong thập niên
1960, trong đó phải kể tới tác phẩm kinh điển Yojimbo (
用心棒
, 1961) của
Kurosawa Akira. Năm 1967 đạo diễn Suzuki Seijun thực hiện bộ phim siêu thực
về yakuza (các tổ chức tội phạm có tổ chức ở Nhật) có tên Koroshi no rakuin (
殺
しの烙印
), tuy không được đánh giá cao ở thời điểm ra đời nhưng về sau đây
được coi là bộ phim hình sự kinh điển, trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều đạo
diễn nổi tiếng như Ngô Vũ Sâm, Park Chan-wook hay Quentin Tarantino
[4]
.
Bên cạnh các bộ phim có đề tài quen thuộc, các đạo diễn thuộc thế hệ Làn
sóng mới Nhật Bản như Nagisa Oshima, Kaneto Shindo, Susumu Hani và Shohei
Imamura cũng cho ra đời các bộ phim có tính sáng tạo cao như Seishun Zankoku
Monogatari (
青春残酷物語
, 1960), Nihon no yoru to kiri (
日本の夜と霧
, 1960)
hay Koshikei (
絞死刑
, 1968).
Năm 1964 đạo diễn Teshigahara Hiroshi cho ra đời bộ phim đáng nhớ Suna
no onna (
砂の女
), tác phẩm này đã giành giải thưởng đặc biệt của ban giám khảo
(Prix du Jury) trong Liên hoan phim Cannes và giúp Teshigahara trở thành người
châu Á đầu tiên được đề cử giải Đạo diễn xuất sắc nhất tại Giải Oscar. Một bộ
phim Nhật Bản khác cũng giành giải thưởng của ban giám khảo trong Liên hoan
phim Cannes là Kaidan (
怪談
, 1965) của đạo diễn Kobayashi Masaki.
Thập niên 1970 và 1980
Một dòng điện ảnh mới, dòng phim pinku eiga (phim khiêu dâm loại nhẹ,
vẫn được coi là phim điện ảnh) bắt đầu phát triển ở Nhật từ đầu thập niên 1970,
đặc biệt là sau sự ra đời của bộ phim gây nhiều tranh cãi Ai no Korīda (
愛のコリ
ーダ
, 1976), một tác phẩm nói về vụ án Sada Abe gây tiếng vang trong xã hội
Nhật những năm trước chiến tranh. Bộ phim này tuy là được coi là phim điện ảnh
nhưng đã vượt qua giới hạn kiểm duyệt thông thường khi quay trực tiếp những
cảnh quan hệ tình dục thật của hai diễn viên, kết quả là phim phải thực hiện dưới
danh nghĩa do một công ty điện ảnh Pháp đầu tư và sau khi ra đời nó cũng chưa
bao giờ được chiếu bản đầy đủ ở chính Nhật Bản.
Trong thập niên này, đạo diễn Fukasaku Kinji cũng hoàn thành loạt phim
nổi tiếng về đề tài yakuza, Jingi naki tatakai (
仁義なき戦い
), loạt phim này đã
cực kì thành công về cả nghệ thuật và thương mại, chúng được coi là những phim
tội phạm kinh điển của điện ảnh Nhật Bản, hay "Bố già" Nhật Bản.
Vốn là đất nước hàng đầu thế giới về nghệ thuật truyện tranh, nhưng phải
chờ đến thập niên 1980 các bộ phim hoạt hình Nhật Bản (anime) mới bắt đầu gây
tiếng vang ở thị trường điện ảnh trong nước và thế giới. Năm 1984, đạo diễn phim
hoạt hình nổi tiếng Miyazaki Hayao thực hiện bộ phim Kaze no Tani no Naushika
(
風の谷のナウシカ
) năm 1984 mở đầu cho loạt phim hoạt hình nổi tiếng của ông
sau này. Thành công của Naushika được nối tiếp bằng bộ phim Akira (
アキラ
,
1988) của Otomo Katsuhiro, tác phẩm này đã đánh dấu bước tiến vượt bậc của
phim hoạt hình Nhật cả về kĩ thuật thực hiện và đề tài khi phản ánh các vấn đề xã
hội và thời sự đáng quan tâm lúc đó, Akira cho đến nay vẫn được coi là một trong
những tác phẩm xuất sắc nhất thể loại phim hoạt hình của điện ảnh thế giới
[5]
.
Cùng năm này, đạo diễn Takahata Isao cũng cho ra đời bộ phim hoạt hình phản
chiến nổi tiếng Mộ đom đóm (
火垂るの墓
), Mộ đom đóm được nhiều nhà phê
bình phim nổi tiếng, trong đó coi Roger Ebert coi là một trong những bộ phim
phản chiến hay nhất đã từng được thực hiện. Sự phát triển của phim hoạt hình
cũng dẫn đến sự phát triển của các Seiyū, các diễn viên lồng tiếng cho nhân vật
hoạt hình, nhiều người trong số này đã trở nên nổi tiếng hoặc trở thành diễn viên
thực sự như Ōtsuka Chikao.
Cũng trong những năm 1980, điện ảnh Nhật Bản đã tiếp tục truyền thống
thắng lợi tại các giải thưởng điện ảnh uy tín với 2 giải Cành cọ vàng tại Liên hoan
phim Cannes cho các phim Kagemusha (
影 武 者
, 1980) của Kurosawa và
Narayama bushiko (
楢山節考
, 1983) của Imamura Shohei. Shohei sau này còn
giành thêm một giải Cành cọ vàng khác cho bộ phim Unagi (
うなぎ
, 1997) và là
1 trong số ít ỏi 4 đạo diễn từng có 2 phim chiến thắng tại hạng mục quan trọng
nhất ở Liên hoan phim Cannes (cùng Francis Ford Coppola, Alf Sjöberg và Bille
August).
[sửa] Thập niên 1990 đến nay
Kitano Takeshi có lẽ là một trong những nghệ sĩ điện ảnh nổi bật nhất thập
niên 1990 của công nghiệp điện ảnh Nhật. Ông vừa là đạo diễn sáng tạo, vừa là
diễn viên chính có lối diễn xuất độc đáo trong các bộ phim đáng nhớ như Sono
otoko, kyōbō ni tsuki (
その男、凶暴につき
, 1989), Sonachine (
ソナチネ
,, 1993)
hay Hana-bi (
花
-
火
, 1997, giành giải Sư tử vàng tại Liên hoan phim Venezia).
Kitano còn tham gia đóng vai chính trong bộ phim Batoru Rowaiaru (
バトル・ロ
ワイアル
, 2000) của Fukasaku Kinji. Là câu chuyện về một lớp học bị bắt lên đảo
hoang và buộc phải tự tiêu diệt nhau để sinh tồn, bộ phim rất được yêu thích ở
Nhật Bản và nhiều nước vì cốt truyện, nhạc phim và diễn xuất của các nhân vật