Tải bản đầy đủ (.doc) (141 trang)

Hoàn thiện kế toán CPSX và tính GTSP tại các doanh nghiệp sản xuất dược phẩm thuộc khu vực miền Bắc (2008)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (635.94 KB, 141 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới,
trong quá trình đó cơ hội mở ra rất nhiều nhưng thách thức cũng không hề ít đòi
hỏi các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải nắm bắt được thời cơ,
vượt qua khó khăn thử thách để tồn tại và phát triển. Để có thể thực hiện được
điều đó thì hệ thống thông tin kịp thời, chính xác và có hiệu quả là một trong
những yêu cầu bắt buộc.
Ngành dược phẩm là một ngành sản xuất kinh doanh đặc thù trong nền
kinh tế quốc dân vói những sản phẩm phục vụ chủ yếu cho đông đảo quần
chúng nhân dân. Chính vì vậy nó có ảnh hưởng xã hội rất rộng lớn. Trong xu
hướng hội nhập và mở cửa hiện nay, các doanh nghiệp sản xuất dược phẩm có
rất nhiều cơ hội để đầu tư mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, liên doanh liên
kết trong và ngoài nước để sản xuất những sản phẩm có chất lượng tốt, hợp túi
tiền đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng, hạn chế nhập khẩu và tiến tới xuất khẩu.
Tuy nhiên, ngành dược phẩm cũng gặp không ít những khó khăn, nhất là trong
việc giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm cũng như nghiên cứu sản xuất
các loại dược phẩm đặc trị mà lâu nay Việt Nam vẫn phải nhập khẩu từ nước
ngoài. Để khắc phục khó khăn, bên cạnh việc không ngừng hoàn thiện công tác
tổ chức sản xuất, đầu tư thêm trang thiết bị công nghệ, mua quyền sáng chế thì
việc tăng cường công tác quản lý là yêu cầu thật sự bức xúc và cần thiết hiện
nay trong ngành dược phẩm.
Quản lý chặt chẽ, sử dụng tiết kiệm chí phí sản xuất, góp phần hạ giá
thành sản phẩm là những biện pháp cơ bản giúp doanh nghiệp nâng cao lợi
nhuận, giúp đưa sản phẩm đến tay đông đảo người tiêu dùng. Là điều kiện cần
và đủ để doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Kế toán là một bộ phận cấu thành
quan trọng của hệ thống công cụ quản lý kinh tế tài chính, có vai trò tích cực
1
trong việc quản lý điều hành và kiểm soát các hoạt động kinh tế. Với tư cách là
công cụ quản lý kinh tế, tài chính - kế toán là một lĩnh vực gắn liền với hoạt
động kinh tế, tài chính đảm nhiệm hệ thống tổ chức thông tin có ích cho các


quyết định kinh tế đặc biệt là thông tin về chi phí và giá thành sản phẩm.
Tuy nhiên, xuất phát từ thực tế hạch toán tại các doanh nghiệp Việt Nam
nói chung, các doanh nghiệp dược phẩm nói riêng cho thấy kế toán, đặc biệt là
kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm chưa bám sát vào tình hình
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Do đó việc chọn đề tài luận văn “Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm tại các doanh nghiệp sản xuất dược phẩm thuộc khu
vực miền Bắc” để nghiên cứu có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận lẫn thực tiễn,
có tính khả thi.
2. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Trình bày một cách có hệ thống và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ
bản áp dụng trong kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại các
doanh nghiệp sản xuất công nghiệp.
Nghiên cứu thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm tại các doanh nghiệp sản xuất dược phẩm thuộc khu vực miền Bắc.
Trên cơ sở lý luận và thực tế khảo sát tại các doanh nghiệp sản xuất dược
phẩm thuộc khu vực miền Bắc để đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện kế
toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại các doanh nghiệp sản xuất
dược phẩm thuộc khu vực miền Bắc.
3. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu của đề tài, đối tượng nghiên cứu của
luận văn là kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành của ngành sản xuất công
nghiệp, trong đó đi sâu nghiên cứu quy trình tập hợp chi phí sản xuất, phương
pháp phân bổ chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm từ đó hoàn thiện kế toán
2
chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại các doanh nghiệp sản xuất dược
phẩm thuộc khu vực miền Bắc.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào nghiên cứu thực trạng kế
toán chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm các loại dược phẩm tại các doanh

nghiệp sản xuất dược phẩm thuộc khu vực miền Bắc; cụ thể, đề tài nghiên cứu
thực trạng tại 3 doanh nghiệp điển hình là:
- Công ty Cổ phần Dược phẩm Hà Nội
- Công ty Cổ phần Dược phẩm Hà Tây
- Công ty Cổ phần Dược TW Mediplantex
Nguồn tài liệu được sử dụng là các thông tin và số liệu thực tế đã khảo sát
tại các doanh nghiệp sản xuất dược phẩm thuộc khu vực miền Bắc trong những
năm gần đây làm luận cứ để hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử cùng với
các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lê Nin, luận văn nghiên cứu, phân
tích, các vấn đề lý luận và thực tiễn một cách khoa học và lôgíc.
Phần trình bày trong luận văn được kết hợp diễn giải với quy nạp, giữa
lời văn và bảng biểu, sơ đồ minh hoạ.
6. Những đóng góp của luận văn
Hệ thống hoá những vấn đề lý luận chung về kế toán chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm tại các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp.
Trình bày và đánh giá thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm dược phẩm từ đó nêu rõ những kết quả và tồn tại cần tiếp tục
hoàn thiện.
3
Đề xuất các biện pháp nhằm hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm dược phẩm.
7. Tên và kết cấu của luận văn
Tên: "Hoµn thiÖn kÕ to¸n chi phÝ s¶n xuÊt vµ tÝnh gi¸ thµnh s¶n phÈm
t¹i c¸c doanh nghiÖp s¶n xuÊt dîc phÈm thuéc khu vùc miÒn B¾c"
Kết cấu:
Chương I: Cơ sở lý luận về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm tại các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp

Chương II: Thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm tại các doanh nghiệp sản xuất dược phẩm thuộc khu vực miền Bắc
Chương III: Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm tại các doanh nghiệp sản xuất dược phẩm thuộc khu vực miền Bắc
4
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT
VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TẠI CÁC DOANH NGHIỆP
SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP
1.1 Chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm tại các doanh nghiệp sản xuất
công nghiệp
1.1.1 Chi phí sản xuất
1.1.1.1 Bản chất của chi phí sản xuất
Sự phát sinh và phát triển của xã hội loài người gắn liền với quá trình sản
xuất. Nền sản xuất xã hội của bất kỳ phương thức sản xuất nào cũng gắn liền
với sự vận động và tiêu hao của các yếu tố cơ bản tạo nên quá trình sản xuất.
Nói cách khác quá trình sản xuất hàng hoá là quá trình kết hợp của ba yếu tố:
Tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Đồng thời quá trình sản
xuất cũng là quá trình tiêu hao các yếu tố trên. Sự tham gia của các yếu tố đó
vào quá trình sản xuất của doanh nghiệp có sự khác nhau và hình thành khoản
chi phí tương ứng. Để tạo ra sản phẩm, lao vụ dịch vụ thì các doanh nghiệp phải
chi ra các khoản chi phí chủ yếu đó là: Hao phí về lao động vật hoá như: chi phí
nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, khấu hao tài sản cố định....Và hao phí lao
động sống cần thiết như: chí phí về tiền lương, tiền công phải trả cho người lao
động, các khoản tính theo lương....Đó chính là chi phí sản xuất kinh doanh trong
quá trình hoạt động của các doanh nghiệp.
Như vậy chi phí có thể hiểu một cách trìu tượng là biểu hiện bằng tiền
của những hao phí về lao động sống và lao động vật hoá phát sinh trong quá
trình hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc chi phí là những phí tổn về nguồn lực,
tài sản cụ thể sử dụng trong hợp đồng sản xuất kinh doanh. Những nhận thức về

chi phí có thể khác nhau về quan điểm, hình thức thể hiện nhưng tất cả đều thừa
nhận một vấn đề chung: chi phí là phí tổn về tài nguyên, vật chất, lao động và
5
phải phát sinh gắn liền với mục đích kinh doanh. Hay nói cách khác, bản chất
của chi phí sản xuất là sự dịch chuyển vốn - chuyển dịch giá trị của các yếu tố
sản xuất vào các đối tượng tính giá (sản phẩm, lao vụ, dịch vụ)
Dưới góc độ kế toán tài chính, chi phí sản xuất được nhận thức như
những khoản phí tổn thực tế phát sinh gắn liền với hoạt động của doanh nghiệp
để sản xuất sản phẩm. Trong lĩnh vực kế toán tài chính, chi phí được đặt trong
mối quan hệ với tài sản, vốn sở hữu của doanh nghiệp và thường phải đảm bảo
bởi những chứng cứ nhất định (chứng từ) chứng minh là phí tổn thực tế trong
hoạt động sản xuất kinh doanh.
Dưới góc độ kế toán quản trị, chi phí có thể là những phí tổn thực tế phát
sinh trong một hợp đồng sản xuất kinh doanh, những phí tổn mất đi do chọn lựa
phương án, hy sinh cơ hội kinh doanh… Như vậy, trong kế toán quản trị khi
xem xét chi phí cần chú ý đến sự lựa chọn so sánh theo mục đích sử dụng, ra
quyết định kinh doanh hơn là chú trọng vào chứng cứ.
1.1.1.2 Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh
Khi xét về nội dung, tính chất, công dụng, vai trò, vị trí .. của chi phí
trong quá trình kinh doanh, chi phí có rất nhiều loại khác nhau. Để tạo điều kiện
thuận lợi cho công tác quản lý và hạch toán chi phí, cần phải phân loại chi phí
hay sắp xếp các loại chi phí khác nhau vào từng nhóm theo đặc trưng nhất định.
Trên thực tế, có rất nhiều cách phân loại khác nhau, tuy nhiên, lựa chọn tiêu
thức phân loại nào là phải dựa vào yêu cầu của công tác quản lý và hạch toán.
Sau đây, ta xem xét một số cách phân loại chi phí sản xuất kinh doanh
chủ yếu:
* Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố chi phí (theo tính chất, nội
dung kinh tế của chi phí)
Đây là cách phân loại dựa vào nội dung kinh tế của chi phí. Về thực chất
chủ yếu có ba yếu tố chi phí là chi phí về sức lao động, chi phí về đối tượng lao

6
động và chi phí về tư liệu lao động. Tuy nhiên để cung cấp thông tin về chi phí
một cách cụ thể hơn nhằm phục vụ cho việc xây dựng và phân tích định mức
vốn lưu động, việc lập, kiểm tra và phân tích dự toán chi phí, các yếu tố chi phí
trên có thể được chi tiết hoá theo nội dung kinh tế cụ thể của chúng. Theo cách
phân loại này thì chi phí được chia làm bảy yếu tố:
+ Yếu tố nguyên vật liệu: Bao gồm toàn bộ giá trị nguyên vật liệu chính,
vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ, dụng cụ,…sử dụng vào sản xuất - kinh
doanh (loại trừ giá trị vật liệu dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi).
+ Yếu tố nhiên liệu, động lực sử dụng vào quá trình sản xuất - kinh doanh
trong kỳ.
+ Yếu tố tiền lương và các khoản phụ cấp lương: phản ánh tổng số tiền
lương và phụ cấp mang tính chất lương phải trả cho người lao động
+ Yếu tố BHXH, BHYT, KPCĐ tính theo tỷ lệ qui định trên tổng số tiền
lương và phụ cấp lương phải trả cho người lao động
+ Yếu tố khấu hao tài sản cố định: phản ánh tổng số khấu hao tài sản cố
định phải trích trong kỳ của tất cả tài sản cố định sử dụng cho sản xuất kinh
doanh trong kỳ.
+ Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài: phản ánh toàn bộ dịch vụ mua ngoài
dùng vào sản xuất kinh doanh.
+ Yếu tố chi phí khác bằng tiền: phản ánh toàn bộ chi phí khác bằng tiền
chưa phản ánh vào các yếu tố trên dùng vào việc sản xuất kinh doanh trong kỳ.
Tác dụng trực tiếp của cách phân loại này là để tập hợp chi phí theo nội
dung kinh tế ban đầu đồng nhất của chi phí mà không xét đến công dụng địa
điểm phát sinh của chi phí. Ngoài ra, cách phân loại này có ý nghĩa rất lớn trong
quản lý chi phí sản xuất, nó cho biết tỷ trọng từng yếu tố chi phí sản xuất qua đó
đánh giá, phân tích tình hình thực hiện dự toán chi phí sản xuất, cung cấp tài
liệu cho việc lập dự toán chi phí sản xuất. Tuy nhiên cách phân loại này có
7
nhược điểm là không tính được giá thành cho từng đơn vị sản phẩm do không

phân biệt được chi phí theo mục đích và công dụng.
* Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo chức năng hoạt động
Cách phân loại này căn cứ vào chức năng hoạt động mà chi phí phát sinh
để phân loại. Toàn bộ chi phí được chia thành 2 loại là chi phí sản xuất và chi
phí ngoài sản xuất.
- Chi phí sản xuất: là toàn bộ chi phí liên quan đến việc chế tạo sản phẩm
hoặc dịch vụ trong một thời kỳ nhất định. Đối với các doanh nghiệp sản xuất
công nghiệp, chi phí sản xuất được chia thành 3 loại:
+ Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: bao gồm giá trị của nguyên vật liệu
chính, vật liệu phụ, nhiên liệu,.. dùng trực tiếp cho sản xuất sản phẩm.
+ Chi phí nhân công trực tiếp: bao gồm tiền lương, phụ cấp lương và các
khoản trích theo lương cho các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí
công đoàn của công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm.
+ Chi phí sản xuất chung: là những chi phí cần thiết còn lại để sản xuất sản
phẩm sau chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp. Đây là
những chi phí phát sinh tại phân xưởng, bộ phận sản xuất của doanh nghiệp.
- Chi phí ngoài sản xuất: là các chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thụ
sản phẩm và quản lý chung toàn doanh nghiệp, bao gồm chi phí bán hàng và chi
phí quản lý doanh nghiệp.
+ Chi phí bán hàng: là toàn bộ những chi phí phát sinh cần thiết để tiêu thụ
hàng hoá, sản phẩm; bao gồm các khoản chi phí như vận chuyển, bốc vác, bao
bì, lương nhân viên bán hàng, hoa hồng bán hàng, khấu hao TSCĐ và những chi
phí liên quan đến dự trữ, bảo quản sản phẩm, hàng hoá,..
+ Chi phí quản lý doanh nghiệp: là toàn bộ những chi phí chi ra cho việc tổ
chức và quản lý trong toàn doanh nghiệp. Đó là những chi phí hành chính, kế
toán, quản lý chung..
8
Cách phân loại này giúp kế toán thấy rõ được chức năng của từng khoản
mục chi phí mà không phân biệt chi phí đó có nội dung kinh tế như thế nào.
Cách phân loại này giúp cho nhà quản trị dự toán được các khoản mục chi phí

trọng yếu trong CPSX sản phẩm, cung cấp số liệu cho việc xây dựng kế hoạch
giá thành và quản lý giá thành theo khoản mục chi phí, từ đó xác định nguyên
nhân, đề ra các giải pháp nhằm tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, nâng
cao hiệu quả kinh doanh.
* Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo cách thức kết chuyển chi phí
Toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh được chia thành chi phí sản phẩm và
chi phí thời kỳ.
+ Chi phí sản phẩm: là những chi phí gắn liền với các sản phẩm được sản
xuất ra hoặc được mua. Đối với các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp thì các
chi phí này bảo gồm: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực
tiếp và chi phí sản xuất chung. Chi phí sản phẩm được xem là gắn liền với từng
đơn vị sản phẩm, hàng hoá khi chúng được sản xuất ra hoặc được mua vào,
chúng gắn liền với sản phẩm, hàng hoá tồn kho chờ bán và khi sản phẩm, hàng
hoá được tiêu thụ thì mới trở thành phí tổn để xác định kết quả kinh doanh.
+ Chi phí thời kỳ: là những chi phí làm giảm lợi tức trong một kỳ nào đó,
bao gồm chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp, nó không phải là
một phần giá trị sản phẩm được sản xuất hoặc được mua nên được xem là các
phí tổn, cần được khấu trừ ra từ lợi tức của thời kỳ mà chúng phát sinh. Đối với
các doanh nghiệp có chu kỳ sản xuất kinh doanh dài hoặc trong kỳ không có
hoặc có ít doanh thu thì chúng được tính thành phí tổn của kỳ sau để xác định
kết quả kinh doanh.
9
* Ph ân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo mối quan hệ với đối tượng chịu chi
phí
Cách phân loại này căn cứ vào mối quan hệ giữa chi phí với đối tượng
chịu chi phí để phân loại, chi phí được chia thành 2 loại:
+ Chi phí trực tiếp: là những chi phí liên quan trực tiếp đến đối tượng
chịu chi phí và được hạch toán vào đối tượng có liên quan. Thông thường chi
phí trực tiếp là các chi phí đơn nhất cấu tạo bởi một yếu tố như: chi phí nguyên
vật liệu, chi phí tiền lương,..

+ Chi phí gián tiếp: là những chi phí liên quan đến nhiều đối tượng chịu
chi phí, do đó nó được phân bổ vào các đối tượng có liên quan theo các tiêu
thức nhất định. Chi phí gián tiếp thường là những chi phí tổng hợp của nhiều chi
phí đơn nhất.
* Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo cách ứng xử của chi phí
Với các cách phân loại nêu trên, các chi phí phát sinh được xem là các
thông tin quá khứ, độ lớn của nó chỉ có thể được xác định sau khi các nghiệp vụ
kinh tế phát sinh và thực sự hoàn thành. Chính vì vậy, các cách phân loại chi phí
trên chưa đáp ứng được nhu cầu thông tin cho các nhà quản trị trong việc xác
định các xu hướng biến động và mối quan hệ giữa chi phí phát sinh, sản lượng
thực hiện và lợi nhuận thu được; lập kế hoạch và lựa chọn các phương án kinh
doanh hiệu quả nhất.
Phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí thường được áp dụng
trong kế toán quản trị, cách phân loại này sẽ khắc phục những hạn chế kế trên.
Nguyên tắc phân loại dựa trên mối quan hệ của chi phí phát sinh với mức độ,
quy mô của hoạt động làm phát sinh chi phí ấy. Theo cách phân loại này, chi
phí được chia thành biến phí (chi phí biến đổi), định phí (chi phí cố định) và chi
phí hỗn hợp.
10
+ Biến phí: là những khoản mục chi phí mà độ lớn của nó có quan hệ tỷ
lệ thuận với mức độ hoạt động. Tuỳ thuộc vào đặc điểm và nội dung cụ thể của
hoạt động mà người ta lựa chọn tiêu thức phù hợp để xác định mức độ hay quy
mô của hoạt động tương ứng. Chẳng hạn, với hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm, mức độ hoạt động được xác định qua sản lượng sản xuất hoặc sản lượng
tiêu thụ.
Biến phí có đặc điểm là tổng biến phí tỷ lệ thuận với mức độ hoạt động
còn biến phí đơn vị thì mang tính ổn định, không biến động khi mức độ hoạt
động thay đổi.
Biến phí thường bao gồm các khoản mục chi phí trực tiếp trong quá trình
sản xuất và tiêu thụ sản phẩm như: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí

nhân công trực tiếp,..
+ Định phí: là những khoản mục chi phí mà độ lớn của nó không đổi về
tổng số khi mức độ hoạt động thay đổi trong phạm vi phù hợp. Phạm vi phù hợp
là phạm vi giữa mức độ hoạt động tối thiểu mà mức độ hoạt động tối đa mà đơn
vị dự tính thực hiện.
Định phí có đặc điểm là tổng định phí ổn định, không biến động khi mức
độ hoạt động thay đổi còn định phí đơn vị tỷ lệ nghịch với mức độ hoạt động.
Định phí thường bao gồm các khoản chi phí gián tiếp như các chi phí về
khấu hao tài sản cố định, chi phí thuê mặt bằng, phương tiện kinh doanh...
+ Chi phí hỗn hợp: là loại chi phí bao gồm cả yếu tố biến phí và yếu tố
định phí, chẳng hạn như chi phí điện thoại, chi phí sửa chữa thường xuyên tài
sản cố định. Ở một khối lượng sản phẩm sản xuất nhất định thì chi phí hỗn hợp
thể hiện đặc điểm của định phí, vượt trên khối lượng đó thì chi phí hỗn hợp thể
hiện đặc điểm của biến phí.
11
1.1.2 Giá thành sản phẩm và các loại giá thành sản phẩm
1.1.2.1 Giá thành sản phẩm
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí
về lao động sống và lao động vật hoá có liên quan đến khối lượng công tác, sản
phẩm, lao vụ đã hoàn thành.
Về mặt bản chất chi phí và giá thành sản phẩm giống nhau, nghĩa là cùng
biểu hiện bằng tiền những hao phí về lao động sống và lao động vật hóa bỏ ra,
nhưng khác nhau về mặt lượng. Khi nói đến chi phí sản xuất là giới hạn chúng
cho một thời kỳ nhất định, không phân biệt là cho loại sản phẩm nào, đã hoàn
thành hay chưa, còn khi nói đến giá thành sản phẩm là nói là xác định một
lượng chi phí sản xuất nhất định, tính cho một đại lượng kết quả hoàn thành
nhất định. Đứng trên giác độ quá trình hoạt động để xem xét, thì quá trình sản
xuất là một quá trình hoạt động liên tục, còn việc tính giá thành sản phẩm là một
điểm cắt có tính chu kỳ để so sánh chi phí với đại lượng kết quả, nên tại thời
điểm tính giá thành có thể có khối lượng sản phẩm chưa hoàn thành, chứa đựng

một lượng chi phí cho nó, gọi là chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ. Tương tự như
vậy, đầu kỳ có thể có một lượng sản phẩm sản xuất chưa hoàn thành ở kỳ trước
chuyển sang kỳ này để tiếp tục sản xuất chứa đựng một lượng chi phí sản xuất
cho nó, gọi là chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ. Như vậy giá thành sản phẩm
hoàn thành trong kỳ bao gồm chi phí sản xuất của kỳ trước chuyển sang và một
phần chi phí phát sinh trong kỳ. Hơn nữa, giá thành sản phẩm mang tính chủ
quan, phụ thuộc vào những phương pháp tính toán phân bổ như việc ghi nhận
trước vào giá thành sản phẩm những khoản được coi là chi phí nhưng thực tế
chưa phát sinh hoặc những chi phí thực tế đã chi ra nhưng được phân bổ cho
nhiều kỳ, nhằm đảm bảo một sự ổn định tương đối cho giá thành sản phẩm qua
các thời kỳ.
12
1.1.2.2 Các loại giá thành sản phẩm
Để đáp ứng yêu cầu quản lý, hạch toán và kế hoạch hoá, giá thành được
xem xét dưới nhiều góc độ, nhiều phạm vi tính toán khác nhau, có nhiều cách
phân loại giá thành khác nhau.
Xét theo thời điểm tính và nguồn số liệu để tính giá thành, giá thành được
chia làm ba loại:
+ Giá thành kế hoạch: là giá thành được xác định trước khi bước vào kinh
doanh trên cơ sở giá thành thực tế kỳ trước và các định mức, dự toán chi phí của
kỳ kế hoạch. Giá thành kế hoạch là mục tiêu phấn đấu, là căn cứ để phân tích,
đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch giá thành, thực hiện nhiệm vụ hạ giá
thành, tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
+ Giá thành định mức: được xác định trước khi bắt đầu sản xuất sản
phẩm. Trong khi giá thành kế hoạch được xây dựng trên cơ sở các định mức
bình quân tiên tiến và không biến đổi trong suốt cả kỳ kế hoạch thì giá thành
định mức được xây dựng trên cơ sở các định mức chi phí hiện hành tại từng thời
điểm nhất định trong kỳ kế hoạch nên giá thành định mức luôn thay đổi phù hợp
với các thay đổi của các định mức chi phí đạt được trong quá trình sản xuất.
+ Giá thành thực tế: là chi tiêu được xác định sau khi kết thúc quá trình

sản xuất sản phẩm trên cơ sở các chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất sản
phẩm. Giá thành thực tế là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả phấn đấu của
doanh nghiệp trong việc tổ chức và sử dụng vật tư, lao động, tiền vốn trong việc
vận dụng các giải pháp về kinh tế, tổ chức, kỹ thuật,… để tiến hành quá trình
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, là căn cứ để nhà quản lý xem xét, định
giá bán sản phẩm và xác định nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước đồng thời phân
chia kết quả kinh doanh.
13
Cách phân loại này có tác dụng trong việc quản lý và giám sát chi phí,
xác định được nguyên nhân vượt hay hụt định mức chi phí trong kỳ hạch toán từ
đó để có biện pháp điều chỉnh chi phí cho phù hợp.
Xét theo phạm vi phát sinh chi phí, giá thành được chia thành hai loại:
+ Giá thành sản xuất (giá thành công xưởng) là chỉ tiêu phản ánh tất cả
những chi phí phát sinh liên quan đến sản xuất, chế tạo sản phẩm trong phạm vi
phân xưởng, bộ phận sản xuất, bao gồm chi phí vật liệu trực tiếp, nhân công
trực tiếp và chi phí sản xuất chung.
+ Giá thành tiêu thụ (giá thành toàn bộ) là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các
khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm (chi phí
sản xuất, quản lý và bán hàng). Giá thành tiêu thụ còn được gọi là giá thành đầy
đủ hay giá thành toàn bộ và được tính theo công thức:
Giá thành toàn bộ =
Giá thành sản
xuất sản phẩm
+
Chi phí quản lý
doanh nghiệp
+
Chi phí tiêu
thụ sản phẩm
1.1.3 Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm

Giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau vì quá trình sản xuất là một quá trình thống nhất bao gồm hai mặt: hao phí
sản xuất và kết quả sản xuất. Cả chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm đều là
biểu hiện bằng tiền của những chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra cho hoạt động
sản xuất. Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai chỉ tiêu kinh tế trong đó
chi phí sản xuất phản ánh hao phí sản xuất còn giá thành sản phẩm phản ánh
mặt kết quả sản xuất.
Hơn nữa trong công tác hạch toán kế toán, kế toán tập hợp chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm là hai công việc liên tiếp và có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Chi phí sản xuất là cơ sở để tính giá thành sản phẩm, sự tiết
kiệm hay lãng phí chi phí sản xuất có thể ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm.
Đồng thời công tác tập hợp chi phí sản xuất chính xác, đầy đủ, một cách khoa
học và hợp lý sẽ làm tăng tính chính xác của thông tin giá thành sản phẩm.
14
Tuy nhiên giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có những điểm
khác nhau. Về mặt thời gian, chi phí sản xuất gắn liền với một thời kỳ nhất định
còn giá thành sản phẩm liên quan đến nhiều kỳ. Về mặt giá trị, chi phí sản xuất
bao gồm toàn bộ chi phí bỏ ra trong kỳ sản xuất kinh doanh không tính đến việc
chi phí đó có liên quan đến khối lượng sản phẩm đã hoàn thành hay chưa trong
khi đó giá thành sản phẩm là chỉ tiêu luôn gắn với sản phẩm hoàn thành, bao
gồm những chi phí tính cho khối lượng sản phẩm hoàn thành trong kỳ mà
không tính đến chi phí đó phát sinh ở kỳ nào.
Ta có công thức thể hiện mối liên hệ giữa giá thành sản phẩm và chi phí
sản xuất như sau:
Tổng giá thành
sp hoàn thành
=
Chi phí sản
xuất DDĐK
+

Chi phí sản xuất phát sinh
trong kỳ (đã trừ các khoản
thu hồi ghi giảm chi phí)
-
Chi phí sản
xuất DDCK
Như vậy, nếu giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ và cuối kỳ bằng nhau hay
không có sản phẩm dở dang thì tổng giá thành sản phẩm bằng tổng chi phí sản
xuất phát sinh trong kỳ. Nói một cách khác, chi phí sản xuất ảnh hưởng trực tiếp
đến giá thành sản phẩm.
1.2 Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm tại doanh
nghiệp sản xuất công nghiệp
Chi phí sản xuất trong doanh nghiệp sản xuất bao gồm nhiều loại với nội
dung kinh tế, công dụng, địa điểm phát sinh khác nhau. Do đó để hạch toán
đúng đắn chi phí sản xuất cần xác định những phạm vi, giới hạn mà chi phí sản
xuất cần tập hợp - đối tượng tập hợp chi phí sản xuất.
Xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là khâu đầu tiên, cần thiết cho
công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất. Doanh nghiệp chỉ có thể tổ chức tốt
công tác kế toán chi phí sản xuất nếu xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất
phù hợp với đặc điểm sản xuất, yêu cầu quản lý chi phí sản xuất của doanh
nghiệp.
15
Để xác định đúng đắn đối tượng tập hợp chi phí sản xuất cần căn cứ vào
đặc điểm tổ chức sản xuất của doanh nghiệp, quy trình công nghệ sản xuất sản
phẩm địa đIểm phát sinh chi phí, mục đích, công dụng của chi phí, yêu cầu và
trình độ quản lý của doanh nghiệp.
Từ những căn cứ nói trên, đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là nơi phát
sinh và nơi chịu chi phí, đối tượng tập hợp chi phí sản xuất có thể là: từng phân
xưởng, bộ phận, đội sản xuất hoặc toàn doanh nghiệp, từng giai đoạn công nghệ
hoặc toàn bộ qui trình công nghệ, từng sản phẩm, đơn đặt hàng, từng nhóm sản

phẩm hoặc bộ phận, chi tiết sản phẩm.
Đối tượng tính giá thành là khái niệm dùng để chỉ một khối lượng kết quả
hoàn thành cần phải tính giá thành. Hay nói cách khác, đó chính là các sản
phẩm, nửa thành phẩm, công việc, lao vụ, dịch vụ do doanh nghiệp sản xuất ra
cần phải xác định tổng giá thành và giá thành đơn vị.
Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản
phẩm là hai khái niệm khác nhau nhưng có mối quan hệ mật thiết. Việc xác
định hợp lý đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là điều kiện để tính giá thành
theo các đối tượng tính giá thành trong doanh nghiệp. Trong thực tế, một đối
tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể trùng với một đối tượng tính giá thành.
Trong nhiều trường hợp khác một đối tượng hạch toán chi phí sản xuất lại bao
gồm nhiều đối tượng tính giá thành sản phẩm. Ngược lại, một đối tượng tính giá
thành cũng có thể bao gồm nhiều đối tượng hạch toán chi phí sản xuất. Mối
quan hệ giữa đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành
sẽ quyết định việc lựa chọn phương pháp tính giá thành và kỹ thuật tính giá
thành ở doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp căn cứ trên các cơ sở khác nhau để phân biệt đối tượng
hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành ngay cả khi chúng đồng
nhất là một.
16
- Nếu căn cứ vào đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất: sản xuất giản
đơn hay phức tạp
Với sản xuất giản đơn: đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là sản
phẩm hay toàn bộ quá trình sản xuất (nếu sản xuất một thứ sản phẩm) hoặc có
thể là nhóm sản phẩm (nếu sản xuất nhiều thứ sản phẩm cùng tiến hành trong
một quá trình lao động). Đối tượng tính giá thành ở đây là sản phẩm cuối cùng.
Với sản xuất phức tạp: đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là bộ
phận, chi tiết sản phẩm, các giai đoạn chế biến, phân xưởng sản xuất hoặc nhóm
chi tiết, bộ phận sản phẩm,… còn đối tượng tính giá thành là thành phẩm ở
bước chế tạo cuối cùng hay bán thành phẩm ở từng bước chế tạo.

- Nếu căn cứ vào loại hình sản xuất: đơn chiếc, sản xuất hàng loạt nhỏ hay
sản xuất hàng loạt với khối lượng lớn.
Với sản xuất đơn chiếc và sản xuất nhỏ hàng loạt: đối tượng hạch toán chi
phí là các đơn đặt hàng riêng biệt, còn đối tượng tính giá thành là sản phẩm của
từng đơn.
Với sản xuất hàng loạt với khối lượng lớn: phụ thuộc vào quy trình công
nghệ sản xuất (đơn giản hay phức tạp) mà đối tượng hạch toán chi phí sản xuất
có thể là sản phẩm, chi tiết, nhóm chi tiết, giai đoạn công nghệ… còn đối tượng
tính giá thành có thể là sản phẩm cuối cùng hay bán thành phẩm.
- Nếu căn cứ vào yêu cầu và trình độ quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh:
dựa trên cơ sở trình độ, yêu cầu và tổ chức quản lý để xác định đối tượng hạch
toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành. Với trình độ cao, có thể chi
tiết đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành ở các góc độ khác
nhau, ngược lại nếu trình độ thấp thì đối tượng đó có thể bị hạn chế và thu hẹp
lại.
Việc xác định rõ mối quan hệ và sự khác nhau giữa đối tượng hạch toán
chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành là vấn đề có ý nghĩa lớn, mang tính
17
định hướng cho tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Đồng thời thể hiện được mục đích và phạm vi tiến hành hai giai đoạn của công
tác kế toán nêu trên.
1.3 Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại
các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp
1.3.1 Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại
các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp dưới góc độ kế toán tài chính
Do sự khác nhau cơ bản giữa đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối
tượng tính giá thành mà có sự phân biệt giữa phương pháp hạch toán chi phí sản
xuất và phương pháp tính giá thành sản phẩm. Phương pháp hạch toán chi phí
sản xuất là một phương pháp hay hệ thống các phương pháp được sử dụng để
tập hợp và phân loại các chi phí sản xuất trong phạm vi giới hạn của đối tượng

hạch toán chi phí, còn phương pháp tính giá thành là một phương pháp hoặc hệ
thống phương pháp được sử dụng để tính giá thành cho một đơn vị sản phẩm,
nó mang tính thuần túy kỹ thuật tính toán chi phí cho từng đối tượng tính giá
thành.
1.3.1.1 Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất
Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất là một phương pháp hay hệ
thống các phương pháp được sử dụng để tập hợp và phân loại các chi phí sản
xuất trong phạm vi giới hạng của đối tượng hạch toán chi phí. Về cơ bản,
phương pháp hạch toán chi phí bao gồm các phương pháp hạch toán chi phí
theo sản phẩm, theo đơn đặt hàng, theo giai đoạn công nghệ, theo phân xưởng,
theo nhóm sản phẩm,… Thông thường các doanh nghiệp sử dụng phương pháp
tập hợp chi phí sản xuất trực tiếp và phương pháp tập hợp chi phí sản xuất gián
tiếp.
Phương pháp tập hợp trực tiếp áp dụng cho những chi phí có thể xác định
được đối tượng chịu chi phí ngay từ khi phát sinh. Căn cứ vào chứng từ ban
18
đầu, kế toán hạch toán vào tài khoản phù hợp theo từng loại và chi tiết theo từng
đối tượng tập hợp chi phí. Sử dụng phương pháp này đòi hỏi công tác hạch toán
phải được tổ chức chặt chẽ, tỉ mỉ theo đúng đối tượng chịu chi phí.
Trong khi đó, phương pháp tập hợp chi phí sản xuất gián tiếp được sử
dụng trong trường hợp không xác định mức chi phí cho từng đối tượng riêng
biệt. Các chi phí phát sinh được tập hợp vào một tài khoản chung, sau đó phân
bổ cho từng đối tượng chịu chi phí theo các tiêu thức phân bổ thích hợp. Tiêu
thức phân bổ chi phí có thể là tổng giờ công lao động trực tiếp, tổng tiền lương
sản phẩm… Các tiêu thức phân bổ được lựa chọn trên cơ sở mối liên hệ trực
tiếp và mối tương quan tỉ lệ thuận với chi phí cần phân bổ đồng thời việc phân
bổ phải đơn giản, dễ tính toán. Việc phân bổ chi phí được thực hiện theo các
bước:
Bước 1: Xác định hệ số phân bổ
Bước 2: Xác định mức chi phí phân bổ cho từng đối tượng

* Nội dung kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại các
doanh nghiệp sản xuất công nghiệp
Tùy theo phương pháp hạch toán hàng tồn kho áp dụng trong doanh
nghiệp mà công tác kế toán chi phí sản xuất được thực hiện theo một trong hai
phương pháp: phương pháp kê khai thường xuyên (KKTX) và phương pháp
kiểm kê định kỳ (KKĐK). Khảo sát tại các doanh nghiệp sản xuất dược phẩm,
các doanh nghiệp đều áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên vì nguyên
vật liệu có giá trị lớn, cần theo dõi cụ thể, chi tiết.
* Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp là chi phí có liên quan trực tiếp đến từng
đối tượng hạch toán chi phí. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bao gồm giá trị
nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, .. được xuất dùng trực tiếp cho
việc chế tạo sản phẩm. Đối với những vật liệu xuất dùng có liên quan trực tiếp
19
đến từng đối tượng tập hợp chi phí riêng biệt (phân xưởng, bộ phận sản xuất
hoặc sản phẩm, loại sản phẩm, lao vụ...) thì hạch toán trực tiếp cho đối tượng
đó. Trường hợp vật liệu xuất dùng có liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi
phí, không thể tổ chức hạch toán riêng được thì phải áp dụng biện pháp phân bổ
gián tiếp để phân bổ chi phí cho các đối tượng có liên quan. Tiêu thức phân bổ
thường được sử dụng là phân bổ theo định mức tiêu hao, theo hệ số, theo trọng
lượng, số lượng sản phẩm. Để tính toán tập hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
chính xác, kế toán cần kiểm tra số nguyên vật liệu đã lĩnh nhưng cuối kỳ chưa
sử dụng hết, giá trị phế liệu thu hồi nếu có để loại ra khỏi chi phí nguyên vật
liệu trực tiếp trong kỳ.
Chi phí
NVLTT
thực tế
sử dụng
trong
kỳ

=
Trị giá thực tế
của NVL xuất
kỳ trước chưa sử
dụng đến chuyển
sang kỳ này
+
Trị giá thực
tế của NVL
xuất đưa vào
trực tiếp chế
tạo sản phẩm
trong kỳ
-
Trị giá thực tế của NVL
xuất dùng để chế tạo
sản phẩm còn lại cuối
kỳ chưa sử dụng
-
Giá trị
phế liệu
thu hồi
Để phản ánh, tập hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp phát sinh trong quá
trình sản xuất kế toán sử dụng tài khoản 621- “Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
Quá trình tập hợp, phân bổ và kết chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp theo
sơ đồ 1.1
20
Sơ đồ 1.1: Sơ đồ hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
(Theo phương pháp kê khai thường xuyên)
* Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp

CPNCTT là những khoản tiền trả cho công nhân trực tiếp sản xuất sản
phẩm, trực tiếp thực hiện các lao vụ dịch vụ, như tiền lương chính, lương phụ
và các khoản đóng góp cho các quĩ BHXH, BHYT, KPCĐ do đơn vị sử dụng
lao động chịu và được tính vào chi phí kinh doanh theo một tỷ lệ nhất định với
số tiền lương phải trả của công nhân trực tiếp sản xuất.
Đối với CPNCTT có liên quan trực tiếp đến từng đối tượng chịu chi phí thì
căn cứ vào chứng từ gốc tập hợp trực tiếp cho từng đối tượng có liên quan.
Trường hợp CPNCTT có liên quan trực tiếp đến nhiều đối tượng tập hợp
thì áp dụng phương pháp tập hợp và phân bổ gián tiếp. Tiêu chuẩn phân bổ
thường là: chi phí tiền lương định mức, chi phí tiền lương kế hoạch, giờ công
định mức, hoặc giờ công thực tế, khối lượng SP sản xuất.
CPNCTT được phản ánh và tập hợp trên TK 622 - " Chi phí nhân công
trực tiếp”. Cuối kỳ, kế toán thực hiện kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp từ
tài khoản này sang tài khoản 154 - "Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang” để
21
TK 154
TK 111, 112, 331
VAT đầu vào
được khấu trừ
TK 133
Trị giá NVL mua ngoài
dùng trực tiếp vào sản xuất
Trị giá NVL thực tế dùng
trực tiếp sản xuất
Trị giá NVL xuất kho dùng
trực tiếp vào sản xuất
Trị giá NVL còn chưa
sử dụng
TK 152
TK 621

TK 152
xác định giá thành sản phẩm hoàn thành. Quá trình tập hợp, phân bổ và kết
chuyển chi phí nhân công trực tiếp theo sơ đồ 1.2.
Sơ đồ 1.2: Sơ đồ hạch toán chi phí nhân công trực tiếp
(Theo phương pháp kê khai thường xuyên)


* Hạch toán chi phí sản xuất chung
Chi phí sản xuất chung là những khoản chi phí phát sinh trong phạm vi
phân xưởng, bộ phận sản xuất còn lại ngoài chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và
chi phí nhân công trực tiếp kể trên. Theo nội dung kinh tế của chi phí: chi phí
sản xuất chung bao gồm: Chi phí nhân viên phân xưởng, chi phí vật liệu, chi phí
dụng cụ sản xuất, chi phí khấu hao tài sản cố định, chi phí dịch vụ mua ngoài,
chi phí bằng tiền khác.
Để hạch toán, tập hợp chi phí sản xuất chung, kế toán sử dụng tài khoản
627 - "Chi phí sản xuất chung". Cuối kỳ, kế toán thực hiện kết chuyển chi phí
sản xuất chung sang tài khoản 154 - "Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang” để
xác định giá thành sản phẩm hoàn thành. Trong trường hợp chi phí sản xuất
chung liên quan đến nhiều đối tượng tính giá thành, kế toán phải tiến hành phân
bổ theo tiêu thức phù hợp. Những tiêu thức thường được sử dụng là chi phí
nhân công trực tiếp, tiền lương công nhân sản xuất, chi phí định mức, số giờ
máy,..
22
TK 334
TK 338
TK 622 TK 154
Lương chính, lương phụ,
phụ cấp trả cho CNTT sx
Trích BHXH, BHYT,
KPCĐ theo tiền lương của

CNSX
Kết chuyển CPNCTT
Quá trình tập hợp, phân bổ và kết chuyển CPSXC theo sơ đồ 1.3
Sơ đồ 1.3: Sơ đồ hạch toán chi phí sản xuất chung
(Theo phương pháp kê khai thường xuyên)
23
Chi phí vật liệu, dụng cụ
phục vụ sản xuất
Chi phí bằng tiền khác
Phân bổ, trích trước các
khoản chi phí sản xuất
Chi phí khấu hao TSCĐ
Phân bổ và kết chuyển chi
phí sản xuất chung
Lương và các khoản trích
theo lương của nhân viên PX
TK 214
TK 152, 153
TK 142, 335
TK 111, 112
TK 154
TK627
TK 334, 338
Chi phí vật liệu, dụng cụ
phục vụ sản xuất
* Hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất sau khi được hạch toán riêng theo từng khoản mục:
CPNVLTT, CPNCTT và CPSXC cần được kết chuyển để hạch toán chi phí sản
xuất toàn doanh nghiệp chi tiết theo từng đối tượng hạch toán chi phí sản xuất.
Để phản ánh quá trình tổng hợp chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ theo phương

pháp kê khai thường xuyên, kế toán sử dụng TK 154 - CPSXKDDD. TK này
được mở chi tiết theo từng ngành sản xuất, từng nơi phát sinh chi phí hay từng
loại sản phẩm, nhóm sản phẩm, chi tiết sản phẩm, từng loại lao vụ, dịch vụ...
của các bộ phận sản xuất - kinh doanh chính, sản xuất kinh doanh phụ (kể cả
thuê ngoài gia công chế biến)
Hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất được khái quát qua sơ đồ 1.4
Sơ đồ 1.4: Sơ đồ hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất
(Theo phương pháp kê khai thường xuyên)
24
TK 621
TK 622
TK 627
TK 154 TK 152
TK 138
TK 155
TK 632
TK 157
Kết chuyển CPNVLTT
Kết chuyển CPNCTT
Kết chuyển CPSXC
Phế liệu thu hồi do
sản phẩm hỏng
Bồi thường phải thu do
sản phẩm hỏng
Giá thành thành phẩm
nhập kho
Giá thành sản phẩm
bán không qua kho
Giá thành sản phẩm
gửi bán

1.3.1.2 Phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang
Sản phẩm dở dang là những sản phẩm chưa kết thúc giai đoạn chế biến
còn nằm trong quá trình sản xuất. Để tính được giá thành sản phẩm, doanh
nghiệp cần tiến hành kiểm kê đánh giá sản phẩm dở dang. Sở dĩ các doanh
nghiệp phải kiểm kê đánh giá sản phẩm dở dang là do trong toàn bộ các chi phí
tập hợp được như CPNVLTT, CPNCTT và CPSXC là bao gồm cả giá trị sản
phẩm dở dang nhưng phần chi phí được tính vào giá thành sản phẩm lại không
bao gồm giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ. Do đó, giá thành sản phẩm có được
tính đúng, tính đủ hay không phụ thuộc vào việc giá trị sản phẩm dở dang có
được tính chính xác hay không. Chính vì vậy, doanh nghiệp cần lựa chọn
phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang phù hợp với đặc điểm tổ chức sản
xuất, quy trình công nghệ sản xuất và tính chất sản phẩm của doanh nghiệp.
Tuỳ thuộc vào đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh, tỷ trọng của các chi
phí tham gia vào quá trình sản xuất sản phẩm, yêu cầu trình độ quản lý của
doanh nghiệp mà doanh nghiệp có thể lựa chọn một trong các phương pháp
đánh giá sản phẩm dở dang như sau:
* Đánh giá theo chi phí nguyên vật liệu chính
Theo phương pháp này toàn bộ chi phí chế biến được tính hết cho thành
phẩm chịu, giá trị sản phẩm dở dang chỉ bao gồm phần chi phí vật liệu chính
xuất dùng để sản xuất sản phẩm.
Giá trị SPDD
cuối kỳ
=
Toàn bộ giá trị vật liệu chính xuất dùng
Số lượng SPHT + Số lượng SPDD cuối kỳ
x
Số lượng
SPDD cuối kỳ
Phương pháp trên có ưu điểm là tính toán đơn giản, khối lượng công việc
tính toán ít, nhưng độ chính xác không cao vì chỉ tính vào sản phẩm dở dang

khoản chi phí nguyên vật liệu chính. Do đó áp dụng phương pháp này trong
trường hợp chi phí nguyên vật liệu chính chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí
25

×